Nhà Giả Kim - Chương 30 - 31 - 32 - 33 - 34

30

Một ngày nọ cậu đưa trả sách cho anh ta

“Sao, cậu học hỏi được nhiều chứ?” Anh ta háo hức, vì cần có người trò chuyện để quên đi nỗi lo sợ sắp xảy ra đánh nhau

“Tôi học được rằng thế giới có tâm linh và ai hiểu được tâm linh ấy sẽ hiểu được ngôn ngữ của sự vật. Tôi cũng được biết rằng nhiều nhà luyện kim đan đã sống theo con đường mình vạch và như thế đã phát hiện ra tâm linh vũ trụ, “Đá tạo vàng” và “Thuốc trường sinh. Nhưng điều cốt yếu tôi học được là những chuyện đó đơn giản đến nỗi ghi vừa trên một phiến ngọc lục bảo.”

Anh chàng kia thất vọng quá. Bao nhiêu năm nghiên cứu của mình, những kí hiệu thần diệu, những từ bí hiểm, những dụng cụ thí nghiệm… chẳng gây được ấn tượng gì nơi gã này cả.

“Tâm hồn gã quá chất phác nên không thể hiểu chuyện này được”, anh ta ngẫm nghĩ. Rồi anh ta đón lấy sách, nhét vào túi cho lạc đà thồ.

“Thôi cậu hãy quay về với đoàn lữ hành của cậu đi vậy. Tôi cũng chẳng học được gì từ nó cả”

Cậu tận hưởng sự yên ắng của sa mạc, quan sát bụi cát tung lên dưới bước chân lũ vật.

“Người nào có cách học hỏi của người nấy”, cậu tự nhủ. “Cách của anh ta không phải cách của mình, còn cách của mình không giống cách anh ta. Song cả hai đều đang đi tìm con đường sống cho mình, nên mình coi trọng anh ta”.

31

Trong thời gian này đoàn đi cả ngày lẫn đêm. Những người Beduin ăn mặc kín từ đầu đến chân thường xuyên xuất hiện đưa tin tức mới, và người phu lạc đà quen cậu cho biết các bột lạc đã bắt đầu đánh nhau rồi. May mắn lắm đoàn mới có thể an toàn đến được ốc đảo. Lũ vật kiệt sức còn người càng lặng lẽ hơn. Đêm khuya thanh vắng là đáng sợ nhất vì chỉ một tiếng kêu của lạc đà - trước đây vốn là chuyện bình thường – cũng khiến tất cả hoảng sợ, bởi đó có thể là dấu hiệu tập kích Người phu nọ có vẻ như chẳng bận tâm gì lắm trước sự đe doạ của chiến tranh.

“Tôi vẫn sống như từ trước tới giờ”, ông ta nói với cậu trong lúc thưởng thức một đĩa chà là vào một đêm không đốt lửa và không trăng. “Nghĩa là khi ăn tôi không làm gì khác hơn là ăn. Khi chạy tôi không làm gì khác ngoài chạy. Rồi nếu có phải đánh nhau thì cái ngày tôi chết cũng đẹp như mọi ngày khác. Tôi không sống trong quá khứ hay tương lai. Tôi chỉ có hiện tại và chỉ quan tâm tới hiện tại. Nếu ta lúc nào cũng ở trong hiện tại được thì ta là người hạnh phúc. Như thế ta sẽ thấy rằng sa mạc này vẫn đang sống, rằng bầu trời vẫn đầy sao và người ta đánh nhau vì đó là đặc trưng của con người. Như thế cuộc đời sẽ thành một ngày hội lớn, một buổi lễ lớn vì đời bao giờ cũng chỉ là khoảng khắc ta hiện đang sống”.

Hai đêm sau, khi họ dọn chỗ ngủ thì cậu nhìn lên ngôi sao đã dẫn đường họ. Cậu ngạc nhiên thấy chân trời có vẻ thấp hơn trước vì trên bầu trời có tới hàng trăm vì sao

“Phía đó là ốc đảo đấy”, người phu nói

“Thế sao mình không đi ngay lại đó?”

“Vì mình cần phải ngủ”.

32

Cậu mở mắt khi mặt trời ló dạng ở chân trời. Đêm trước nơi đó còn lấp lánh ánh sao, giờ đây là một hàng cây chà là dài ngút mắt

“Chúng ta đến nơi rồi”, chàng người Anh nói và thấy nhẹ cả người.

Anh ta cũng mới vừa thức giấc. Cậu không nói gì. Cậu đã học được sự nín lặng của sa mạc và hài lòng với việc ngắm hàng chà là nơi chân trời kia. Cậu còn phải đi xa nữa mới tới được Kim Tự Tháp và một ngày nào đó buổi sáng hôm nay sẽ chỉ còn là kỉ niệm. Nhưng lúc này đây nó là khoảnh khắc của hiện tại, là ngày hội mà người phu lạc đà đã nói. Cậu thưởng thức nó, nhớ lại những bài học của quá khứ và những ước mơ cho tương lai. Một ngày kia cả nghìn cây chà là này sẽ chỉ là kỉ niệm, nhưng giờ đây, với cậu, chúng là bóng mát, là nước và nơi tránh chiến tranh. Hôm qua, tiếng kêu của con lạc đà có thể gây nguy hiểm, thì giờ đây rừng chà là có thể báo hiệu sự kì diệu.

“Thế giới nói bằng nhiều thứ ngôn ngữ”, cậu nghĩ.

33

“Đoàn lữ hành tới cũng hối hả như thời gian trôi”, nhà luyện kim đan thầm nghĩ khi nhìn cả trăm người và thú vật tới được ốc đảo.

Dân chúng lớn tiếng hò reo chạy về phía đoàn người mới tới. Bụi bay mù trời. Lũ trẻ reo hò, nhảy như choi choi khi thấy đoàn người lạ. Nhà luyện kim đan thấy tù trưởng ốc đảo lại chào trưởng đoàn lữ hành và hai người trò chuyện hồi lâu. Nhưng nhà luyện kim đan không quan tâm mấy đến những điều ấy. Ông đã từng thấy nhiều người đến rồi đi, trong khi ốc đảo và sa mạc vẫn là ốc đảo và sa mạc. Ông đã thấy vua chúa và kẻ ăn xin đi qua biển cát này, cái biển cát thường xuyên thay hình đổi dạng vì gió thổi nhưng vẫn mãi mãi là cái biển cát mà ông đã biết từ khi còn nhỏ. Tuy vậy, tự đáy lòng mình, ông không thể nào không cảm thấy vui trước hạnh phúc của mỗi người lũ khách, sau bao ngày chỉ có cát vàng với trờ xanh nay đuợc thấy chà là xanh tươi hiện ra trước mắt.

“Có thể Thượng đế tạo ra sa mạc chỉ để cho con người biết quí trọng cây chà là”, ông nghĩ.

Rồi ông quyết định tập trung vào những chuyện cụ thể hơn. Ông biết trong đoàn này có một người mà ông cần truyền lại một phần bí mật của ông. Đã có điềm báo cho ông biết trước. Ông chưa biết người ấy nhưng đôi mắt già dặn của ông sẽ nhận ra ngay một khi ông nhìn thấy tận mặt. Ông mong rằng người này cũng sẽ ham học hỏi như người học trò trước của ông.

“Ta không biết tại sao cứ phải mật truyền những điều này”, ông ngẫm nghĩ, “khi mà chúng chẳng bí mật gì lắm, vì chính Thượng đế đã phơi bày mọi bí mật của Người một cách hào phóng cho mọi tạo vật”. Ông chỉ có một lí giải duy nhất: những điều này cân phải truyền miệng vì chúng hình thành từ cuộc sống trong sạch, tích cực và lối sống như thế khó diễn đạt qua hình ảnh hoặc chữ viết. Con người vốn quá dễ bị lôi cuốn bình hình ảnh và sách vở mà sao nhãng ngôn ngữ của thế giới

34

Đoàn người mới tới được đưa ngay đến ra mặt tù trưởng của El Fayum. Cậu chăn cừu không dám tin ở mắt mình: ốc đảo không phải là một cái giếng với dăm ba cây chà là bao quanh – như cậu đã đọc trước kia trong một quyển sách sử - mà lớn hơn nhiều so với không ít làng ở Tây Ban Nha. Ốc đảo có bao trăm giếng nước và rất nhiều lều đủ màu sặc sỡ xen giữa năm vạn cây chà là.

“Cứ như trong truyện Nghìn lẻ một đêm”, chàng người Anh nhận xét.

Anh ta nôn nóng muốn đi tìm nhà luyện đan ngay. Chẳng mấy chốc họ bị một đám trẻ bao quanh; chúng tò mò nhìn đoàn người lạ và lũ vật. Còn cánh đàn ông hỏi họ có thấy đánh nhau gì chưa, trong khi các bà các cô tranh nhau mua vải vóc và đá quí do khách thương thồ đến. Sự yên ắng của sa mạc giờ đã như thể xa vời lắm, vì những người lữ hành nói không ngừng; họ cười, họ hò hét khác nào mới được từ thế giới bên kia trở về với thế giới loài người. Họ sung sướng và hết hẳn lo âu. Ở Sa mạc thì họ phải hết sức cảnh giác, chứ bây giờ - người phu lạc đà giải thích cho cậu biết - ốc đảo luôn luôn được coi là vùng đất trung lập, vì đa số dân ốc đảo là phụ nữ và trẻ em. Hai bên chiến tuyến đều có ốc đảo nên các bộ lạc chỉ đánh nhau ngoài sa mạc, dùng ốc đảo làm nơi tạm lánh.

Trưởng đoàn khá vất vả mới tụ tập mọi người trong đoàn lại được để phổ biến chỉ dẫn. Đoàn sẽ ở lại ốc đảo cho đến khi cuộc xung đột giữa các bột lạc chấm dứt. Là khách, họ phải ở chung lều với người ốc đảo và sẽ được nhường chỗ tốt nhất. Lòng hiếu khách đòi hỏi phải như thế. Rồi ông yêu cầu mọi người, kể cả đội gác của ông, trao vũ khí cho những người được tù trưởng chỉ định.

“Đây là luật lệ khi có xung đột”, ông giải thích. “Ốc đảo không được chứa chấp đội quân nào, dù chỉ là một chiến sĩ lẻ loi”.

Cậu ngạc nhiên khi chàng người Anh móc túi lấy ra một khẩu súng lục mạ kền, trao cho những người đi gom vũ khí.

“Anh cần súng lục để làm gì?” Cậu hỏi

“Có thể tôi mới dám đi chung với người lạ”, anh ta đáp và thấy sung sướng vì đã tới được đích của sự tìm kiếm của mình.

Còn cậu lại nghĩ về kho tàng. Giấc mơ của cậu càng sắp thành sự thật bao nhiêu thì mọi sự lại rối rắm bấy nhiêu. Hình như cái nguyên lí mà ông vua già gọi là “thánh nhân đãi kẻ khù khờ”, không còn giá trị nữa. Trên đường đến với giấc mơ, lòng can đảm và sự kiên trì của cậu đã thường xuyên bị thử thách. Thành ra cậu không thể khinh suất hay sốt ruột được. Nếu cứ xông bừa tới trước thì cậu sẽ không nhìn thấy được dấu hiệu Chúa báo dọc đuờng.

“Điềm Chúa báo dọc đường”, cậu nghĩ rồi sửng sốt trước ý nghĩ của mình. Cho tới nay cậu vẫn cho điềm là cái gì đó rất tự nhiên, giống như ăn, ngủ, theo đuổi chút tình yêu hay tìm công ăn việc làm. Cậu chưa hề nghĩ rằng đó có thể là thứ ngôn ngữ Chúa dùng để bảo cậu phải làm gì

“Đừng nôn nóng”, cậu lại tự nhắc mình. “Hãy làm như người phu kia nói: lúc cần ăn thì ăn, lúc phải đi thì đi”

Ngày đầu tiên ai cũng ngủ nhiều vì quá mệt, kể cả chàng người Anh. Cậu ngủ trong một lều khác, với năm anh chàng trai trạc tuổi cậu. Họ là những thanh niên sa mạc nên thích nghe chuyện các thành phố lớn. Cậu kể vầ đời chăn cừu của mình và vừa định thuật lại kinh nghiệm sống trong cửa hàng pha lê thì chàng người Anh bước vào lều.

“Tôi tìm cậu khắp nơi”, anh ta nói rồi kéo cậu ra ngoài. “Cậu phải giúp tôi tìm cho ra nhà luyện kim đan ở đâu”

Mới đầu hai người muốn tự đi tìm lấy. Một nhà luyện kim đan nhất định phải sống khác với những người dân ốc đảo, và trong lều của ông lò luyện hẵng không lúc nào tắt. Họ chạy quanh tìm để rồi thấy rằng ốc đảo lớn hơn họ tưởng nhiều. Có đến cả hàng trăm lều.

“Thế là mình mất gần nguyên ngày rồi”, chàng người Anh than thở rồi cùng với cậu ngồi nghỉ cạnh một cái giếng.

“Có lẽ mình nên hỏi thì hơn”, cậu nói.

Anh kia còn ngần ngừ vì không muốn tiết lột chuyện có nhà luyện kim đan ở ngay ốc đảo này với người khác. Cuối cùng anh ta cũng đồng ý và nhờ câu hỏi hộ vì cậu sõi tiếng Arập hơn. Cậu bèn lại gần một người đàn bà đang đi lại giếng để lấy nước vào cái túi da dê.

“Chào bà. Tôi muốn được biết nhà kuyện kim đan trong ốc đảo này ở đâu”, cậu lựa lời hỏi.

Bà nọ đáp rằng chưa hề nghe ai nói có nhà luyện ikim đan bao giờ. Rồi bà hấp tấp bỏ đi. Song trước đó bà còn lưu ý cậu không bao giờ được trò chuyện với những nguời đàn bà mặc trang phục màu đen vì họ là những người đã có chồng. Cậu phải tôn trọng phon tục tập quán ốc đảo. Chàng người Anh rất thất vọng. Chả lẽ chuyến đi xa này của anh công cốc hay sao? Cậu cũng buồn: nói cho cùng thì người bạn đồng hành của cậu cũng đang đi tìm con đuờng mà số phận định cho mình. Và như thế thì, như nhà vua già từng nói, đương nhiên cả vũ trụ sẽ góp sức để người đi tìm con đường ấy đạt được điều mình muốn. Nhà vua thì không thể nào nhầm được.

“Tôi chưa từng nghe nói về một nhà luyện kim đan bao giờ”, cậu nói, “nếu có thì tôi sẵn lòng giúp anh ngay”.

Mắt anh chàng kia chợt sáng lên “Phải rồi! Chắc là ở đây không ai biết nhà luyện kim đan nghĩa là gì! Cậu hãy hỏi thăm về một ông chữa được mọi thứ bệnh”

Có thêm nhiều người đàn bà chùm áo màu đen ra giếng lấy nước, nhưng cậu không hỏi họ dù chàng người Anh ra sức hối thúc. Mãi sau mới có một người đàn ông đi tới.

“Ông có biết người nào chữa lành bệnh cho dân làng này không?”

“Allah chữa lành cho mọi thứ bệnh tật”, ông nọ đáp, rõ ràng giật mình hoảng sợ trước hai người lạ.

“Hoá ra mấy người đi tìm thầy phù thủy”. Rồi sau khi đã niệm đôi ba câu kinh Koran ông ta vội vàng bỏ đi Một người đàn ông khác tới giếng. Ông này lớn tuổi hơn, chỉ xách một cái chậu nhỏ. Cậu cũng hỏi y như trước

“Mấy người muốn gặp ông ta để làm gì?” Người Arập này hỏi lại.

“Vì anh bạn tôi đã đi nhiều tháng ròng để được gặp ông ấy”

“Nếu ông ta sống trong ốc đảo này thì nhất định phải là người rất quyền thế”, người nọ nói sau vài phút ngẫm nghĩ.

“Ngay cả các tộc trưởng khi cần cũng không triệu được ông ta đến. Ông ta chỉ đến nếu tự ý muốn thôi. Mấy người hãy chờ cho cuộc xung đột chấm dứt rồi cùng với đoàn lữ hành rời khỏi nơi này. Đừng can thiệp vào cuộc sống ở ốc đảo”, nói rồi ông ta bỏ đi.

Nhưng chàng người Anh lại mừng rỡ. Thế là họ đã có chút manh mối rồi. Cuối cùng một cô gái không mặc mày đen ra giếng, vác trên vai một bình bằng đất nung. Cô cũng đeo khăn choàng nhưng để hở mặt. cậu lại gần cô để hỏi thăm về nhà luyện kim đan. Thời gian như chợt ngừng trôi và tâm linh vũ trụ quyền uy vô hạn như hiện ra trước mặt cậu. Khi nhìn vào đôi mắt đen của cô, nhìn đôi môi chưa biết nên cười hay nên nín lặng kia, cậu hiểu – như mọi người trên trái đất đều có thể hiểu bằng trái tim mình – cái phần quan trọng và thông tuệ nhất của thứ ngôn ngữ vũ trụ này. Cái phần đó gọi là tình yêu, là thứ lực hiện hữu trước cả loài người, thậm chí trước cả sa mạc này và nó sẽ mãi mãi tái hiện với cùng một mãnh lực ở bất cứ nơi nào có hai đôi mắt gặp nhau như hai cắp măt nọ đang nhìn nhau trước giếng. Đôi môi kia đã chọn nụ cười và đó chính là cái dấu hiệu, cái điềm cậu đã chờ đợi từ lâu, đã tìm ở nơi lũ cừu, trong sách vở, tìm trong pha lê và trong sự yên ắng của sa mạc mà không tự biết. Trong nụ cười kia vũ trụ đã hiển hiện ra một cách trong sáng nhất, không cần một diễn dịch nào, như nó không ngừng tiếp tục xoay vần.

Cậu chợt hiểu ngay rằng cô gái đứng kia sẽ là người bạn đời của mình và chính cô cũng biết như thế mà không cần phải nói ra. Đó là điều cậu chắc chắn hơn mọi thứ trên thế gian này, dù rằng bố mẹ và ông bà cậu vẫn bảo trước hết phải tỏ tình, mới đến hứa hôn, rồi tìm hiểu cặn kẽ và dành dụm đủ tiền để cưới. Nghĩ như thế thì chẳng bao giờ hiểu được ngôn ngữ vũ trụ vì một khi đã ngụp lặn trong đó thì ai cũng hiểu ra rằng trên thế giới luôn luôn có một người chờ đợi mình, dù là giữa sa mạc hay trong thành phố lớn. và khi hai người gặp nhau và mắt họ nhìn nhau thì cả quá khứ lẫn tương lai đều không quan trọng nữa, chỉ còn có khoảng khắc này và niềm tin tuyệt đối rằng mọi sự dưới bầu trời này đều do một bàn tay ghi sẵn; chính bàn tay này làm nẩy mầm tình yêu và chọn sẵn một kẻ tâm đầu ý hợp cho mỗi người chăm lo làm lụng, nghỉ ngơi và tìm kiếm kho tàng dưới gầm trời này. nếu không như thế thì mơ ước của con người thật là vô nghĩa.

“MAKTUB”, cậu thầm nghĩ.

Chàng người anh đứng lên, lắc tay cậu. “Này, cậu hỏi đi chứ!”.

Cậu lại gần cô gái. Cô lại cười. Cậu cũng cười.

“Cô tên gì?” Cậu hỏi

“Em tên là Fatima”, cô đáp và ngượng ngùng nhìn xuống đất.

“Ở đất nước tôi cũng có một số các bà, các cô mang tên cô như vậy”.

“Đó là tên con gái Đức Tiên Tri”, Fatima đáp.

“Các chiến binh của đất nước em đã đem cái tên này đến nước anh đấy” Người con gái nhỏ nhắn nói về các chiến binh với vẻ tự hào.

Anh chàng người Anh đứng cạnh cậu đâm ra sốt ruột. Cậu bèn hỏi cô về con người chữa lành mọi thứ bệnh tật.

“Đó là một người thấu hiểu mọi bí mật của thế giới. Ông ta trò chuyện với các Dschinn - tức là quỉ thần - của sa mạc”, cô cho biết.

Cô gái chỉ về hướng Nam, nơi trú ngụ của nhân vật lạ lùng kia. Cô lấy nước đầy bình rồi quay đi. Chàng người Anh bỏ đi tìm nhà luyện kim đan ngay tức thì, còn cậu vẫn ngồi lại hồi lâu bên giống và nhận ra rằng trước đây ít lâu chính luồng gió Levante đã đem mùi thơm của cô gái này đến với mình, và cậu đã yêu dù không hề biết về cô, và nhờ tình yêu ấy cậu sẽ có đủ năng lực tìm ra mọi kho tàng của thế giới này.