Lều chõng - Chương 12 phần 2

Ngoài rào của nhà Thập đạo, học trò loáng thoáng có một vài người. Đức Chinh với bộ mặt tái xanh vẫn rau ráu đứng đợi đó, vì người lại phòng chưa trao trả quyển. Vân Hạc vừa trao quyển qua rào cho một người lính áo nẹp, thì cậu công tử ấy lật đật đến bên cạnh chàng, nhờ chàng giục bọn lính kia lấy quyển cho mình.

Vân Hạc mỉm cười chế giễu:

- Cậu còn không giục được họ, nữa tôi…! Thôi không phải giục. Giục cũng không được. Cậu cứ chịu khó đứng đấy, lát nữa, tự nhiên họ khắc đưa ra.

Bên rào vi giáp chợt có tiếng gọi thật lớn:

- Thằng Hạc đã ra đấy à?

Vân Hạc thoáng nghe tên mình, vội ngẩng đầu lên. Bùi Đốc Cung đương đứng chống tay vào bức rào bên kia với một đáng điệu tươi như con rót và tiếp:

- Mày đi lấy dấu nhật trung hay đi cánh quyển?

Vân Hạc trả lời một cách tự đắc:

- Từ ngày đi thi đến giờ, mày thấy tao phải cánh quyển lần nào?

Đốc Cung lại hỏi:

- Đầu bài kỳ này khá nặng đấy nhỉ? Mày nhớ cả hay có bị quên câu nào?

Vân Hạc chưa kịp trả lời, trên chòi bỗng có một hồi trọ trẹ. Hai chàng biết là quan ngự ra oai, ai nấy đều phải ngậm miệng nín thít.

Người lính áo nẹp ở nhà Thập đạo chạy ra cạnh rào với một quyển thi trong tay:

- Ai là Trần Đức Chinh?

Đức Chinh luống cuống trả lời:

- Thưa tôi.

- Sao ông cánh quyển sớm thế? Từ giở đến tối phỏng chừng phải "cánh" độ mấy quyển nữa hử ông?

Vừa nói, người ấy chìa cái quyển lên đầu bức rào và nhìn Đức Chinh bằng hai con mắt châm chọc. Đức Chinh làm thinh không đáp, chàng đón lấy quyển bỏ ống và vui vẻ với Vân Hạc:

- Ông hãy đứng đợi ở đây, tôi xin về trước.

Vân Hạc lễ phép cúi đầu:

- Vâng! Cậu cứ về trước mà viết, để đi lấy dấu nhật trung. Nhưng cậu nên viết cẩn thận một chút, kẻo lại sai lầm, phải đi cánh quyển lần nữa thời mất thì giờ lắm đấy.

Với một tiếng dạ sẽ sàng và rất cung kính, Đức Chinh cung cúc lủi ra. Học trò kéo đến lấy dấu nhật trung mỗi phút mỗi dông. Vân Hạc chở một lúc nữa mới nhận được quyển của người lại phòng đưa ra.

Chàng về đến lều, Đức Chinh vẫn đương ngong ngóng ngồi đợi. Thấy chàng, cậu ta liền cất cái giọng giật giọng:

- Chữ "thiết" có bao nhiêu nét, ông nhỉ?

Vân Hạc bước vội vào lều và ngồi quay mặt trở ra, nhìn thẳng sang lều Đức Chinh:

- Cậu hỏi chữ "thiết" là gì?

- Thưa ông, chữ "thiết là "trộm". Tôi mới viết đến câu "thiết vị", vì trong bản giáp, ông viết đá thảo, tôi không nhận ra mấy nét, nên còn chờ để hỏi ông…

- Hai mươi hai nét tất cả. Nếu viết hai mươi mốt nét thì hỏng.

Đức Chinh ra bộ mừng rỡ:

- May quá, chút nữa thì tôi viết chữ "thiết" đơn.

Vân Hạc xua tay lia lịa:

- Ấy chết! Không được viết đơn, chữ gì cũng vậy. Nếu viết đơn sẽ bị đánh là bạch tự.

Rồi hai người cùng quay trở vào, ai nấy cúi xuống mặt quyển, cắm đầu mà viết. Đức Chinh vừa viết vừa nhẩm bản giáp và đếm từng nét, miệng hắn luôn luôn lầm rầm như bọn thầy bói nhẩm quẻ. Lâu lâu hắn viết được nửa dòng thứ tư, lại sẽ tuôn quyển sang lều Vân Hạc để chàng coi hộ. Lần này, trong mấy dòng không bị sai lầm chỗ nào. Vân Hạc sẽ sàng liệng quyển trả hắn, để hắn đi lấy dấu nhật trung và bảo hắn liệng tờ giấy giáp sang lều mình, để mình giáp thêm cho một đoạn nữa.

Bây giờ học trò đã thưa, cho nên công việc xin dấu nhật trung đã nhẹ, không phải chờ đợi lâu quá như mấy kỳ trước. Vân Hạc giáp cho Đức Chinh vừa được hai trang và viết quyển mình được một trang đầu và nữa trang dưới, đã thấy Đức Chinh trở về với một vẻ mặt sung sướng.

- Gần trưa rồi đấy, cậu phải viết mau tay một chút kẻo bài còn nhiều, đến chiều lại phải vội vàng.

Vừa nói Vân Hạc vừa vò tờ giấy giáp tròn như quả ổi và ném sang lều Đức Chinh.

Nhặt lấy "quả ổi giấy" ấy, Đức Chinh vuốt cho thẳng ra và lẩm bẩm đọc hết từ đầu đến cuối. Rồi hắn làm bộ hay chữ và hỏi Vân Hạc:

- Ồ. Thế hai câu hỏi về Hán Văn Đế và Đường Thái Tôn, ông chê đấy ư?

Vân Hạc biết là hắn hỏi lấy mẽ, kỳ thực chẳng hiểu gì cả, nhưng chàng cũng cắt nghĩa thật thà:

- Phải! Phép làm văn sách, cần phải cãi lại đầu bài, đầu bài hỏi ra giọng chê, thì mình phải khen, đầu bài hỏi ra giọng khen, thì mình phải chê. Ấy là nói về tiểu tiết. Còn về đại thể, thì với cổ nhân bao giờ cũng khen, mà với hậu nhân, bao giờ cũng chê. Vì vậy, các cụ đã có câu rằng:

"Đường, Ngu, Tam đại thì khen, "Hán, Đường trở xuống thì lèn cho đau . Hán Văn Đế và Đường Thái Tôn đều là hậu nhân, tất nhiên phải lèn cho đau. Nếu không tức là trái mẹo".

Đức Chinh im lặng gục đầu xuống yên, vừa viết vừa dò từng chữ trong bản giấy giáp.

Gần trưa, hắn viết, gần được ba tờ, Vân Hạc lại quăng sang cho một cục giấy nữa. Cũng như lần trước, hắn giở tờ giấy đọc đi đọc lại mấy lần xem có chữ gì nghi ngờ hay không, rồi lại cặm cụi nắn nót từng nét, y như những cậu học trò mới tập viết tô. Một lúc sau, hắn bỗng lên giọng tự phụ:

- Tôi tưởng trong ruột chữ "đăng" phải là chữ "đậu". Làm sao ở trên chữ "khẩu", ông viết, thiếu cái ngang con? Hay là ông lầm?

Vân Hạc đương để tâm trí vào một đoạn văn ngoắt ngoéo thình lình bị câu hỏi ấy đập vào bên tai, làm dây tư tưởng tự nhiên ngừng lại, chàng hơi bực mình:

- Cậu không coi bảng chữ húy người ta yết ở cửa trường từ kỳ đệ nhất hay sao?

Đức Chinh ngay thật trả lời:

- Có? Tôi có coi? Nhưng tôi không thấy nói đến chữ "đăng"?

- Thế thì có họa lúc ấy mắt cậu quáng nắng. Trong dòng kính khuyết nhất bút" ở ngay đầu bảng, chẳng có chữ "đăng" là gì? Nguyên dạng chữ "đăng" vẫn là chữ “đậu” ở trong, vì nó thuộc hạng húy nhẹ của nhà vua, nên phải kính khuyết nhất bút. Nghĩa là cung kính mà bỏ sót đi một nét. Nếu viết đủ cả cái ngang, tức là phạm húy. Cậu nghe không?

Đức Chinh ra bộ lo sợ:

- Chết chửa? Thế tôi trót viết cả cái ngang con mất rồi, thì làm thế nào, xóa đi có được hay không?

- Không được. Những chữ húy đều là chữ tên nhà vua. Trọng húy chính là tên vua, khỉnh húy thì là tên những bà vua, mẹ vua, hay là tiên tổ lâu đời của vua. Theo phép, bao nhiều chữ húy đều bị cấm đọc, cấm viết, phải coi như chữ bỏ đi. Bởi thế, dù mình viết rồi lại xóa, cũng là có tội. Vì rằng chính mình đã viết chữ ấy kia mà?

Đức Chinh lại cố hỏi thêm câu nữa:

- Hay là xóa cho mù tịt đi vậy?

Vân Hạc phát gắt:

- Càng không được nữa. Bởi vì trường quy đã bắt những chữ dập xóa, chỉ chấm ba cái vào mặt, để cho người ta có thể nhận rõ nguyên hình của nó. Nếu xóa cho mù tịt đi, tức là "đồ bất thành tự" đấy.

Đức Chinh lại ngồi phắt dậy:

- Thế thì tôi làm thế nào bây giờ? Nếu lại cánh quyển lần nữa, thì viết bao giờ cho xong, không khéo sẽ bị ngoại hàm!

Vân Hạc ra bộ thương hại:

- Vậy thì chữ "đăng" ấy ở tờ thứ mấy?

- Thưa ông ở tờ thứ ba.

- Thế thì sợ gì? Xé mẹ cái tờ giấy ấy mà viết tờ khác.

Đức Chinh hí hửng như mơ mới tỉnh:

- Ừ nhỉ! Cái tờ thứ ba không dính đến dấu giáp phùng, xé đi là rảnh. Thế mà trong lúc bối rối, tôi không nghĩ ra, sao mà ruột gan u mê đến vậy?

Rồi hắn khom lưng làm việc như thường. Lâu lâu hắn ngẩng đầu lên và nói chõ sang lều Vân Hạc:

- Câu này sao ông lại viết chữ "dụng"?

Vân Hạc có ý ngạc nhiên:

- Câu nào hứ cậu?

Đức Chinh ra bộ khiêm tốn:

- Cái câu "Dục Nghiêu Thuẫn kỳ quân dân, Y Quẩn thánh chỉ dụng giã" ấy mà. Tôi nhớ ở sách Mạnh, Từ, thấy Mạnh bảo ông Y Doãn là "thánh chi nhậm", không phải là "thánh chi dụng".

Vân Hạc tức quá không nhịn được, chàng cáu:

- Té ra trong lúc đi học cậu không thèm biết chữ húy. Rồi khi tới trường, cậu lại không buồn ngó đến cái bảng chữ húy. Thế mà cậu cũng cắp quyển, đi thi, tôi khen cho cậu là gan.

Ngừng lại một lát, Vân Hạc vừa giở đá lửa đánh lửa hút thuốc vừa tiếp:

- Bởi vì chữ "nhậm" là chữ trọng húy, cho nên kiêng không được dùng, phải lấy chữ "dụng" thay vào. Không phải là tôi quên sách mà viết bậy cho cậu.

Đức Chinh có ý hơi thẹn, liền nói gỡ thẹn:

- Quái lạ? Tôi có coi ở bảng chữ húy, nhưng tôi chỉ thấy chữ miên, chữ hồng, chữ ưng, chữ huê, chữ hao... tất cả chừng bốn, năm chục chữ, không thấy chữ nhậm ở đâu!

Vân Hạc đương tức, nghe câu ấy chàng lại bật cười, suýt nữa bị sặc hơi thuốc, liền nói bằng giọng chế nhạo:

- Phải! Trong bảng, không có chữ "nhậm" thật đấy Chẳng những một mình chữ "nhậm", tất cả những chữ trọng húy như chữ chủng, chữ ánh, chữ đởm, chữ thì,… đều không có cả…

Đức Chinh không hiểu là câu giễu cợt vội vàng ngắt lời:

- Vậy thì ông biết chữ "nhậm" là chữ trọng húy?

Vân Hạc thở hết khói thuốc và tiếp:

- Thế cậu coi ở trong bảng, có thấy dưới dòng "trọng húy dĩ hạ" có câu "nhất tự tả tòng nhân, hữu tòng nhâm" không?

- Có. Tôi có thấy. Và còn có nhiều chữ "nhất tự" khác như là "nhất tự tả tòng nhật, hữu tòng ương", "nhất tự tả tòng hòa, hữu tòng trọng" nữa.

- Ồ? Thế, bên tá chữ "nhân" bên hữu chữ nhâm" hợp lài chẳng là chữ "nhậm" thì gì? Vừa rồi tôi đã nói rằng: những chữ phạm húy đều bị cấm không được viết, cấm không được đọc. Đó là lệnh của triều đình, ai cũng phải theo, từ quan chí dân, trừ ra những người làm giặc. Và không phải chỉ cấm ở trong quyển thi mà thôi, bất kỳ chỗ nào, từ cuốn sổ mãi hiện đến các sách vở đều phải kiêng hết.

Cái bảng treo ở cửa trường hôm nọ tuy là bảng yết chữ húy, nhưng nếu viết hẳn các chữ húy ra thì ra quan trường đã phạm húy rồi. Vì thế, những chữ khinh húy, người ta mới viết thiếu đi một nét, và những chữ trọng húy thì họ tách ra từng mảnh. Coi đến chỗ đó, mình phải hiểu ngầm trong bụng. Thí dụ thấy viết bên tả chữ nhật, bên hữu chữ ương, thì biết nó là chữ ánh, thấy viết bên tả chữ hòa bên hữu chữ trọng, thì biết là chữ chủng. Một sự dễ dàng như thế, mà sao cậu cũng không hiểu? Thôi từ giờ đến tối, cậu cứ coi vào bản giáp, hễ thấy tôi viết thế nào, thì chép cho đúng thế ấy. Đừng hỏi nữa, làm mất thì giờ của tôi. Trưa rồi, bài còn nhiều lắm, tôi viết không kịp thì nguy cả đấy.

Đức Chinh bấy giờ mới biết xấu hổ, hắn bèn vâng dạ vài câu cho qua, rồi lại quay đầu vào viết.

Mặt trời đã xế. Cơn gió bấc lúc nãy đã tạnh, bây giờ lại nổi ào ào. Khí trời môi lúc mỗi thêm giá ngắt.

Đức Chinh chép hết mấy tờ giấy giáp. Vân Hạc vẫn chưa viết tiếp cho hắn. Đã hai, ba lần, hắn toan thúc giục, vì sợ Vân Hạc gắt gởi, nên lại rụt rè không dám. Chờ một hồi nữa, không thấy Vân Hạc đả động gì đến, hắn bèn đánh bạo gọi hỏi:

- Ông Đào! thưa ông, những tờ giấy trước, tôi đã viết xong rồi ạ!

Vân Hạc đương mải tìm mấy chữ xúc về Trương Tử Phòng để đối với câu trả lời về Gia Cát Lượng mà chàng đã nghĩ được rồi, nghe tiếng Đức Chinh đòi bài chàng liền gạt đi:

- Cậu hãy thong thả lát nữa. Để tôi còn nghĩ.

Đức Chinh khẽ vâng một tiếng. rồi hắn lấy thịt kho, ruốc bông để ăn kèm với bánh giò, cơm nắm.

Nhai chập nhai chuội một hồi, trong bụng đã thấy lưng lửng, Đức Chinh dốc ngược quả bầu nước chè vào miệng; nốc một thôi dài, và giở gỏi thuốc lá cuộn sẵn, lấy ra một điếu,.. rồi hắn hì hục ..đánh lứa vừa châm vừa hút phì phèo...

Điếu thuốc đã cháy hết già một nửa, bài của Vân Hạc vẫn chưa đưa sang. Ruột gan hắn bấy giờ hình như đã nóng hôi hổi. Rình mãi được lúc người lính trên chòi canh ngoảnh mặt sang phía bên kia, hắn liền chạy tọt sang lều Vân Hạc.

Một cái giật mình đánh thót làm cho Vân Hạc ngồi phắt trở dậy:

- Chết nỗi? Ai bảo cậu sang đây làm gì? Lính nó trông thấy thì chết bỏ mẹ cả đôi bây giờ!

Đức Chinh dó dáy sờ vành dây lưng lấy hai nén bạc đặt lên mặt yên của Vân Hạc và núc hai tay làm một.

- Thưa ông, hôm qua tôi đã đưa trước ông Cung hai nén còn hai nén nữa nay xin nộp nốt. Vậy ông viết nốt bài cho.

Thì ra hắn tưởng vì hắn chậm tiền, cho nên Vân Hạc phải hãm bài lại. Thấy cái bộ khúm núm của hắn. Vân Hạc lại càng thương hại và càng nực cười. Bản giấy giáp dở đã được gần một tờ rưỡi, chàng viết nốt hơn một dòng nữa cho xong, rồi trao cho hắn và hỏi:

- Cậu có thuộc phép đài ở đoạn văn kim hay không.

- Thưa ông, tôi có nghe qua, nhưng không nhớ kỹ xin ông chỉ bảo thêm cho.

Vân Hạc liền giở tờ giấy luồn phóng kẻ ô ở trong quyển mình, chàng chỉ tay vào mấy dãy ô đầu quyển và dùng cái giọng thầy đồ giảng cho học trò:

- Cậu trông vào đây! Trong ba hàng ở đầu dòng này. hàng trên cùng tột gọi là hàng du cách, dưới hàng du cách gọi là hàng thứ nhất, dưới hàng thứ nhất gọi là hàng thứ hai, dưới hàng thứ hai thì tức là hàng thứ ba. Trong đoạn văn kim, gặp chữ thiên địa, giao miếu thì viết lên hàng du cách, gặp chữ hoàng đế. hoàng thượng hay là thánh thượng, long nhan... nghĩa là những chữ chỉ vào bản thân nhà vua thì phải viết lên hàng thứ nhất. Nếu gặp những chữ chỉ về đức tính hay công việc của nhà vua thì phải viết vào hàng thứ hai. Còn những chữ thuộc về văn bài thì viết từ hàng thứ ba trở xuống. Cậu nhớ lấy nhé.

Đức Chinh ra bộ ngơ ngác:

- Tôi chưa nghe ra. Thế nào là chữ thuộc về đức tính và công việc của nhà vua, ông nói lại cho!

Vân Hạc kéo tờ giấy giáp trong tay Đức Chinh và trải xuống chõng. rồi chỉ tay vào một dòng ở đoạn văn kim:

- Cậu hãy cắt nghĩa cho tôi đoạn này!

Dực Chinh nhìn qua một lượt rồi rụt rè:

- Tôi không hiểu lắm. ông giảng giùm cho.

Vân Hạc liền đọc:

- "Phụng kim ngã hoàng thượng, thông minh tác tắc khải để vi cường, dĩ kiền kiện di tư, phủ thái hanh chi vận ".

- Mấy câu đó, cũng như câu có nghĩa "sĩ" phải viết nhỏ mà tôi đã nói với cậu sáng ngày, đều là câu sáo trong văn sách kim bất kỳ bài nào cũng có. Nghĩa đen của nó thế này này: "Vâng nay, đức hoàng thượng ta sáng suốt làm phép, vui dễ làm gương lấy tư chất cường kiện của quẻ Kiền, vỗ cái vận hanh thông của quẻ Thái..." có phải thế không? Thế thì những chữ thông minh là sáng suốt, khải đề là vui dễ, Kiền kiện là quẻ Kiền mạnh, đều nói về đức tính của đức hoàng thượng, mà chữ dĩ là lấy, chữ phủ là vỗ thì nói về công việc của ngài, chứ gì? Vậy những chữ này đều phải đài lên hàng thứ hai. Còn hai chữ hoàng thượng thì phải đài lên hàng thứ nhất. Các đoạn dưới này, cậu cứ theo đó mà suy ra. Không đáng đài mà đài, đáng đài mà đài không hợp cách chỉ bị đánh hỏng mà thôi, nếu đáng đài mà không đài, thì còn phải tội nữa đấy!

Đức Chinh gấp tờ giấy giáp bỏ túi rồi trịnh trọng mó tay vào hai nén bạc ở mặt chõng và ngẩng lên nhìn Vân Hạc:

- Thưa ông, gọi là thêm một chầu chay, xin ông nhận cho.

Vân Hạc mỉm cười cảm ơn và giục Đức Chinh phải về lều mà viết cho mau. kẻo nữa chậm quá. Sau khi Đức Chinh rả khỏi, Vân Hạc cầm hai nén bạc giắt vào dải lưng và bụng bảo dạ: "Trông mặt ra phết công tử. ai ngờ nó lại dốt đến thế. ấy vậy mà chưa biết chừng. Nếu nó tốt phúc mà không được vào phúc hạch, có khi sẽ đỗ tú tài cũng nên. Việc đời thật không thể nào mà đoán trước được..." Rồi chàng lại giở quyển mình ra viết.

Bây giờ công việc đã nhẹ. Bao nhiêu câu hỏi về thánh hiền. Vua chúa nước Tàu, chàng đã trả lời xong xuôi cả rồi. Lúc này chỉ còn phải viết mấy câu văn kim nữa thôi. Cái lệ văn sách, văn kim tuy là thứ văn hỏi về công việc hiện thời của nước mình, nhưng thực ra nó chỉ là đoạn văn sáo. Cái sáo ấy chàng đã phải tập từ khi còn để hồng mao. bụng chàng đã thuộc như cháo chan cả rồi. Bây giờ chỉ phải theo giọng câu hỏi mà sửa đổi đi vài chữ, không phải khó nhọc chi hết. Coi lại đầu đề và soát bài văn của mình, chàng thấy từ đầu đến cuối, đoạn nào cũng rất đanh thép, nhất là không bị quên sách chỗ nào. Đắc ý. chàng ung dung giở chiếc điếu cày đánh lửa hút thuốc rồi mới viết nốt.

Mặt trời đã lui xuống dưới bức rào. Trên chòi canh. trống thu quyển đã thúc rộn rịp. Vân Hạc vừa kiểm những chữ xóa sót móc chữa vừa gọi với sang lều Đức Chinh:

- Thế nào? Cậu viết đã gần xong chưa?

Đức Chinh vui vẻ trả lời:

- Tôi chỉ còn độ ba dòng nữa. Ông cũng sắp xong rồi chứ?

- Phải! Tôi còn viết nốt mấy chữ đồ, di, câu, cải nữa là xong.

- Vậy thì ông hãy đợi tôi một lát rồi ta cùng ra.

Hai người lại cùng im lặng.

Trống thu quyển mỗi lúc mỗi mau. Tiếng voi ngựa đi tuần ở ngoài bờ rào lại càng rộn rịp hơn trước.

Trời đã nhá nhem sắp tối. Đám học trò phía nhà Thập đạo loáng thoáng có người dỡ lều. Vân Hạc đương thu xếp giấy bút hộp mực bỏ vào trong yên. Chợt thấy Đức Chinh vô tay vào trán một cái đánh bạch:

- Thôi chết bỏ bố tôi rồi!

Vân Hạc giật mình liền hỏi:

- Cái gì thế cậu?

Thì ra vì trong lúc ruột gan bối rối: các đoạn "sĩ giã hạnh phùng thịnh - thế tòng sĩ văn trường, quản kiến nhu tư vị tri thị phủ hắn đã viết thừa bốn chữ "tòng sự văn trường" và thiếu bốn chữ "quản kiến như tư." Sau khi đã nói qua sự lầm lỡ ấy cho Vân Hạc nghe, Đức Chinh lại hỏi:

- Xóa bốn chữ nọ viết bốn chữ kia vào cạnh có được không?

Vân Hạc ngọt ngào trả lời:

- Thôi đành bỏ tờ ấy đi viết tờ khác Vậy. Chữ xoá và chữa nhiều quá như thế bị mắc tội "thiệp tích" kia đấy. Bởi vì người ta ngỡ mình cố làm như vậy. để đánh dấu cái quyển của mình, chứ có ai cho là mình lầm lỡ.

Rồi chàng chạy tọt sang lều Đức Chinh:

- Đâu cậu viết lầm ở chỗ nào. Đưa đây tôi xem.

Vừa nói, Vân Hạc vừa nghển đầu ngó vào quyển của Đức Chinh. May quá, cái tờ bị hỏng ở ngay trên đầu trang. Đến đó, Đức Chinh mới viết có chừng hơn bốn dòng chữ mà thôi. Chàng giục hắn xé tờ ấy, rồi chàng cầm luôn mảnh giấy giáp và sẽ an ủi:

- Để tôi đọc cho cậu viết. Đừng vội. Trống thu quyển mới hết một hồi. Còn sớm chán. Nếu tối thì ta thắp nến! Hãy còn hai hồi trống nữa kia mà sợ gì?

Đức Chinh khi ấy mới khỏi hồi hộp trống ngực. Hắn liền cẩn thận theo miệng Vân Hạc mà viết.

Ngoài trời tối dần dần, rồi tối hẳn. Vân Hạc bảo Đức Chinh hãy lấy đá lửa đánh lửa châm nến. Và chàng vừa cầm nến soi cho Đức Chinh vừa theo bản giáp đọc cho hắn viết. Chàng cũng sợ hắn rối ruột lại viết lầm nữa, nên chàng cứ phải chăm chú nhìn vào quyển hắn, chờ hắn viết xong chữ này chàng mới đọc tiếp chữ kia. Mỗi khi đọc đến chữ gì có nhiều đồng âm thì chàng lại nói luôn câu nghĩa của chữ ấy cho hắn khỏi lẫn.

Hồi trống thứ hai dồn đạp thúc mau. Đức Chinh viết đến chữ "dĩ" trong câu "nguyện trập sự kỳ trạch dĩ văn" và toan đưa bút viết nữa. Vân Hạc vội vàng nắm lấy tay hắn và nói bằng giọng hoảng hốt:

- Ấy chết chữ "văn" này phải đài lên đệ nhị cách kia đấy!

Đức Chinh sửng sốt:

- Ồ lạ thế! Sao chữ "văn" trong câu "đối sỹ văn" ở đầu quyển lại không phải đài? Nó cũng là "nghe" chứ gì?

Vân Hạc thẽ thọt:

- Phải. Hai chữ "văn" cùng là nghe cả. Nhưng chữ "văn" trên nghĩa là mình nghe. nên không phải đài. Còn chữ "văn" này thì là vua nghe, nếu không đài, ấy là bất kính. Người ta đập vào đầu ấy.

Đức Chinh lè lưỡi:

- Sao mà rắc rối quá vậy.

Sau khi đã nắn nót viết một chữ "văn" bông bênh lên hàng thứ hai, hắn lật các tờ trong quyển, đếm hết những chữ xóa, sót, móc, chữa, để viết vào dưới chữ "cộng quyển nội" Hết tội.

Đức Chinh hì hục dỡ lều buộc chõng và đeo lên vai. Vân Hạc thì bỏ cả chõng lẫn lều. chàng chỉ đèo ra có một cái yên và một cái ống đựng quyển.

Ra nhà Thập đạo nộp quyển xong rồi. Vân Hạc vừa đi vừa hú vía! Vì đã vô cố mà rước lấy nợ vào mình.