Bản giao hưởng Pháp - Phần I - Chương 18

18

Cùng với những người gặp trên đường, cuối cùng Hubert đã đến được bên bờ sông Allier. Đó là thứ Hai ngày 17 tháng Sáu vào lúc buổi trưa. Dọc đường, những người tình nguyện nhập vào với đoàn lính - quân tự vệ cơ động, lính Sénégal, những quân nhân thuộc các đại đội bại trận đang cố gấng một cách vô hiệu để tổ chức lại và bám vào mỗi một đợt sóng kháng cự với sự dũng cảm đầy tuyệt vọng, những cậu bé như Hubert Péricand bị lạc gia đình trên đường chạy loạn hay bỏ nhà ra đi vào ban đêm “để gia nhập quân đội”. Những ngôn từ thần diệu ấy lan từ làng này sang làng khác, từ trang trại này sang trang trại khác. “Chúng ta sẽ gia nhập quân đội, thoát khỏi bọn Đức, tổ chức lại ở bên kia bờ sông Loire,” những cái miệng mười sáu tuổi lặp đi lặp lại. Những đứa trẻ này đeo ba lô nhỏ trên lưng (trong đó đựng chỗ còn lại của bữa ăn lót dạ hôm trước được người mẹ đẫm nước mắt cuốn lại vội vã trong một chiếc áo len và một chiếc áo sơ mi); chúng có khuôn mặt hồng hào và tròn trịa, những ngón tay dính mực, giọng nói đang vỡ. Ba đứa trong số đó đi cùng với bố, những chiến binh của năm 14 mà tuổi tác, những vết thương cũ và hoàn cảnh gia đình của họ đã giữ họ tránh xa được lửa đạn từ hồi tháng Chín. Sở chỉ huy của tiểu đoàn trưởng đặt phía dưới một chiếc cầu đá gần chỗ đường sắt chạy cắt ngang đường bộ. Hubert đếm được gần hai trăm người trên đường và trên bờ sông. Do thiếu kinh nghiệm cậu tưởng rằng giờ đây đã có được một đội quân hùng mạnh để đương đầu với quân địch. Cậu thấy trên chiếc cầu đá có đặt những thùng thuốc nổ: có điều cậu không biết rằng người ta không thể tìm được dây Pickfort để châm ngòi. Những người lính lẳng lặng làm việc hoặc nằm ngủ trên nền đất. Họ không ăn gì từ hôm trước. Đến gần tối người ta phân phát các chai bia. Hubert không đói nhưng thứ bia vàng ruộm này với vị đắng và lớp bọt men ủ lâu của nó đã đem lại cho cậu một cảm giác hạnh phúc. Cậu cần điều đó để lấy thêm can đảm. Quả thực hình như chẳng có ai cần đến cậu. Cậu đi từ người này sang người khác, rụt rè đề nghị giúp đỡ mọi người; người ta không trả lời cậu, người ta thậm chí chẳng nhìn đến cậu. Cậu trông thấy hai người lính kéo rơm và củi về phía cầu, một người khác đẩy một thùng nhựa đường. Hubert chộp lấy một bó củi to đùng nhưng cậu vụng về đến nỗi bị gai đâm vào tay và cậu khẽ kêu lên một tiếng đau đớn. Một lát sau, lúc khối củi nặng ấy cuối cùng cũng được trút xuống trước cầu, cậu đã nghĩ rằng lúc nãy không ai nghe thấy mình kêu thì lại tưởng như chết đi được vì xấu hổ khi bị một người đàn ông quát lên:

- Cậu làm cái trò gì ở đây vậy? Cậu không thấy là cậu gây vướng víu sao? Hả?

Bị tổn thương trong lòng, Hubert lảng ra xa. Đứng bất động trên con đường Saint-Pourçain, đối diện với dòng sông Allier, cậu thấy mọi người đang hoàn thành một công việc thật khó hiểu đối với cậu: rơm và củi tưới nhựa đường được đặt trên cầu bên cạnh một bi đông xăng năm chục lít; người ta trông đợi vào cái thành chắn này để chặn bước quân địch trong khi chỉ cần một khẩu đại bác 75 là có thể làm nổ tung thuốc nổ được rồi.

Phần còn lại của ngày trôi qua như vậy, rồi sau đó là đêm và cả buổi sáng tiếp theo: những giờ nhàn rỗi, lạ lùng, rời rạc như một cơn sốt. Vẫn chẳng có gì để ăn, chẳng có gì để uống. Những chàng nông dân trẻ cũng đã mất đi màu da tươi tắn và, nhợt nhạt vì đói, đen sạm vì bụi bặm, đầu tóc rối bù, mắt cháy rực, họ đột nhiên trông có vẻ già hơn, lớn hơn, với một vẻ bướng bỉnh, đau đớn và cứng rắn.

Lúc đó là hai giờ khi trên bờ bên kia xuất hiện những tên Đức đầu tiên. Đây là đoàn quân cơ giới đã đi qua Paray-le-Monial chính buổi sáng hôm ấy. Hubert, miệng há hốc, nhìn bọn chúng xông lên cầu, với một tốc độ kinh khủng, như một tia chớp hoang dã và hung hãn lóe sáng qua làng quê thanh bình. Điều đó chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc: một cú đại bác làm nổ tung những thùng thuốc nổ xếp thành tường chắn. Những mảnh vỡ của cầu, máy móc dụng cụ, những người đang lắp những thứ đó đều rơi xuống sôngAllier. Hubert thấy những người lính chạy phía trước cậu.

“Đến lúc rồi! Quân ta tiến lên tấn công,” cậu nghĩ, và da cậu ớn lạnh, cổ họng cậu khô lại như hồi bé, mỗi lần cậu nghe thấy những hòa âm đầu tiên của quân nhạc ngoài đường phố. Cậu lao về phía trước và đến dựa vào đống rơm củi đang được nhóm lên. Khói đen của nhựa đường xộc vào miệng vào mũi cậu. Đằng sau bức mành che chở này, những khẩu súng máy chặn xe tăng Đức lại. Ngạt thở, ho, hắt hơi, Hubert bò vài bước về phía sau. Cậu tuyệt vọng. Cậu không có vũ khí. Cậu chẳng làm gì cả. Mọi người chiến đấu còn cậu thì đứng khoanh tay, trơ ra, vô tích sự. Cậu tự an ủi đôi chút với ý nghĩ rằng xung quanh cậu người ta cũng chỉ đành chịu đựng hỏa lực địch mà không đáp trả. Cậu lấy những lý do chiến thuật cao siêu để giải thích điều đó cho tới lúc cậu hiểu ra rằng mọi người gần như không có đạn. Tuy nhiên, cậu tự nhủ, bởi vì chúng ta được yêu cầu trấn lại ở đây, thì có nghĩa rằng chúng ta là cần thiết, chúng ta là có ích, chúng ta bảo vệ, biết đâu đấy, bộ phận trọng yếu của quân đội Pháp. Từng khoảnh khắc một, cậu chờ được trông thấy những đoàn quân tấn công đầy sinh lực xông lên về phía họ trên con đường Saint-Pourcain miệng thét vang: “Chúng tôi đây, các bạn trẻ, đừng lo! Chúng ta sẽ chiến thắng bọn chúng!” hoặc là những tiếng hô xung chiến khác. Nhưng chẳng có ai đến cả. Bên cạnh mình cậu nhìn thấy một người, đầu đẫm máu, lảo đảo như say rượu và cuối cùng ngã vào một lùm cây và ngồi lại giữa những cành cây trong một tư thế kỳ quặc và bất tiện, cằm gục xuống ngực và đầu gối co lại. Cậu nghe thấy một sĩ quan kêu lên tức giận:

- Không có bác sĩ, không có y tá, không có cứu thương! Biết làm gì được cơ chứ!

Ai đó trả lời ông ta:

- Có một người bị thương trong khu vườn của trạm thuế nhập thị.

- Tôi biết làm gì được cơ chứ, trời ơi! - viên sĩ quan nhắc lại. – cứ để anh ta đấy.

Những quả trái phá đã làm bốc cháy một phần thành phố. Trong ánh sáng rực rỡ của tháng Sáu, những ngọn lửa rực lên một màu hồng trong suốt và một cột khói cao bốc lên cuồn cuộn trên bầu trời, điểm xuyết sắc vàng óng của những tia nắng, với những ánh phản chiếu màu lưu huỳnh và màu tro.

- Các cậu kia đang rời khỏi đây, - một người lính vừa nói với Hubert vừa chỉ cho cậu thấy những xạ thủ súng máy đang rời bỏ chiếc cầu sắt.

- Tại sao? - Hubert rụng rời thét lên. - Họ không chiến đấu nữa à?

- Bằng cái gì cơ chứ?

“Đây là một tai họa,” Hubert thở dài. “Đây là một thất bại! Mình đang tham dự vào một cuộc đại bại, tồi tệ hơn cả trậnWaterloo. Tất cả chúng ta thế là thôi rồi, mình sẽ không còn được gặp lại mẹ hay bất cứ người thân nào nữa. Mình sắp chết rồi.” Cậu cảm thấy mình như người mất hồn, thờ ơ với tất cả, trong một tình trạng mệt mỏi và tuyệt vọng khủng khiếp. Cậu không nghe thấy lệnh rút quân đang được ban ra. Cậu thấy mọi người đang chạy dưới làn đạn súng máy, cậu xông lên, trèo qua hàng rào của một khu vườn trong đó vẫn còn một cỗ xe trẻ con để quăng quật. Tuy nhiên trận chiến vẫn chưa ngừng. Không xe tăng, không đại pháo, không đạn dược, họ vẫn đang bảo vệ một vài mét đất, một cái đầu cầu trong khi ở khắp mọi nơi quân Đức thắng trận đang ồ ạt tràn vào đất Pháp. Một cơn dũng cảm đầy tuyệt vọng, giống như một sự điên rồ bất thình lình xâm chiếm Hubert. Cậu nghĩ rằng cậu đang bỏ trốn, rằng nghĩa vụ của cậu là phải trở lại phía lửa đạn, phía những khẩu trung liên mà cậu vẫn còn nghe thấy đang ngoan cường đáp trả những khẩu tiểu liên Đức, và chết cùng với những người lính ấy. Cái chết rập rình từng giây, cậu lại đi xuyên qua khu vườn, chân giẫm lên những đồ chơi vương vãi. Những người sống trong ngôi nhà nhỏ này giờ ở đâu? Họ cũng chạy trốn? Cậu trèo lên hàng rào sắt dưới một loạt đạn và, không hề hấn gì, cậu nhảy xuống đường và lại bắt đầu bò về phía dòng sông, hai bàn tay và đầu gối đẫm máu. Nhưng cậu không đến được chỗ đó. Cậu đang đi được nửa đường thì tất cả im bặt. Khi ấy cậu nhận thấy trời tối đen và cậu nghĩ chắc mình đã ngất đi vì mệt. Chính cái sự im lặng lạ lùng, đột ngột ấy đã làm cho cậu hồi tỉnh. Cậu ngồi dậy. Cái đầu trống rỗng của cậu kêu ong ong như một quả chuông. Ánh trăng rực rỡ rọi sáng con đường nhưng cậu được yên ổn dưới vệt tối của một cái cây hắt xuống. Khu phố Villars vẫn đang bốc cháy, mọi thứ vũ khí đều câm bặt.

Rời bỏ con đường nơi cậu sợ gặp phải quân Đức, Hubert đi qua một cánh rừng nhỏ. Chốc chốc cậu dừng lại và tự hỏi mình đang đi đâu. Những đoàn quân cơ giới đã xâm chiếm một nửa nước Pháp trong vòng năm ngày chắc chắn ngày mai sẽ đến biên giới Ý, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha. Cậu sẽ không thoát khỏi bọn chúng được. Cậu quên mất rằng cậu không mặc quân phục, rằng chẳng có gì chứng tỏ là cậu vừa mới chiến đấu. Cậu tin chắc rằng sẽ bị bắt làm tù binh. Cậu chạy trốn theo chính cái bản năng đã mang cậu tới nơi chiến trận và bây giờ lại đang kéo cậu ra xa đám cháy này, xa những chiếc cầu đã bị phá hủy này, xa những cơn mê mà ở đó lần đầu tiên trong đời cậu tận mắt nhìn thấy những người chết. Cậu vội vã ước tính quãng đường mà quân Đức có thể đi được cho đến sáng. Cậu tưởng tượng ra những thành phố nối nhau thất thủ, những người lính bại trận, những vũ khí bị vứt bỏ, những xe tải nằm lại trên đường do hết xăng, những chiếc xe tăng, những khẩu pháo chống tăng mà mô hình thu nhỏ của nó đã từng khiến cậu ngưỡng mộ, và tất cả những chiến lợi phẩm khác rơi vào tay kẻ thù! Cậu vừa run rẩy, khóc lóc vừa dùng đầu gối và hai tay tiến lên trên cánh đồng rực sáng dưới ánh trăng, thế nhưng cậu vẫn không tin chuyện bại trận. Đó là cách một con người trẻ trung và đầy sức lực xua đuổi ý nghĩ về cái chết. Những người lính có lẽ ở cách đây không xa lắm, có lẽ họ đang tổ chức lại, chuẩn bị chiến đấu trở lại, và có lẽ cậu sẽ cùng với họ. Và cậu... cùng với họ... “Nhưng mình đã làm được gì nào?” Bỗng nhiên cậu nghĩ. “Mình thậm chí chẳng bắn được một phát súng!” Cậu xấu hổ về bản thân mình đến nỗi nước mắt lại tuôn ra, thấm thía và đau đớn. “Đó không phải lỗi tại mình, mình không có vũ khí, mình chỉ có hai bàn tay.” Bất chợt cậu thấy lại mình lúc đang cố kéo cái bó củi ấy về phía dòng sông mà không xong. Phải, cậu thậm chí không có khả năng làm việc đó, cậu, người đã muốn xông lên cầu, kéo binh lính theo sau mình, lao vào xe tăng địch, chết mà miệng thét lên: “Nước Pháp muôn năm!” Cậu lử lả vì mệt và tuyệt vọng. Đôi khi những ý nghĩ chín chắn một cách kỳ lạ lướt qua trong đầu cậu: cậu nghĩ đến cuộc thảm bại, đến những nguyên nhân sâu sắc của nó, đến tương lai, đến cái chết. Rồi cậu tự hỏi về chính mình, về việc rồi cậu sẽ ra sao, và dần dần ý thức thực tại trở lại với cậu: “Mẹ sẽ cho mình một trận ra trò đây, trời ơi là trời!” cậu lẩm bẩm, và gương mặt nhợt nhạt, nhăn nhó, có vẻ già và gầy đi trong hai ngày qua bừng sáng trong giây lát bởi một nụ cười trẻ thơ, hồn nhiên và thoải mái.

Giữa hai cánh đồng, cậu thấy một ngõ hẻm dẫn sâu vào trong làng. Ở đây chẳng có gì gợi đến chiến tranh. Những dòng suối chảy, một con chim sơn ca hót, một quả chuông điểm giờ, những bông hoa trên tất cả các hàng rào, những chiếc lá tươi xanh trên cây cối. Từ lúc nhúng tay và miệng xuống một dòng suối nhỏ và uống nước trong hai bàn tay khum lại thành chiếc cốc, cậu cảm thấy dễ chịu hơn. Cậu tuyệt vọng tìm kiếm trái cây trên các cành cây. Cậu biết rõ bây giờ trái mùa nhưng cậu đang ở cái lứa tuổi vẫn tin vào phép màu. Đến cuối ngõ hẻm lại là đường lớn. Cậu đọc trên một chiếc cột mốc: Cressange, hai mươi hai kilômét, và cậu dừng lại bối rối, rồi cậu nhìn thấy một trang trại và cuối cùng, sau một lúc lâu do dự, cậu gõ cửa. Cậu nghe thấy tiếng bước chân trong nhà. Người ta hỏi cậu là ai. Nghe trả lời là cậu bị lạc và đói, người ta cho cậu vào. Cậu nhìn thấy trong nhà có ba người lính Pháp đang ngủ. Cậu nhận ra họ. Họ đã bảo vệ cầu Moulins. Giờ đây họ nằm ngáy trên những chiếc ghế băng, gương mặt họ xanh xao hốc hác và bẩn thỉu lật về phía sau như mặt người chết. Một người đàn bà vừa trông nom họ vừa đan len, cuộn len của bà lăn dưới sàn nhà, có con mèo chạy theo sau. Khung cảnh vừa thật thân thuộc vừa thật lạ lùng sau tất cả những gì mà Hubert đã chứng kiến từ tám ngày nay đến nỗi cậu ngồi xuống, chân rã rời. Trên bàn, cậu nhìn thấy mấy chiếc mũ của những người lính, họ đã cài lá lên đó để mũ bớt lấp loáng dưới ánh trăng.

Một trong mấy người đàn ông thức dậy, chống một bên khuỷu tay:

- Cậu có thấy bọn chúng không, cậu bé? - anh ta hỏi bằng một giọng đục và khàn.

Hubert hiểu là anh ta nói về bọn Đức.

- Không, không, - cậu vội vã nói. - Không thấy một tên nào kể từ Moulins trở đi.

- Hình như bọn chúng không thèm bắt tù binh nữa - người lính nói.

- Có nhiều quá. Bọn chúng giải giáp người ta rồi tống cổ đi.

- Hình như thế, - người đàn bà nói.

Một thoáng im lặng ập đến giữa họ. Hubert ăn: người ta đặt trước mặt cậu một đĩa súp và pho mát. Khi ăn xong, cậu hỏi anh lính:

- Các anh làm gì bây giờ?

Người bên cạnh anh này đã mở mắt ra. Họ bàn bạc với nhau. Một người muốn đi đến Cressange.

- Tại sao? Chúng ở khắp nơi, chúng ở khắp nơi... - người kia vừa trả lời với một vẻ rã rời vừa đưa ánh mắt đau khổ và hoảng sợ như con chim bị thôi miên nhìn ra xung quanh.

Dường như anh ta thực sự nhìn thấy bọn chúng ở quanh mình, những tên Đức sẵn sàng bắt anh ta ấy. Chốc chốc anh ta lại buột ra một thứ tiếng cười giật cục và cay đắng.

- Trời ơi! Đã chiến đấu năm 14 mà rồi lại phải nhìn thấy thế này đây...

Người đàn bà điềm tĩnh đan len. Bà đã già lắm rồi. Bà đội một cái mũ trắng xếp nếp.

- Tôi thì tôi đã chứng kiến năm 70 cơ. Thế cho nên... - bà lẩm bẩm.

Hubert nghe họ nói, cậu hoảng sợ nhìn họ. Cậu cảm thấy họ gần như không có thật, mà giống như những hồn ma, như những cái bóng rầm rì hiện về từ những trang sách trong cuốn Lịch sử Pháp của cậu. Trời ạ! Hiện tại và các thảm họa của nó còn có giá trị hơn những vinh quang đã mất và cái mùi máu bốc lên từ quá khứ kia. Hubert uống một tách cà phê rất đặc và rất nóng, có một chút bã, cậu cám ơn người đàn bà, từ biệt mấy người lính rồi lên đường, quyết tâm đến được Cressange trong buổi sáng. Từ đó, biết đâu cậu lại có thể liên lạc được với người nhà mình và làm cho họ yên tâm về cậu. Cậu bước đi cho đến lúc tám giờ và cách Cressange vài kilômét, cậu tới một ngôi làng nhỏ, đứng trước một khách sạn mà từ đó đang tỏa ra một mùi thơm ngào ngạt của cà phê và bánh mì tươi. Đến đây Hubert cảm thấy cậu không thể đi xa hơn được, chân cậu không tha nổi mình cậu nữa rồi. Cậu bước vào một quán trọ đầy người tị nạn. Cậu hỏi xem liệu có thể kiếm được một phòng hay không. Chẳng ai có thể chỉ dẫn cho cậu. Người ta nói với cậu là bà chủ đi ra ngoài kiếm đồ ăn cho cả đám người đói khát này, bà sắp về ngay đấy. Cậu đi ra phố, ở một ô cửa sổ lầu một, cậu nhìn thấy một phụ nữ đang trang điểm. Thỏi son cô ta đang cầm tuột khỏi tay cô và rơi xuống chân Hubert; cậu vội vã nhặt nó lên. Người phụ nữ nghiêng người xuống, nhìn thấy cậu, mỉm cười với cậu.

- Làm sao lấy được cái này bây giờ? - cô hỏi.

Và cô buông thõng cánh tay trần và bàn tay nhợt nhạt của cô ra ngoài cửa sổ. Những chiếc móng tay quét sơn của cô lấp lánh dưới ánh mặt trời, những tia chớp nhỏ lóe lên dưới mắt Hubert. Làn da màu sữa ấy, mái tóc hung đỏ ấy làm đau cậu như một thứ ánh sáng quá gay gắt.

Cậu vội vã cụp mắt xuống và ấp úng:

- Tôi... tôi có thể mang nó lên cho bà được, thưa bà.

- Vâng, anh làm ơn. - Cô nói.

Và cô lại mỉm cười. Cậu đi vào ngôi nhà, đi qua một phòng cà phê, trèo lên một cầu thang nhỏ màu đen và thấy cánh cửa để mở của một căn phòng toàn màu hồng. Thực tế thì mặt trời đã rọi qua một tấm rèm vải đỏ sơ sài và căn phòng tràn ngập một thứ bóng tối nồng ấm, sống động và đỏ thẫm như một bụi hoa hồng. Người phụ nữ mời cậu vào, cô đang mài móng tay. Cô cầm lấy thỏi son, nhìn cậu: “Kìa, cậu ta sắp bất tỉnh rồi!” Hubert cảm thấy cô nắm lấy tay cậu, cô giúp cậu đi hai bước đến một cái ghế bành, cô luồn một cái gối xuống dưới đầu cậu. Tuy nhiên cậu không mất ý thức, tim cậu đập rất mạnh. Tất cả xung quanh cậu nhảy nhót như khi say sóng, và những đợt sóng lớn buốt lạnh và nóng bỏng luân phiên trào lên người cậu.

Cậu ngại ngùng nhưng khá kiêu hãnh về bản thân. Khi cô hỏi cậu: “Có mệt không? Có đói không? Có chuyện gì thế cậu bé tội nghiệp của tôi?”, Cậu còn phóng đại thêm sự run rẩy trong giọng nói của mình để trả lời:

- Không có gì đâu, nhưng... tôi đã đi bộ từ Moulins, nơi chúng tôi đã bảo vệ chiếc cầu.

Cô nhìn cậu, sửng sốt.

- Thế anh bao nhiêu tuổi?

- Mười tám.

- Anh không phải là lính chứ?

- Không, tôi đi cùng với gia đình tôi. Tôi đã rời bỏ gia đình. Tôi đến với quân đội.

- Như vậy là tốt lắm, - cô nói.

Dù cho cô nói bằng một giọng thán phục như cậu đã chờ đợi, nhưng không hiểu vì sao, cậu vẫn đỏ mặt trước cái nhìn của cô. Nhìn gần, cô có vẻ không còn trẻ. Có thể thấy những nếp nhăn nhỏ trên khuôn mặt trang điểm khéo léo của cô. Cô rất mảnh dẻ, rất trang nhã, và cô có đôi chân tuyệt đẹp.

- Anh tên là gì? - cô hỏi.

- Hubert Péricand

- Có một ông Péricand là quản đốc Viện Bảo tàng Mỹ thuật phải không nhỉ?

- Đó là cha tôi, thưa bà.

Vừa nói, cô vừa đứng dậy và rót cà phê cho cậu. Cô mới ăn trưa xong, và cái khay có bình cà phê còn đầy một nửa, bát kem và thịt quay vẫn để trên bàn.

- Không được nóng lắm đâu, - cô nói, - nhưng anh cứ uống đi nhé, nó sẽ làm cho anh dễ chịu.

Cậu nghe theo.

- Ở dưới nhà người ta đang cuống cuồng cả lên với tất cả đám người tị nạn ấy thành ra tôi có gọi đến ngày mai họ cũng chẳng lên đâu! Đương nhiên là anh từ Paris đến nhỉ?

- Vâng, bà cũng vậy phải không, thưa bà?

- Đúng thế. Tôi đã đi qua Tours, ở đó tôi găp phải một trận bom. Bây giờ thì tôi định đi đến Bordeaux. Tôi cho là Nhà hát đã được sơ tán đến Bordeaux.

- Bà là nghệ sĩ ư, thưa bà? - Hubert hỏi với vẻ kính trọng.

- Vũ nữ. Arlette Corail.

Hubert chưa bao giờ được nhìn thấy các vũ nữ ở bên ngoài sân khấu nhà hát Châtelet. Theo bản năng cậu hướng ánh mắt tò mò và thèm muốn vào cặp chân dài và những bắp chân rắn chắc, được bó chặt trong đôi tất óng ánh. Cậu cực kỳ bối rối. Một lọn tóc vàng buông xõa xuống mắt cậu. Người phụ nữ lấy tay nhẹ nhàng hất tóc lên.

- Thế anh sẽ đi đâu bây giờ?

- Tôi không biết, - Hubert thú nhận. - Gia đình tôi dừng lại ở một làng nhỏ cách đây chừng ba chục cây. Tôi cũng muốn quay lại với gia đình nhưng chắc có bọn Đức ở đó.

- Ở đây người ta cũng đang đợi bọn chúng đến đấy.

- Đến đây ấy à?

Cậu làm một cử chỉ hoàng hốt và nhỏm dậy để chạy trốn. Cô vừa giữ cậu lại vừa cười.

- Nhưng bọn chúng sẽ làm gì anh cơ chứ? Một cậu bé như anh...

- Dù sao thì tôi cũng đã chiến đấu, - cậu phản đối, vẻ bị xúc phạm.

- Ừ, tất nhiên rồi, nhưng sẽ không ai nói chuyện đó với bọn chúng cả, phải không nào?

Cô ngẫm nghĩ, khẽ cau mày lại.

- Nghe này. Anh sẽ làm thế này nhé. Tôi sẽ đi xuống và xin cho anh một phòng. Ở đây người ta biết tôi. Đây là một khách sạn bé tí, nhưng nấu ăn thì tuyệt vời và tôi đã từng ở đây mầy lần vào dịp nghỉ cuối tuần rồi. Họ sẽ cho anh căn phòng của cậu con trai đã nhập ngũ của họ. Anh sẽ nghỉ ngơi một hoặc hai ngày và anh có thể báo tin cho bố mẹ anh.

- Tôi không biết phải cám ơn bà thế nào nữa. - Cậu nói khẽ.

Cô để cậu lại. Một lát sau, khi cô quay trở lại, cậu đang ngủ. Cô muốn nâng đầu cậu lên và vòng tay ôm đôi vai rộng và bộ ngực hơi nhỏ lên của cậu. Cô chăm chú nhìn cậu, vuốt gọn lại thêm lần nữa những sợi tóc vàng óng bù xù xõa xuống trán cậu, ngắm cậu thêm lần nữa với vẻ mơ mộng và thèm thuồng như một con mèo ngắm nghía một con chim non và thở dài:

- Cậu ta trông cũng được đấy chứ nhỉ, cái cậu bé này...