Franz và Clara - Chương 19 - 20 - 21

19

Sau đó, họ nín lặng.

Cô có hai phản ứng tức thời, những phản ứng rất phụ nữ. Cô khép hai vạt áo choàng trên ngực lại, và đưa một tay ra sau gáy gỡ búi tóc bằng một cái lắc đầu để mái tóc gợn sóng mềm mại buông xuống bờ vai. Rồi cô quan sát người thanh niên trong khi vẫn không phá tan bầu không khí yên lặng.

Franz giống hệt những gì cô đã hình dung ra khi thấy anh trên băng ghế bên hồ nước, mười năm trước đây – hình dung ra mẫu người đàn ông một ngày nào đó anh sẽ trở thành. Cặp lông mày dày dặn, gò má cao, sống mũi thẳng, và nụ cười bừng sáng khuôn mặt dưới vầng trán rộng cùng cái nhìn kỳ lạ, với sắc xanh ngả vàng trong đôi mắt. Tất cả những nét ấy, từ nay đã lớn hơn, được tôn thêm, như để phù hợp với quá trình trưởng thành ở anh, với giai đoạn anh bước vào tuổi trưởng thành, và vẻ nghiêm nghị đôi khi quá mức ở cậu bé có năng khiếu đặc biệt dường như đã nhường chỗ cho một vẻ bình thản, tĩnh lặng cao quý. Anh nhã nhặn, ung dung, bước tới thận trọng, giống như đang đi trên lớp băng mỏng dễ vỡ vụn.

Anh ăn mặc khá giản dị, kiểu sinh viên các nước phía Đông: áo sơ mi mở cúc cổ hiện đang là mốt, áo vest nhung tối màu ngả màu hạt dẻ sẫm, quần flanen màu xám chì. Giờ đang là mùa đông, nên anh mang một đôi giày khá ấm áp, đế dàyầm ở tay một chiếc áo khoác chần bông cùng tông màu áo vest. Có thể nói rằng, ý thức được sức lôi cuốn toát ra từ từng cử chỉ của mình, Franz không chấp nhận bất kỳ thứ quần áo lố lăng nào, bất kỳ sự lựa chọn nào có thể biến anh thành một gã công tử bột, một gã lòe loẹt, một kẻ tự mê bản thân mình. Và về mặt này thì Franz chẳng hề thừa hưởng gì từ vẻ kiêu căng quý tộc mà Clara từng nhận thấy trên tấm ảnh chụp người bố tự vẫn – đồng thời là kẻ phạm tội – trên tờ tạp chí ngày trước, tờ tạp chí tiết lộ với cô tất cả những điều cậu bé đã không bao giờ dám thổ lộ cùng cô.

Về phần mình, Franz nhìn Clara. Nhưng vì cô đang mặc áo choàng, khuôn mặt vẫn còn bóng loáng lớp kem tẩy trang chưa kịp lau hết, anh cảm thấy nhìn như thế có thể khiến cô bối rối nên cụp mắt xuống.

Cuối cùng cô cũng lên tiếng:

- Cho tôi vài phút để mặc quần áo. Nếu muốn cậu có thể đợi tôi ở bên ngoài.

Anh quay người ngay lập tức, như thể đã chờ đợi mệnh lệnh này. Cô liền nói với anh:

- Nhưng trước đó, hãy xác nhận với tôi rằng cậu đã có mặt trong khán phòng, phải thế không, đúng là cậu chứ?

Anh tiến lại phía cô. Cô nhận thấy anh dường như đang khiêu vũ trong những bước đi ấy. Có gì đó thật uyển chuyển trong dáng đi của anh và cô nhận ra vẻ duyên dáng đã từng thấy khi anh rời ghế băng, vừa đi vừa chạy về trường nội trú. Khi ấy, cô không quá chú ý đến vẻ thanh lịch toát ra từ cơ thể anh, cách anh cử động giống như cánh buồm căng lên trước cơn gió vù qua.

- Đúng vậy, anh vừa khẳng định vừa mỉm cười, giờ thì chị đã thấy rõ khi ở giữa toàn bộ khán giả, ta có thể cảm thấy rằng một người và chỉ một người duy nhất không nghĩ về ta như nghĩ về một nghệ sĩ diễn tấu thuần túy. Chị nhớ không, chúng ta đã từng tranh luận về chuyện này rồi, tôi nói với chị rằng tôi tin vào điều đó nhưng rồi tôi lại không tin thế nữa. Còn chị dù thế nào thì chị cũng không tán đồng.

- Đúng thế, đúng thế, tôi vẫn còn nhớ.

- Vả lại, bản thân chị, chị cũng cảm nhận rất rõ mọi thứ. Bởi đã có một trục trặc nhỏ, đúng không, một chút lệch nhịp ở đoạn biến tấu thứ ba, không phải vậy sao?

Cô ngạc nhiên. Rồi cao giọng. Chuyện này kích thích cô.

- Làm thế nào mà cậu cũng nhận thấy điều đó? Phải là một người thực sự rất, rất tinh thông mới nắm bắt được trục trặc này, cậu đã trở thành nhạc công rồi à?

Cô cảm thấy hết sức phật ý, tổn thương. Cô siết chặt các ngón tay.

- Hay, cô tiếp tục, như thế tức là lỗi lầm của tôi rõ ràng, trầm trọng, hiển nhiên đến mức đó sao?

Anh bật ra một tiếng cười trấn an, giọng nói của anh thật êm dịu. Giọng nói của anh… Chính điều ấy cũng tác động đến Clara. Dĩ nhiên là anh đã thay đổi, lớn hơn, mạnh mẽ hơn, những vệt râu chạy dài trên khuôn mặt vuông vắn, vóc dáng anh thật ấn tượng. Nếu như cô vẫn dễ dàng thấy lại những nét của cậu bé còn chưa là một người đàn ông ở người thanh niên không còn là một cậu bé này nữa, thì ngược lại, giọng nói của anh đã biến đổi, trầm, sâu lắng, khàn khàn, đôi khi ồm ồm. Trước kia, anh từng nói như một người trưởng thành, nhưng chưa có âm sắc trầm trầm này trong giọng. Giờ đây, có thể nói rằng mọi thứ đã ở đúng vị trí của mình.

- Không đâu, chị yên tâm, anh lại tiếp tục, tôi chỉ đoán vậy, thế thôi. Đó là một trong nhiều khả năng còn sót lại từ những “năng khiếu đặc biệt” ở tôi. Tôi thấy được những điều mà người khác không thấy.

Giải thích như thế không đủ thỏa mãn Clara, anh cảm thấy điều ấy. Vì vậy mà giọng anh mang vẻ tạ lỗi. Cô bỏ qua.

- Thôi được, thôi được, cô nói, yên tâm đôi chút. Nghe này, có một tiệm cà phê ở góc bên tòa nhà, ra khỏi sảnh là thấy ngay. Tôi sẽ gặp cậu ở đó trong vài phút nữa.

Anh bước ra khỏi gian thay đồ. Cô nhấc điện thoại lên, bấm số.

- Giovanni à? Clara đây. Tôi biết cậu và mọi người đang đợi tôi tới ăn tối, nhưng tôi không thể tới được, các bạn hãy ăn mà không có tôi. Tất nhiên là cậu gửi lời xin lỗi của tôi đến Peter và những người khác nhé. Chúng ta sẽ gặp lại nhau vào sáng mai tại sân bay.

Cô bắt đầu trang điểm lại. Nhưng không phải là trang điểm để lên sân khấu, để chuẩn bị cho một buổi diễn. Cô chọn màu sắc khác, loại phấn khác, tông màu khác, những thứ mà một phụ nữ dùng khi bước vào cuộc sống thực.

20

Tại Lucerne, trên băng ghế, họ từng trò chuyện với nhau bằng tiếng Pháp và đã dùng cả đến cách xưng hô thân mật gần gũi lẫn lịch sự xa cách. Còn ở Boston, họ nói bằng tiếng Anh, và đại từ nhân xưng ngôi thứ hai duy nhất “you” trong ngôn ngữ này hợp với cô. Cô nghĩ rằng có lẽ mình sẽ thấy bối rối khó xử khi xưng hô chị em với người thanh niên hai mươi hai tuổi cao lớn đang ngồi trước mặt cô. Lúc này, cô ngồi trên một chiếc ghế nệm dài trong tiệm cà phê, còn anh ngồi vào một chiếc ghế tựa ở phía bên kia mặt bàn formica, trên đó đặt hai tách cà phê nóng, không thêm bất kỳ vị gì, màu nâu nhạt, giống như loại cà phê người ta vẫn phục vụ ở khắp nơi trên đất Mỹ.

Cô có cảm giác như đang ngồi trước một người vừa xa lạ, vừa rất thân quen, gần gũi với cô. Điều ấy không làm cô khó chịu, nhưng cô tìm cách tạo cho mình thái độ phù hợp và cô sợ mình sẽ không tự nhiên, mình sẽ đóng kịch – bởi, cô nghĩ giữa hai người trưởng thành, người ta thường cư xử với nhau khá kịch, và đó không phải cách để nói chuyện với cậu bé trên băng ghế. Cô nói:

- Một lần gần như tình cờ, khi đọc một tờ tạp chí cũ, tôi đã biết được chuyện từng xảy ra với cậu khi cậu còn nhỏ.

- Tôi đã không bao giờ có thể kể được với chị chuyện ấy.

- Tại sao?

- Nó quá dữ dội, đó là một chấn động về mặt tinh thần, có lẽ tôi sẽ òa khóc nức nở mất. Vả lại, tôi rất muốn là một người đàn ông trước mặt chị.

- Cậu thật là, cô nói với cậu, kỳ lạ… Tôi chưa bao giờ gặp cậu bé nào giống như cậu.

Họ cùng nhau hồi tưởng lại những lần chuyện trò giữa hai người. Anh hỏi cô về trải nghiệm của cô tại London, về cuộc chiến đấu để trở thành nghệ sĩ độc tấu của cô. Cô được biết rằng anh đã tốt nghiệp đại học Harvard, được bổ nhiệm là người đứng đầu hội đồng dòng họ Herzeghoern. Những người lớn tuổi mong đợi anh sẽ quản lý toàn bộ gia sản nhưng anh từ chối trở lại Munich.

- Tôi ca thấy mình chẳng phải người Đức, chẳng phải người Thụy Sĩ, cũng chẳng phải người Mỹ. Tôi không thuộc về câu chuyện ấy, gia đình ấy, quá khứ ấy.

- Cậu sẽ làm gì với cuộc đời mình?

- Tôi chẳng hề có dự định nào và tôi lại có cả nghìn dự định. Tôi muốn thấy thế giới. Tôi chẳng biết gì về thế giới cả.

- Tức là vẫn luôn là những câu hỏi, vẫn luôn là những câu hỏi tại sao à?

- Tôi không thay đổi nhiều đến mức thế đâu. Hẳn nhiên là bớt đi một chút năng khiếu đặc biệt, nhưng tôi vẫn luôn tin rằng người hay đặt ra các câu nghi vấn là người sống đích thực.

Một khoảng lặng.

- Và cả người hành động nữa, sau khi đã tự đặt câu hỏi cho chính mình. Thậm chí ngay cả khi họ chẳng tìm được câu trả lời nào cả.

Anh cụp mắt xuống, rồi lại ngước lên, nghịch nghịch tách cà phê, và nhìn cô.

- Tối nay không phải tình cờ mà tôi có mặt tại đây. Cách đây ít lâu tôi đã tìm lại được tin tức của chị, tôi theo dõi lịch diễn và những bước đi trong sự nghiệp của chị. Khi biết chị sẽ diễn ở Boston, tôi nghĩ ngay đây đương nhiên là một cuộc hẹn.

- Nhưng tôi có hẹn gì với cậu đâu, Franz.

- Dĩ nhiên là có chứ, Clara. Trước đây em không biết điều đó, nhưng giờ thì em biết rồi.

Anh bắt đầu chuyển sang xưng hô thân mật bằng tiếng Pháp. Cô ngập ngừng, rồi cũng làm theo anh:

- Ý anh là thế nào?

- Lúc nào tôi cũng nghĩ đến em. Tôi luôn lưu giữ kỷ niệm về một thiếu nữ hai mươi tuổi xinh đẹp với trái tim tan vỡ. Tôi yêu cô ấy mà không ham muốn cô ấy nhưng lại vẫn luôn ham muốn cô ấy, bởi tôi không thể vượt qua ham muốn đó, song dù sao tôi vẫn có thể nói với em điều này, tôi luôn mơ về em. Khi tôi mười hai tuổi, chẳng phải em đã luôn nhồi nhét vào đầu tôi rằng tôi còn là một đứa trẻ, rằng tôi vẫn chưa phải là một người đàn ông, và em đã nói thế với tôi nhiều lần, nhưng người ta chẳng thể nào tránh khỏi những giấc mơ – cũng như cách để thỏa mãn những giấc mơ ấy. Cả ham muốn ẩn chứa sau chúng nữa và rồi rốt cuộc người ta được thỏa mãn, một mình, trong đêm tối. Tôi vẫn luôn lưu giữ kỷ niệm về một thiếu nữ không thể chạm tới được. Và giờ đây, tôi đang ngồi trước mặt một phụ nữ ba mươi tuổi thật xinh đẹp.

- Và “có thể chạm tới được”, anh muốn nói thế đúng không?

- Không, chính em là người vừa nói ra mấy từ ấy đấy chứ, đâu phải tôi.

Cô đỏ mặt ngượng ngùng. Kể từ khi cô đặt chân vào tiệm cà phê và anh đứng lên mỉm cười chào đón cô, cô hoàn toàn không kiểm soát nổi thái độ mà cô cho là mình cần có với Franz nữa. Cô tự hỏi tại sao mình lại quyết định gọi cho Giovanni để hủy bữa tối với các nhạc công trong bộ năm nhanh chóng đến vậy. Điều gì đã bột phát thôi thúc cô hủy hẹn để buổi tối rảnh rỗi như thế? Dĩ nhiên, đó là lòng hiếu kỳ, đó là quá khứ trỗi dậy: anh đã trở thành người thế nào, anh đã làm những gì, anh đã lớn lên ra sao? – dĩ nhiên, có tất cả những chuyện ấy. Nhưng Clara cũng cảm thấy rằng “cảm xúc” mà Franz từng nhắc đến hồi anh ngồi cạnh cô trên băng ghế, bởi khi ấy anh không mu sử dụng một từ nào khác, đã nảy sinh trong cô ngay từ lúc cô nhận ra người đàn ông nay anh trở thành. Cô có những cử chỉ làm dáng, một cái bĩu môi, những động tác lôi cuốn vô thức, đôi bàn tay cứ vô cớ lóng ngóng, rồi những khoảng lặng, đôi mắt cô lẩn tránh rồi lại hướng về đôi mắt người kia.

- Có lẽ thế, nhưng dù sao chúng ta cũng đã chẳng hề hẹn hò gì.

- Có chứ, Franz nói. Đừng nói với tôi rằng em chưa bao giờ suy nghĩ về lời đề nghị của tôi với em đấy nhé.

- Có lẽ thế.

Dường như họ đã quyết định cứ xưng hô thân mật bằng tiếng Pháp – vậy nên một vài người ngồi các bàn bên cạnh không thể hiểu nổi họ đang nói gì. Điều ấy cũng có nghĩa là họ đã tìm lại được sự thân mật trong lối trò chuyện xưa kia.

Franz:

- Cho tôi hỏi em câu này: em đã có ai cho cuộc đời mình chưa?

- Chưa. À mà, rồi và chưa.

- Thế có nghĩa là em chưa hoàn toàn gắn bó với người đàn ông đó, người nhạc trưởng ấy, giữa hai người chưa có ràng buộc gì về pháp lý.

Một lần nữa, cô lại nổi cáu, cảm thấy lòng kiêu hãnh bị đụng chạm.

- Anh nói về cái gì thế? Anh thì biết gì về cuộc sống của tôi chứ, Franz?

- Không gì cả, tôi chỉ đoán, thế thôi.

- Anh đoán ra điều gì nào? Anh đã nói chuyện với những ai rồi? Anh đọc được những gì trên báo chí? Người ta đã nói gì với anh thế?

- Người ta chẳng nói gì với tôi cả, tôi chỉ đơn giản hình dung ra thôi: những người đàn ông duy nhất quan trọng với em, bố em rồi Luca, đều già hơn em và tôi nghĩ cả ông nhạc trưởng nổi tiếng, hào hiệp và tài ba ấy nữa. Em luôn tìm kiếm một người che chở cho mình. Điều đó bình thường thôi, mà gần như là tầm thường vậy.

Cô không nén nổi cười. Vẻ tự tin này, tính ngạo mạn này, cái lối cứ khăng khăng tin rằng mình biết mọi thứ và dự cảm được mọi thứ – rõ ràng là anh chẳng hề thay đổi. Thực ra, việc anh nhìn nhận sai như thế lại tiện cho cô, nó giúp cô ít nhiều làm chủ lại tình hình, quên đi sức lôi cuốn từ anh, thiết lập một mối tương quan khác, thoát ra khỏi sức hút của anh đối với cô.

- Franz tội nghiệp của tôi, nhưng anh thì biết gì về mọi người chứ, và làm thế nào mà anh lại tự cho phép mình đánh giá họ như vậy?

- Xin lỗi, tôi đã nói một điều thực sự ngu ngốc.

Anh muốn chìa tay về phía tay cô, cô không rút tay mình lại. Cho đến giờ, anh chưa hề phác một cử chỉ nhỏ nhất nào, thậm chí không cả một nụ hôn lên má, dấu hiệu của một cuộc gặp mặt sau bao năm bặt tin. Anh thì thầm:

- Em lúc nào cũng nắm tay tôi, ở trước hồ nước ấy. Em luôn đặt bàn tay mình lên cánh tay tôi.

- Franz, tôi xin anh đấy, khi ấy anh vẫn là một cậu bé.

Anh rút tay về rồi ngồi lù lại trên ghế của mình. Cơ thể anh hoàn toàn thoải mái, anh không hề căng thẳng, giả điệu giả bộ hay đóng kịch chút nào. Franz không đeo mặt nạ.

- Chính xác là tôi không còn như thế nữa. Tám tuổi cách biệt, giờ đây điều đó chẳng có nghĩa lý gì giữa một người đàn ông và một phụ nữ, giữa hai con người.

Cô biết rằng điều này rồi cũng sẽ xảy ra. Cô chờ đợi nó. Liệu cô có mong muốn nó không?

- Còn anh, cô nói, anh đã có ai cho cuộc đời mình chưa?

Anh khẽ nhăn mặt cười nhạo chính mình.

- Nếu em muốn biết hết mọi chuyện thì điều đó chưa bao giờ, chưa bao giờ diễn ra tốt đẹp cả.

- Anh muốn nói…

- Phải, tôi muốn nói về mặt thể xác, phải, chưa hề cùng ai. Nếu em muốn biết rõ mọi chuyện, thì tôi chưa bao giờ thực sự có được điều người ta có thể gọi là sự thỏa mãn trong tình yêu. Toàn những điều vờ vịt, dối trá, thậm chí đôi khi cũng chẳng thành chuyện.

- Tại sao vậy? Phải chăng anh lo sợ những điều cha mẹ mình đã làm?

- Tôi không rõ nữa. Có lẽ là tôi chờ được gặp lại em.

Cô phản kháng. Anh không hề úp mở, quá rõ ràng, quá thẳng thừng. Nhưng anh vẫn luôn như thế. Cô tưởng như gặp lại Franz bên hồ nước. Cuộc chơi không còn như trước nữa. Vậy nên cô quay lại với tiếng Anh – với ngôi “you” với thái độ xa cách.

- You are being silly. Cậu lại nói những điều ngu ngốc rồi.

- Không đâu, không hề đâu, Clara, tại sao lại không phải như vậy chứ? Em sẽ ở lại Boston bao lâu?

Cô chìa cổ tay ra để nhìn đồng hồ, một hành động đánh trống lảng để giấu đi sự bối rối trong cô.

- Ngày mai chúng tôi đi Chicago, tất cả cùng đi, để buổi tối có thể biểu diễn. Beethoven, Brahms.

- Với cả dàn nhạc à?

- Đúng thế.

Và bất chợt, nước mắt dâng lên trong đôi mắt cô. Cô không hiểu tại sao. Cố biết rằng chẳng cần phải có gì to tát thì những lớp rào chắn bảo vệ trong cô mới sụp đổ, như thể toàn bộ cường độ của buổi hòa nhạc, những khó khăn của cô khi phải giữ vị trí hàng đầu trước sức ép về tài năng của cây clarinet, sự vụng về của cậu thanh niên chơi alto và cảm giác tội lỗi đè nặng lên cô khi tự cho rằng tất cả đều là lỗi ở cô, cảm giác thất vọng mãnh liệt về chính bản thân mình, là tôi, là tôi, đó là những sai lầm của tôi – như thể sự hiện diện vô hình đã làm cô xáo trộn ở khúc biến tấu thứ ba ấy, tất cả những dằn vặt hối hận mà người ta không thể kiểm soát nổi và chúng đã phá hỏng những gì cô hình dung về một buổi tối hoàn hảo ở đó cô là ngôi sao, như thể sự ngạc nhiên và cú sốc mà cô vẫn không chịu thừa nhận là cú sốc nhưng nó vẫn là như vậy, cú sốc trước sự xuất hiện của Franz, một hình hài cao lớn với ánh mắt kỳ lạ hiện ra như đóng khung trong khuôn cửa – như thể tất cả những điều này đổ ập lên cô. Và chúng làm mọi thứ quay trở lại trong cô: chí tiến thủ ở cô, rồi những tính toán, những trù liệu, và ý chí của cô, cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ để trèo lên từng nấc thang tháp lầu, thời gian biểu của những chuyến lưu diễn, những lịch làm việc dày đặc, máy bay rồi tàu xe, những xun xoe nịnh bợ, vẻ bề ngoài và trò đóng kịch giả dối trước đám đông, công việc vắt kiệt sức lực, những thành công và thất bại, những mối tình thoảng qua và những mối tình tan vỡ, như thể tất cả những điều này đều trở lên phi lý, đều hạ thấp cô, như thể chỉ sự hiện diện của người thanh niên kia, người vừa bình thản thú nhận với cô rằng trước đây một mình trong đêm tối anh đã thoả mãn được ham muốn của mình dành cho cô – như thể tất cả những điều này có thể kết thúc hoặc được quyết định chỉ trong một giọt nước mắt, lối thoát duy nhất của cô trước khó khăn, giải pháp duy nhất để không phải tiếp tục vượt qua cái ngưỡng cửa luôn lôi cuốn cô nhưng cũng làm cô sợ hãi.

Quả thực, cô đã khóc – nhưng không lâu. Anh đứng dậy, đi vòng qua bàn và ôm cô trong vòng tay. Cô để anh làm vậy. Thời gian trôi đi. Rồi cô ngồi thẳng dậy.

- Mong cậu thứ lỗi, cô nói, nhưng đột nhiên tôi thấy mệt quá. Tôi phải về khách sạn.

- Để tôi đưa chị về, anh đáp.

- Tuỳ cậu thôi.

Cô có vẻ khó đứng dậy nổi khỏi băng ghế trong tiệm cà phê. Một cảm giác kỳ lạ gần như bị tê liệt, đôi chân không nghe lời. Franz đỡ cô dậy và dìu cô từng bước nhỏ, thận trọng, như thể anh đang giúp đỡ một người tàn phế. Anh cầm lấy hộp đàn màu đen cô để cạnh mình, trên băng ghế. Họ đi ra với đêm tối. Cô bỗng dừng lại bất động và nói:

- Xin lỗi, tôi phải quay vào một lát, tôi quên làm việc này.

- Chị có muốn tôi đưa chị vào không?

- Không cần đâu, tôi vào không lâu đâu, mọi việc sẽ ổn thôi.

- Tốt lắm, tôi sẽ giữ hộp đàn cho chị.

Nhìn thấy cô bước vào, người phục vụ tiệm cà phê nhẹ nhàng nói với cô:

- Chúng tôi sẽ đóng cửa trong mười lăm phút nữa.

Clara tiến về phía khu vệ sinh, đẩy cửa và đi thẳng tới trước chậu rửa và gương treo tường. Cô nhìn mình. Cô mở chiếc túi nhỏ bằng da ra, bên tròn đựng chìa khoá, một ít tiền lẻ, vài dụng cụ trang điểm. Cô tiến sát tới trước gương, đến mức bụng cô tì sâu vào thành chậu rửa, nó khiến cô hơi lạnh nhưng lại giữ cho cô đứng thẳng, nếu không cô sợ rằng mình sẽ đổ sụp xuống sàn. Cô đã từng bị như vậy rồi. Thường thường, điều ấy xảy ra sau các buổi hoà nhạc hay sau một buổi tập luyện quá dài. Bác sĩ của cô cho rằng tình trạng này là do một chứng mất năng lượng, chứng hạ đường huyết. Ông nói với cô: “Cô đã cho đi quá nhiều, thế nên chẳng còn lại gì khi cô kết thúc, cô đã hao tổn, kiệt sức.”

Và bởi vị bác sĩ này có chút gì đó của bác sĩ tâm lý, nên ông đã nói thêm: “Có lẽ cô đã quá tôn thờ môn nghệ thuật của mình.”

Cô đáp: “Không, điều ấy mang lại cho tôi niềm tự hào, và điều ấy chẳng bao giờ là quá nhiều cả.”

Nhưng giờ đây, đứng trước gương ở tiệm cà phê, Clara thấy rõ rằng tối nay, chính sự xuất hiện của Franz đã làm cô “hao tổn”, đã đảo lộn điều cô vẫn cho là ngăn nắp trong cuộc đời mình. Cô lấy ra một hộp phấn, một chiếc hộp nhựa nhỏ màu đen, cùng cây cọ đi kèm, một thỏi son bóng màu, một chiếc lược nhỏ xíu, một lọ mascara với chổi tròn. Cô để mấy thứ lên trên phần mặt phẳng trắng đục của chậu rửa, rồi lẳng lặng ngắm gương mặt mình.

Nhìn mi đi, cô tự nhủ, mi đã khóc cơ đấy, mi thật là tồi tệ, cô gái tội nghiệp ơi! Nước mắt đã chảy trên má mi, thế nên cần phải vẽ lại mi mắt, đánh phấn lại, nhưng trước hết, rửa mặt đi nào, lau sạch mọi thứ đi, và rốt cuộc, hãy thử đối diện với một người đàn ông trong bộ mặt thật! Tại sao mi lại khóc chứ? Vì những sai sót của mi ư? Đừng nghĩ đến chúng nữa, hãy từ bỏ một chút, mi muốn thế không?

Cô làm những động tác để xoá đi vầng hào quang mà người ta vẫn gán cho cô quá thường xuyên, trong khi bản thân cô lại không tin vào nó. Nghiêng mình về phía tấm gương, bụng dưới tì vào thành chậu rửa, Clara cảm thấy mong muốn được người khác chiếm hữu và được chiếm hữu người khác. Cô mỉm cười với chính mình. Lần đầu tiên kể từ lâu lắm rồi, vẻ mặt mà cô thấy trong tấm gương ở phòng vệ sinh tiệm cà phê không khiến cô quá chán ghét. Cô lôi từ chiếc túi nhỏ bằng da ra một vật cuối cùng, một hộp kim loại đựng kẹo Altoid, những viên ngậm nhỏ xíu có vị rượu bạc hà giúp miệng và hơi thở thơm mát. Cô lùa một hai viên dưới lưỡi của mình và hành động vô nghĩa này khiến cô thấy yên lòng.

21

Bên ngoài, Franz đặt hộp đàn trên đá lát vỉa hè, ngay cạnh cửa vào tiệm cà phê. Anh thích ý nghĩ rằng nằm dưới chân mình, bên trong chiếc hộp đen với hình dạng dễ nhận ra này, là nhạc cụ bé nhỏ mỏng manh bằng gỗ phong hay gỗ vân sam, cùng với nó, mới đây thôi, Clara đã dâng tặng cái đẹp cho khán giả, và nhờ vào nó mà anh cảm thấy đồng điệu với sự sống.

Anh chưa bao giờ được nhìn thấy hay nghe cô chơi đàn. Và cô đã không hề làm anh thất vọng. Anh ngước mắt lên bầu trời vắng bóng những vì sao, bầu trời bao phủ thứ sương mù vàng nhạt, có lẽ là dấu hiệu báo trước một đợt tuyết sắp rơi. Chờ đợi người phụ nữ trẻ trong cái lạnh thế này hoàn toàn phù hợp với anh. Anh nhận thấy thật dễ chịu khi không nghĩ đến gì khác ngoài cây đàn violon kia và người phụ nữ điều khiển nó một cách điêu luyện. Từ lâu lắm rồi anh không cảm thấy trong mình một cảm giác tĩnh lặng thế này. Anh liền nghĩ tới Lunax.

Vào một kỳ học, khi đó anh mười tám tuổi và đang học năm thứ nhất tại Harvard, Franz có trao đổi thư từ với một thiếu nữ cũng có năng khiếu đặc biệt giống mình, Anna-Beth thường được gọi là Lunax. Anh đã phát hiện ra trang web của cô trên Internet. Tại đây, cô tuyên bố rằng không có gì có thể làm nguôi ngoai được nỗi cô đơn của một người có năng khiếu đặc biệt, không gì cả ngoại trừ việc kết hợp với những con “quái vật” khác giống cô. Franz bắt đầu thư từ với cô khi chỉ rõ ngay từ tin nhắn đầu tiên rằng: “Chúng ta không phải là những con quái vật. Bạn đã mắc một sai lầm nghiêm trọng.”

Trang web của Lunax là một trong những trang web được nhiều người ghé qua nhất trong số tất cả các trang web của cộng đồng nhỏ bé nhưng rất tích cực này - cộng đồng bao gồm những thanh niên có chỉ số IQ đặc biệt phát triển, họ thường xuyên trao đổi những suy tư, mơ mộng, những phát hiện, bực tức và ảo tưởng của mình qua không gian điện tử tại Mỹ. Lunax đã nhanh chóng phát hiện ra cá tính của Franz giữa bao người sử dụng Internet khác, những người ít nhiều đều đang tán tỉnh cô qua mạng. Cô quyết định gửi địa chỉ cá nhân của mình để thu hẹp phạm vi đối thoại, chỉ còn giữ liên lạc với một mình Franz. Họ trao đổi ảnh với nhau. Anna-Bethana sống tại Utah. Cô có mái tóc hoe vàng và nhìn cô khá xinh, trên mặt cô là một vết sẹo hình chữ z, kỷ niệm của trận vật lộn với một chú sư tử núi còn non, chú này, theo như cô giải thích trong thư, đã tấn công cô trong một lần cô đi chơi ở King’s Peak, ngay giữa Vường Quốc gia Wasatch-Cache.

- Anh chẳng hề tin một lời trong câu chuyện của em, Franz đáp. Sư tử núi không tấn công con người.

- Có thể, nhưng em không phải “con người”, Lunax nói.

- Nói cho anh sự thật đi, chính em đã tự rạch mặt mình khi còn nhỏ. Anh biết thừa những ham muốn tự huỷ hoại của em. Em là một kẻ quen thói bịa chuyện.

- Em hi vọng rằng anh chỉ nói đùa thôi, cô đáp.

- Anh rất muốn xem cánh rừng của em giống với cái gì, Franz đáp trả

Cuối cùng thì họ chuyển sang trò chuyện qua điện thoại. Lunax rất khác thường, cô nói với một tốc độ khiến người khác phải ngạc nhiên và đôi khi chẳng thể hiểu nổi. Cô đã mời Franz đến nghỉ cuối tuần tại nhà bố mẹ cô, ở Provo, nơi trước đây cô học chơi piano, học tiếng Trung, khoa học chính trị, toán học và đạo diễn điện ảnh. Một tối thứ Sáu, Franz tới sân bay Logan, Boston, với tấm vé máy bay đi Salt Lake City trên tay. (Vì Provo nằm không xa thủ phủ Boston là mấy nên Lunax đã đề nghị sẽ đón anh khi anh tới Salt Lake.) Đứng trước quầy vé của hãng hàng không Out Western, trong khi người ta bắt đầu gọi hành khách tới làm thủ tục đăng ký trên máy bay, bất chợt, như bị bản năng thúc đẩy, Franz quyết không đi nữa: “Mình sẽ không lên chiếc máy bay này.”

Đột nhiên, mọi thứ trở nên rõ ràng: anh từ chối đi gặp một con “quái vật”. Lunax có thể mang lại cho anh điều gì cơ chứ? Anh đã biết khá rõ, đủ để chính bản thân mình trải qua được những khó khăn ấy, những khó khăn khi ở vào địa vị của họ: không giống những người khác. Anh không muốn tự khép mình trong cái bẫy này. Vả lại, bị thúc đẩy bởi một trực giác mà anh không cố để hiểu, Franz dự cảm rằng chuyến bay OW 617, Boston-Salt Lake không bao giờ đến đích. Chẳng có gì là có vẻ như thế cả. Khi trở về học xá vào buổi đêm, anh chờ đợi vài giờ trôi qua rồi mới kiểm tra xem liệu có gì xảy ra với chuyến bay đó không. Không hề xảy ra điều gì bất thường. Máy bay đã cất cánh, sau đó hạ cánh mà không gặp trục trặc nào, vào đúng giờ dự kiến. Anh tự nhủ: “Nếu mình lên đó, chiếc máy bay sẽ vỡ vụn.”

Sau đó, anh quyết định cười nhạo những sợ hãi của mình và điều rủi ro này, nhưng ngừng tất cả mọi liên hệ với Lunax và quyết tâm, dù ít dù nhiều, tuân theo những thông lệ và quy định của cuộc sống sinh viên. Trong tâm trí anh lúc nào cũng luẩn quẩn ý nghĩ rằng một mối nguyểm bất ngờ có thể xảy đến phá vỡ cuộc xoay vần của vạn vật bất cứ lúc nào. Kể từ ngày đó, trong những chuyến đi, những lựa chọn, thậm chí cả trong cách bước đi của mình, Franz đều gắng tìm kiếm điều gì đấy như là sự cẩn trọng, hướng đến một sự cân bằng.

Vậy nên anh đã nghĩ tới Clara. Thực ra, từ Lucerne tới Munich, rồi từ Munich tới Mỹ, trong hành trình rong ruổi từ nơi này đến nơi khác và trong suốt quá trình chuyển sang tuổi trưởng thành của mình, anh không hề quên bất cứ điều gì về cô gái trẻ ấy. Anh bắt đầu tìm lại dấu vết của cô và năm này qua năm khác, lần theo sự nghiệp của cô, lần theo những lời khen ngợi tán thưởng hay chỉ trích nhẹ nhàng dành cho nữ nghệ sĩ độc tấu violon và anh cho rằng một ngày nào đó, anh sẽ gặp lại người từng là “mối tình đầu” của anh. Anh không vội vàng, không tìm cách liên hệ với cô. Thời điểm của anh sẽ tới, một cơ hội sẽ tới. Anh luôn tin rằng tất cả những gì phải đến với chúng ta sẽ đến vào một thời điểm mà chúng ta không bao giờ có thể xác định được.

Giờ đây, đứng giữa màn đêm giá lạnh của Boston, Franz đợi Clara, lòng đầy tin tưởng. Anh nhận thấy rằng sự chờ đợi này tạo nên hạnh phúc viên mãn. Với anh, vào đúng khoảnh khắc này, cuộc sống đã trở nên rõ ràng. Clara từ tiệm cà phê bước ra.

- Xong rồi, xin lỗi vì đã lâu như vậy.

- Không sao, Franz nói với cô.

Anh nhìn cô chằm chằm:

- Em đẹp quá.

Cô mỉm cười.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3