Vợ người du hành thời gian - Phần II - Chương 10-11
Năm
Thứ Năm, 11/5/2000 (Henry
39 tuổi, Clare 28 tuổi)
HENRY: Tôi đang bước trên
đường Clark một ngày cuối mùa xuân năm 2000.
Chẳng có gì đáng chú ý về cảnh tượng này. Chỉ là một buổi tối ấm áp đáng
yêu ở Andersonville, và tất cả các thanh niên thời thượng đang ngồi uống những
cốc cà phê lạnh đắt tiền của họ bên những chiếc bàn nhỏ ở Kopi, hoặc đang ngồi
ăn Couscous[1] bên những chiếc bàn cỡ trung ở Reza, hoặc chỉ
đang đi bách bộ, ngó lơ các cửa hàng ăn vặt Thụy Điển và trầm trồ khen
những con chó của nhau. Đáng lẽ tôi đang phải làm việc, ở năm 2002, nhưng mặc
kệ. Matt sẽ phải thay tôi làm buổi Show ‘N Tellvào
trưa nay. Tôi tự nhủ sẽ dẫn cậu ấy đi ăn tối để đền đáp.
[1] Couscous: Một món
ăn vùng Bắc Phi, được làm từ bột mì) và thịt (hoặc nước thịt).
Trong lúc vẩn vơ lượn quanh,
tôi bất ngờ nhìn thấy Clare bên kia đường. Cô ấy đang đứng trước cửa George -
một cửa hàng quần áo cổ điển - và ngắm những bộ đồ trẻ con bày mẫu. Đến cả tấm
lưng của cô ấy cũng thèm thuồng, cả đôi vai của cô ấy cũng thở dài trong
khao khát. Tôi đứng đó nhìn cô ấy, cô ấy tựa trán lên cửa sổ của cửa hàng và cứ
thế đứng chán ngán. Tôi băng qua đường, tránh một chiếc xe tải nhỏ và một chiếc
Volvo, rồi đứng sau lưng Clare. Cô ấy ngẩng đầu lên, giật mình, và
nhìn vào bóng tôi trong cửa kính.
“Ồ, là anh”, cô ấy nói rồi
quay người lại. “Em tưởng anh đang đi xem phim với Gomez ?” Clare có vẻ
hơi cảnh giác, một chút hối lỗi, như thể tôi vừa bắt gặp cô ấy đang làm điều gì
đó mờ ám.
“Có lẽ vậy. Thực ra đáng lẽ
anh phải ở nơi làm việc. Vào năm 2002.”
Clare mỉm cười. Cô ấy trông
mệt mỏi. Tôi nhẩm ngày tháng trong đầu và nhận ra lần xảy thai thứ năm của
chúng tôi vừa xảy ra cách đây ba tuần. Tôi ngần ngại, rồi quàng tay qua người
cô ấy, tôi ngạc nhiên khi cô ấy nhẹ nhõm tựa đầu lên vai tôi.
“Em khỏe chứ?” Tôi hỏi.
“Em cảm thấy khủng khiếp
lắm”, cô ấy nói khẽ. “Mệt mỏi.” Tôi nhớ ra. Cô ấy đã nằm lì trên giường trong
nhiều tuần lễ. “Henry, em từ bỏ rồi.” Cô ấy nhìn tôi, cố tìm cách đọc phản ứng
của tôi trước câu nói này, chăm chú cân nhắc những gì tôi biết. “Em từ bỏ. Nó
sẽ chẳng bao giờ diễn ra cả.”
Có điều gì ngăn tôi khỏi đưa
cho cô ấy điều cô ấy cần? Tôi không nghĩ có lí do gì khiến tôi không thể nói
cho cô ấy nghe. Tôi đứng đó và lục lọi trong trí nhớ. Tất cả những gì tôi nhớ
là sự chắc chắn của cô ấy, mà tôi sắp sửa tạo ra.
“Hãy kiên trì, Clare.”
“Sao cơ?”
“Đừng từ bỏ. Trong hiện tại
của anh, chúng ta có một đứa con."
Clare nhắm mắt lại, thì thầm,
“Cảm ơn”. Tôi không biết cô ấy đang nói với tôi hay với Chúa. Chẳng quan trọng.
“Cảm ơn anh”, cô ấy nói lại nhìn vào tôi, nói với tôi, và tôi cảm thấy như mình
là một thiên thần trong phiên bản cuồng loạn nào đó của Lễ Truyền Tin. Tồi nhoài
người hôn cô ấy; tôi có thể cảm nhận được niềm vui, sự kiên định và mục
tiêu đang tràn ngập trong Clare. Tôi nhớ đàn cá đầu nhỏ xíu đầy tóc đen chui ra
từ giữa hai chân Clare và tôi kinh ngạc trước cách khoảnh khắc này tạo ra điều
kì diệu đó, và ngược lại. Cảm ơn. Cảm ơn.
“Anh biết trước ?” Clare hỏi
tôi
“Không.” Cô ấy có vẻ thất
vọng. “Không những anh không biết, mà anh còn làm tất cả mọi việc có thể để
ngăn em khỏi có mang lần nữa.”
“Tuyệt.” Clare cười. “Vậy bất
kể chuyện gì xảy ra, em cứ phải im lặng và cứ thế thuận theo?”
“Phải.”
Clare nhìn tôi cười rạng rỡ,
và tôi cười lại. Cứ thế thuận theo.
Sáu
Thứ Bảy, 3/6/2000 (Clare
29 tuổi, Henry 36 tuổi)
CLARE: Tôi đang ngồi ở bàn ăn
và lơ đãng lật tờ Chicago Tribune ngắm Henry dỡ đồ tạp phẩm. Những cái túi
giấy màu nâu đứng thẳng hàng trên mặt bàn. Henry lôi ra nào những ketchup, thịt
gà, và pho-mát Gouda
như một nhà ảo thuật. Tôi không ngừng đợi cho con thỏ và những dải dây
bằng lụa xuất hiện. Nhưng thay vào đó, anh ấy lôi ra nấm, đậu đen, mì sợi, xà
lách, dứa, váng sữa, cà phê, củ cải, bột yến mạch, bơ, pho-mát Cottage, bánh mì
đen, mayonnaise, trứng, dao cạo, lăn khử mùi, táo xanh, bánh mì vòng, tôm,
pho-mát kem, ngũ cốc đông MiniWheats, sốt cà chua tỏi, nước cam đông lạnh, cà
rốt, bao cao su, khoai lang... bao cao su? Tôi đứng dậy và đi tới bàn, cầm
chiếc hộp xanh lên và lắc trước mặt Henry. “Sao, anh đang ngoại tình hả?”
Anh ấy ngước lên nhìn tôi
thách thức trong lúc lục lọi tủ lạnh. “Không. Chúa đã hiển linh gặp anh. Anh
đang đứng trong gian hàng kem đánh răng khi nó diễn ra. Em muốn nghe không?”
“Không.”
Henry đứng dậy và quay về
phía tôi. Biểu hiện của anh ấy như một tiếng thở dài, “Dù sao em cũng cứ nghe
nhé: chúng ta không cứ tiếp tục cố gắng sinh con nữa.”
Đồ phản bội. “Chúng ta đã
đồng ý...”
“... Tiếp tục cố gắng.
Anh nghĩ năm lần xảy thai đã đủ rồi. Anh nghĩ chúng ta đã cố gắng đủ rồi.”
“Không. Ý em là... tại
sao không thử thêm lần nữa?” Tôi gắng không để sự van nài lộ ra trong
giọng nói, không để sự giận dữ đang vùng dậy trong cổ họng tôi thoát ra
ngoài.
Henry đi vòng qua bàn, đứng
trước mặt tôi, nhưng không đụng vào tôi, biết rằng anh ấy không thể đụng
vào tôi. “Clare, lần xảy thai tiếp theo sẽ lấy đi tính mạng của em, và anh sẽ
không tiếp tục làm việc có thể khiến em chết. Năm lần xảy thai... Anh biết em
muốn tiếp tục, nhưng anh không thể. Anh không thể chịu đựng thêm được nữa,
Clare. Anh xin lỗi.”
Tôi chạy ra cửa sau và đứng
trong ánh nắng, bên cạnh bụi mâm xôi. Những đứa con của chúng tôi, chết, được
bọc trong giấy lụa và nằm trong những chiếc hộp gõ nhỏ xíu, đang trú trong bóng
râm, trong buổi chiều muộn, bên cạnh những bụi hồng. Tôi cảm nhận thấy cái nóng
của mặt trời trên da thịt, còn chúng rùng mình sâu bên dưới khu vườn mát mẻ của
một ngày giữa tháng Sáu này. Hãy giúp mẹ, tôi nói trong đầu với đứa
con tương lai của chúng tôi. Bố không biết, và mẹ không thể nói cho bố
biết. Hãy đến nhanh lên.
Thứ Sáu, 9/6/2000
- 9/11/1986 (Henry 36 tuổi, Clare l5 tuổi)
HENRY: 8 giờ 45 phút sáng,
thứ Sáu, tôi đang ngồi trong phòng chờ của bác sĩ Robert Gonsalez. Clare không
biết tôi đến đây. Tôi quyết định sẽ cắt ống dẫn tinh.
Văn phòng của bác sĩ Gonsalez
nằm trên đường Sheridan, gần Diverey, trong một
trung tâm y tế sang trọng, ngay phía trên nhà kính Lincoln Park. Phòng đợi được trang trí màu
nâu và xanh sẫm, rất nhiều khung hình của những người chiến thắng các
cuộc đua ngựa thường niên Derby
vào những năm 1880. Rất đàn ông. Tôi có cảm giác như đáng lẽ tôi phải chùm
một chiếc áo khoác ngoài mặc khi hút thuốc và bập bùng điếu xì gà bự chảng giữa
hai hàm. Tồi cần rượu.
Người phụ nữ dễ mến ở phòng
Kế hoạch hóa gia đình đã quả quyết với tôi bằng giọng dịu dàng, có chuẩn bị
sẵn, của cô ấy rằng việc này sẽ không đau một chút nào. Có năm người đàn ông
khác đang ngồi đợi cùng tôi. Tôi tự hỏi có phải họ bị lậu, hay vì tuyến tiền
liệt của họ dở chứng. Hoặc cũng có thể một vài người trong số họ giống như tôi,
ngồi đây đợi để chấm dứt con đường trở thành một ông bố tương lai. Tôi có cảm
giác đồng cảm với những người đàn ông không quen biết này, tất cả chúng tôi
ngồi đây cùng nhau trong căn phòng màu nâu của những đồ vật bằng da và gỗ,
trong buổi sáng xám xịt này, đợi để được bước vào phòng khám và tụt quần ra. Có
một người đàn ông rất già đang ngồi nhoài người về phía trước, đôi bàn tay siết
chặt cây gậy của mình, mắt nhắm lại sau cặp kính cận dày cộm làm nổi bật hai mí
mắt của ông. Chắc hẳn ông ấy không ở đây để đợi được cắt. Một cậu thanh niên
mới lớn đang ngồi đọc lướt qua tờ Ensquire cũ kĩ, giả vờ thờ ơ. Tôi nhắm mắt
lại và tưởng tượng mình đang ở trong một quán bar, cô bartender đang quay lưng
lại phía tôi và pha cốc Scotch với một lượng nhỏ nước ấm. Có lẽ đó là một quán
bar của Anh. Phải, như vậy sẽ lí giải cho các đồ vật trang trí. Người đàn ông
bên trái tôi ho, một tiếng ho rung phổi, và tôi mở mắt ra, tôi vẫn đang ngồi trong
phòng đợi của bác sĩ. Tôi lén nhìn đồng hồ trên tay người đàn ông phía bên
phải của tôi. Anh ta có một chiếc đồng hồ thể thao to bự mà bạn có thể dùng để
bấm giờ các cuộc đua hoặc gọi cho phi thuyền mẹ; 9 giờ 58 phút. Hai phút nữa
đến giờ hẹn của tôi. Có vẻ bác sĩ bị muộn giờ. Lễ tân gọi, “Cậu Liston”, và cậu
thanh niên trẻ đột ngột đứng dậy đi qua cánh cửa nặng nề vào trong
văn phòng. Những người còn lại trong chúng tôi ngấm ngầm nhìn nhau,
như thể chúng tôi đang ở trên tàu điện và có ai đó đang tìm cách bán
tờ Streetwise cho chúng tôi.
Tôi cứng đơ vì căng thẳng.
Tôi tự nhủ rằng việc tôi sắp làm là cần thiết, và là điều tốt. Tôi không
phải là một kẻ phản bội. Tôi không bội ước. Tôi đang cứu Clare khỏi sự sợ hãi
và những nỗi đau. Cô ấy sẽ không bao giờ biết. Nó sẽ không làm tổn thương
ai. Có lẽ có một chút. Một ngày nào đó tôi sẽ nói cho cô ấy biết, và cô ấy
sẽ nhận ra tôi bắt buộc phải làm vậy. Chúng tôi đã cố gắng. Tôi không có lựa
chọn nào khác. Tôi không phải một kẻ phản bội. Cho dù nó có làm tổn thương ai,
thì cũng đáng. Tôi làm điều này vì tôi yêu cô ấy. Tôi nghĩ đến hình ảnh Clare
ngồi trên giường, chìm trong máu, và thổn thức, tôi cảm thấy như muốn bệnh.
“Anh DeTamble.” Tôi đứng dậy,
giờ thì tôi thực sự cảm thấy bệnh. Đầu gối tôi oằn lại. Tâm trí tôi vặn vẹo, và
tôi khom người lại, nôn mửa, tôi đang quỳ xuống bằng cả hai tay và hai chân,
sàn nhà lạnh lẽo và tràn ngập những ngọn cỏ chết lởm chởm. Bụng tôi trống
không, tất cả những gì tôi nôn ra là chất nhầy. Trời rất lạnh. Tôi nhìn lên.
Tôi đang ở trong cánh rừng thưa, trên đồng cỏ. Những ngọn cây trơ trụi,
bầu trời đầy mây, bóng tối đang tiến đến gần. Chỉ có mình tôi.
Tôi đứng dậy và đi tìm hộp
quần áo. Không lâu sau tôi đã mặc một chiếc áo phông của nhóm Gang of
Four và áo len, quần jeans, đôi tất nặng nề và đôi ủng bộ đội màu đen,
áo choàng len đen và đôi găng tay rộng màu xanh dương. Có thứ gì đó đã cắn
thủng hộp và làm tổ bên trong. Bộ quần áo này cho tôi biết đang là giữa thập
niên 80. Clare đang khoảng 15 hay 16 tuổi. Tôi tự hỏi có nên nán lại và đợi cô
ấy hay cứ thế đi nơi khác. Tôi không biết mình có thể đối mặt với tuổi
xuân phơi phới của Clare lúc này hay không. Tôi quay người và bước về phía vườn
cây ăn quả.
Có vẻ như đang là cuối
tháng Mười Một. Đồng cỏ chỉ một màu nâu và tạo ra những tiếng lạo xạo cùng cơn
gió. Những con quạ đang giành nhau những quả táo rụng bên rìa vườn cây ăn quả.
Ngay khi tôi bước tới gần chúng, tôi nghe có tiếng ai đó thở hổn hển và chạy về
phía sau tôi. Tôi quay người lại, đó là Clare.
“Henry...” Clare đi theo
tôi, túm lấy tay tôi. “Saovậy? Em đã làm gì sao? Tại sao anh không chịu
nói chuyện với em?”
Ôi Chúa
ơi. “Anh đã định làm một chuyện vì em, một chuyện quan trọng, nhưng
đã không thành. Anh đã hồi hộp quá mức và biến mất đến đây.”
“Là chuyện gì vậy?”
“Anh không thể nói với
em. Anh thậm chí còn không nói với em ở hiện tại. Em sẽ không thích ý tưởng đó
một chút nào.”
“Vậy thì tại sao anh
muốn làm nó?” Clare run rẩy trong gió. “Đó là cách duy nhất. Anh đã
không thể thuyết phục được em. Anh đã nghĩ chúng ta sẽ thôi cãi nhau nếu anh
làm việc này.” Tôi thở dài. Tôi sẽ thử lại một lần nữa, và nếu cần, sẽ
thêm lần khác nữa.
“Tại sao chúng ta cãi nhau?” Clare ngước lên nhìn tôi, căng thẳng
và lo lắng.
Nước mũi cô ấy chảy ròng ròng.
“Em bị cảm lạnh hả?”
“Vâng. Tại sao chúng ta cãi nhau?”
“Mọi chuyện bắt đầu khi vợ của đại sứ của em tát vào
mặt người tình của thủ tướng của anh tại buổi vũ hội được tổ chức ở
đại sứ quán. Việc này đã ảnh hưởng đến giá nhập khẩu lúa mạch, dẫn
đến tình trạng thất nghiệp cao và các cuộc bạo động...”
“Henry.”
“Sao vậy?”
“Chỉ lần này thôi, chỉ một lần này thôi, anh có thể thôi
trêu chọc em và nói cho em biết điều em đang hỏi được không?"
“Anh không thể.”
Không có sự báo trước, Clare tát vào mặt tôi, mạnh. Tôi lùi lại, ngạc
nhiên, và vui mừng.
“Tát anh nữa đi.”
Cô ấy có vẻ lúng túng, lắc đầu. “Làm
ơn đi, Clare.”
“Không. Tại sao anh lại muốn
em đánh anh? Em đã muốn trừng phạt anh.”
“Anh muốn em trừng phạt anh.
Hãy làm ơn.” Tôi giơ mặt ra.
“Anh bị làm sao vậy?”
“Mọi việc thật tồi tệ và có
vẻ như anh chẳng còn có thể cảm nhận được nó.”
“Việc gì tồi tệ? Có
chuyện gì đang diễn ra vậy?”
“Đừng hỏi anh.” Clare tiến
lại gần, rất gần, và cầm tay tôi, tuột chiếc găng tay màu xanh lố bịch ra, đưa
lòng bàn tay tôi lên miệng cô ấy và cắn. Cơn đau khốc liệt. Cô ấy dừng lại và
tôi nhìn vào tay mình. Máu đang từ từ chảy từng giọt nhỏ quanh vết cắn. Tôi
chắc hẳn sẽ bị ngộ độc máu, nhưng lúc này tôi không bận tâm.
“Nói cho em biết đi.” Mặt
cô ấy cách mặt tôi chỉ vài phân. Tôi hôn cô ấy, rất thô bạo. Cô ấy chống
cự lại. Tôi thả cô ấy ra và cô ấy quay lưng lại với tôi.“Anh làm vậy là không
tốt chút nào”, cô ấy nói lí nhí.
Có chuyện gì với tôi thế này?
Clare, ở tuổi 15, không phải là người đang tra tấn tôi hàng tháng trời, người
không từ bỏ hi vọng có con, người mạo hiểm với cái chết và nỗi tuyệt
vọng, người biến những cuộc ái ân thành chiến trường la liệt xác chết trẻ con.
Tôi đặt tay lên vai Clare. “Anh xin lỗi. Anh rất xin lỗi, Clare.”
Cô ấy quay mặt lại. Cô ấy
đang khóc, khuôn mặt lấm lem. May mắn thay có một tờ Kleenex trong túi áo khoác
của tôi. Tôi chấm nhẹ lên mắt cô ấy, và cô ấy cầm lấy tờ khăn giấy, hỉ
mũi.
“Anh chưa từng hôn em bao
giờ.” Ôi, không. Mặt tôi chắc hẳn tức cười lắm, vì Clare đã phá lên cười. Không
thể tin được. Tôi thật là một thằng đần.
“Ôi Clare,... quên nó đi, nhé? Coi như nó chưa từng xảy ra. Lại đây nào.
Thử lần nữa nhé? Clare?”
Cô ấy ngập ngừng bước về phía tôi. Tôi quàng tay qua người cô ấy. Mắt cố ấy
đỏ hoe, mũi đang sưng mọng, chắc chắn cô ấy đang bị cảm nặng. Tôi đặt tay lên
hai tai cô ấy, đỡ đầu và hôn cô ấy. Tôi cố đặt hết cả chân tình vào nụ hôn, để
gửi gắm, phòng khi tôi lại lạc mất nó.
Thứ Sáu, 9/6/2000 (Clare
29 tuổi, Henry 36 tuổi)
CLARE: Henry có vẻ im lặng,
lơ đãng và trầm ngâm suốt cả buổi tối. Trong suốt bữa ăn, anh ấy có vẻ đang lục
tìm trong trí nhớ tất cả những cuốn sách anh ấy đã đọc trong năm 1942 hay sao
đó. Chưa kể, tay phải của anh ấy được băng kín mít. Sau bữa tối, anh ấy đi vào
phòng ngủ và nằm lên giường, đầu quay về phía cuối giường, chân đặt lên gối của
tôi. Tôi đi vào xưởng vẽ, đổ giấy vào khuôn và uống cà phê nhưng vẫn không tìm
được cảm hứng vì tôi không thể hiểu có chuyện gì đã xảy ra với Henry. Cuối
cùng, tôi quay vào nhà. Anh ấy vẫn nằm yên ở vị trí đó, trong bóng
tối.
Tôi nằm xuống sàn. Lưng tôi
phát ra tiếng kêu răng rắc khi tôi duỗi người.
“Clare?”
“Dạ?”
“Em có nhớ lần đầu tiên anh
hôn em không?”
“Rất rõ.”
“Anh xin lỗi.” Henry quay
người.
Tôi cháy lên trong tò mò.
“Anh đã buồn bực chuyện gì vậy? Anh đã định làm việc gì đó, nhưng không thành,
và anh nói em sẽ không thích nó. Là chuyện gì vậy?”
“Làm sao em có thể nhớ tất cả
những điều đó?”
“Em là Đứa Con Của Voi. Anh sẽ nói với em chứ?”
“Không.”
“Nếu em đoán, anh sẽ nói em đã đoán đúng hay sai chứ?”
“Có lẽ không.”
“Tại sao không?”
“Vì anh mệt lắm rồi, và anh không muốn cãi nhau vào tối nay.” Tôi cũng
không muốn cãi nhau. Tôi thích nằm dưới sàn như thế này. Khá lạnh nhưng rất
vững chãi. “Anh đã đi cắt ống dẫn tinh.”
Henry im lặng. Anh ấy im lặng trong khoảng thời gian rất dài, đến nỗi tôi
muốn đặt một chiếc gương trước mặt anh ấy để xem anh ấy còn thở hay không. Cuối
cùng, anh ấy nói, “Làm sao em biết?”
“Em không biết chính xác. Em đã sợ điều đó là đúng. Và em đã nhìn thấy ghi
chú anh viết về cuộc hẹn với bác sĩ sáng nay.”
“Anh đã đốt mẩu ghi chú đó rồi mà.”
“Em đã nhìn thấy vết hằn trên tờ giấy bên dưới tờ anh đã viết lên.”
Henry rên rỉ. “Được rồi, Sherlock.” Anh đầu hàng.”Chúng tôi
tiếp tục nằm yên bình trong bóng tối.
“Anh cứ làm đi.”
“Sao cơ?”
“Anh cứ đi cắt ống dẫn tinh. Nếu anh cảm thấy buộc phải làm như vậy.”
Henry lại quay người và nhìn tôi. Tất cả những gì tôi có thể nhìn thấy là
bóng của cái đầu trên nền trần tối. “Em không la mắng anh.”
“Không. Em cũng không thể tiếp tục được nữa. Em từ bỏ. Anh đã chiến thắng,
chúng ta sẽ thôi không tìm cách sinh con nữa.”
“Anh không nghĩ đây là một chiến thắng. Chỉ là, nó có vẻ... cần phải vậy.”
“Sao cũng được.”
Henry xuống khỏi giường và ngồi xuống sàn nhà với tôi. “Cảm ơn em.”
“Không có gì.” Anh ấy hôn tôi. Tôi nhớ lại ngày tháng Mười Một lạnh lẽo của
năm 1986 mà Henry vừa từ đó trở về, nhớ cơn gió, nhớ hơi ấm từ cơ thể anh ấy
tỏa ra giữa vườn cây ăn quả lạnh giá. Không lâu sau, lần đầu tiên trong nhiều
tháng, chúng tôi quan hệ mà không cần lo đến hậu quả. Henry bị lây trận cảm của
tôi 16 năm trước. Bốn tuần sau, Henry đi cắt ống dẫn tinh và tôi phát hiện ra
mình đã mang thai lần thứ sáu.
8�� �����Chúng đi đến phòng thí nghiệm động vật ở dưới tầng hầm,
nơi chúng sinh ra. Chúng có vẻ không thể du hành nhiều hơn vài phút theo mỗi
chiều của dòng thời gian.”
Henry gật đầu. “Chúng sẽ du
hành xa hơn khi chúng lớn hơn.”
“Đúng vậy, cho đến giờ đó là
biểu hiện chung.”
“Ông đã làm thế nào vậy?” tôi
hỏi Kendrick. Tôi vẫn không thể tin ông ấy đã thực sự làm được nó.
Kendrick thổi cà phê của mình
và nhấp một ngụm, rồi nhăn mặt. Cà phê khá đắng, tôi bỏ thêm đường vào cốc của
mình. “Việc Celera hoàn thành sự sắp xếp của toàn bộ hệ thống gen ở chuột đã
giúp ích rất nhiều”,ông ấy nói. “Nó chỉ cho chúng tôi nơi cần tìm bốn bộ gen mà
chúng tôi lấy làm mục tiêu. Nhưng dù sao chúng tôi cũng có thể hoàn thành thí
nghiệm cho dù không có nó.”
“Chúng tôi đã tiến hành sao
chép các gen của cậu và sử dụng các en-zim để cắt các phần DNA bị tổn thương.
Rồi chúng tôi lấy những mẫu này nhét vào các bào thai chuột ở kì phân bào cuối.
Đó là phần khá dễ dàng.”
Henry nhướn lông mày. “Phải
rồi, dĩ nhiên. Clare và tôi làm như vậy suốt, ở trong bếp của chúng tôi. Vậy
phần khó khăn là gì ?” Anh ấy ngồi lên mặt bàn và đặt cốc cà phê bên cạnh. Tôi
có thể nghe thấy tiếng cót két phát ra từ xe tập thể dục trong lồng.
Kendrick liếc nhìn tôi. “Phần
khó khăn là khiến những chuột mẹ sinh sản thành công. Chúng không ngừng chết,
vì xuất huyết.”
Henry có vẻ cảnh giác cao độ.
“Những con chuột mẹ chết?”
Kendrick gật đầu. “Chuột mẹ
chết, và chuột con chết. Chúng tôi không thể khám phá ra vì sao, nên chúng tôi
bắt đầu theo dõi chúng sát sao từng giây phút, và rồi chúng tôi nhận ra. Các
thai nhi đã đi xuyên thời gian, ra khỏi bụng mẹ, rồi lại quay về, khiến những
con chuột mẹ chảy máu trong mà chết. Hoặc chúng chỉ đơn giản ngừng phát triển
bào thai ở ngày thứ mười. Thật dễ bực bội.”
Henry và tôi trao đổi cái
nhìn rồi quay mặt đi chỗ khác. “Chúng tôi có thể hiểu cảm giác đó”, tôi nói với
Kendrick.
“Phải”, ông ấy nói. “Nhưng
chúng tôi đã giải quyết được vấn đề.”
“Bằng cách nào ?” Henry hỏi.
“Chúng tôi nghĩ đó có thể là
phản ứng miễn dịch. Có điều gì đó ở bào thai chuột rất khác lạ đối với hệ thống
miễn dịch của chuột mẹ nên chúng tìm cách chống lại bào thai như thể nó là một
loại vi-rút. Nên chúng tôi đã kìm hãm hệ thống miễn dịch của chuột mẹ lại,
và nó có hiệu quả như một phép màu.”
Tim tôi đập tận lên
tai. Như một phép màu.
Kendrick đột nhiên khom người
lại và nhặt thứ gì đó trên sàn lên. “Tóm được mày rồi”, ông ấy nói, xòe con
chuột trong lòng bàn tay ra.
“Hay lắm!” Henry nói. “Giờ
thì sao?”
“Liệu pháp gen”, Kendrick trả
lời. “Thuốc, hóa chất” Ông ấy nhún vai. “Mặc dù chúng tôi có thể khiến nó xảy
ra chúng tôi vẫn không hiểu tại sao nó xảy ra. Hoặc làm thế nào nó xảy ra. Nên
chúng tôi sẽ cố tìm hiểu điều đó.” Ông ấy đưa con chuột cho Henry.
Anh ấy chụm tay lại
và Kendrick thả con chuột vào. Henry tò mò xem xét nó kĩ lưỡng.
“Nó có một vết xăm”, anh ấy
nói.
“Đó là cách duy nhất để chúng
tôi có thể theo dõi chúng”, Kendrick đáp. “Chúng khiến các kĩ sư ở phòng thí
nghiệm động vật phát điên, chúng luôn trốn thoát.”
Henry cười. “Đó là ưu thế
tiến hóa của chúng tôi”, anh ấy nói. “Chúng tôi trốn thoát.” Anh ấy vuốt ve con
chuột và nó ỉa lên lòng bàn tay anh ấy.
“Không có sức chịu đựng trước
áp lực”, Kendrick nói, rồi đặt con chuột vào lồng, nó chạy biến vào lõi của
cuộn giấy vệ sinh.
Ngay khi về nhà, tôi gọi cho
bác sĩ Montague và bép xép về sự kìm hãm hệ thống miễn dịch và xuất huyết
trong. Bà ầy lắng nghe rất cẩn thận và bảo tôi đến gặp bà ấy vào tuần tới,
trong thời gian từ giờ đến lúc đó, bà ấy sẽ tìm hiểu thêm về vấn đề này. Tôi
đặt điện thoại xuống và Henry đang nhìn tôi lo lắng sau mục kinh tế của tờ
Times. “Đáng để thử mà”, tôi bảo anh ấy.
“Rất nhiều con chuột mẹ đã
chết trước khi họ tìm ra giải pháp”, Henry nói.
“Nhưng nó đã có hiệu quả!
Kendrick đã thành công!”
Henry chỉ nói, “Phải”, rồi
tiếp tục đọc báo. Tôi mở miệng định nói rồi thay đổi ý định và đi ra ngoài,
bước vào xưởng vẽ. Tôi quá phấn khích để tranh cãi vào lúc này. Nó
đã có hiệu quả. Như một phép màu. Như một phép màu.