Truy tìm Dracula - Chương 13 phần 2

Tôi cố gắng tự nhủ là ở lần gặp đầu tiên mình đã vội vàng, không nhìn kỹ, và rằng lần này tôi đã chú ý quan sát kỹ hơn người đàn ông vốn bấy lâu chỉ có mối sơ giao qua đường bưu điện, hoặc đúng hơn đã trắc ẩn hơn khi quan sát anh, nhưng vẫn không sao rũ bỏ được cảm giác là anh đã tàn tạ quá nhanh trong một thời gian ngắn ngủi. Tôi thầm quả quyết là có thể anh đã không may mắc phải chứng bệnh khiến cơ thể suy kiệt nào đó, một căn bệnh ung thư đang phát triển nhanh chóng chẳng hạn. Tất nhiên, phép xã giao không cho phép tôi nêu lên bất kỳ nhận xét nào về sắc diện anh.

“Chà, tiến sĩ Rossi,” anh lên tiếng, theo kiểu cách Mỹ. “Tôi không tin là anh ý thức được mình đang sở hữu một vật nhỏ bé có giá trị như thế này.”

“Có giá trị ư?” Tôi nghĩ anh không thể nào nhận thức được giá trị của cuốn sách đối với tôi, không thể dù bằng tất cả các phương pháp phân tích hóa học trên thế giới. Đây là chìa khóa cho cuộc báo thù của tôi.

“Vâng. Đây là một phiên bản hiếm của ngành ấn loát Trung Âu thời Trung cổ, một món đồ rất thú vị và lạ thường, và bây giờ tôi rất hân hạnh nói rằng nó đã được in vào khoảng năm 1512, có lẽ tại Buda(2) hoặc Wallachia. Thời điểm này chắc chắn sau thời đại của Corvinus - Thánh Luke(3) nhưng trước sự ra đời của sách Tân ước tiếng Hungary năm 1520, có lẽ cuốn sách này có ảnh hưởng đối với sự kiện đó, nếu lúc đó nó đã hiện hữu.” Anh loay hoay làm chiếc ghế kêu cọt kẹt. “Thậm chí còn có khả năng bức tranh khắc gỗ trong quyển sách của anh đã thực sự ảnh hưởng đến sách Tân ước tiếng Hungary năm 1520 ấy, cuốn này cũng có một hình minh họa tương tự, một bức quỷ Xa tăng có cánh.” Nhưng không có cách nào để chứng minh được điều này. Dù sao chăng nữa, ảnh hưởng này cũng khá buồn cười, phải vậy không? Ý tôi là, chứng kiến một phần cuốn Kinh Thánh lại được trang trí bằng những bức tranh minh họa giống như bức tranh đầy tà khí này.”

“Đầy tà khí?” Tôi thích thú được nghe âm thanh lời cáo buộc thoát ra từ cửa miệng một người khác.

“Chắc chắn như vậy. Anh đã cung cấp thông tin về truyền thuyết Dracula cho tôi, nhưng chẳng lẽ anh nghĩ tôi dừng lại ở đó sao?”

Giọng nói của Martin đều đều và rõ ràng, đậm chất Mỹ, điều này làm tôi thoáng bị sốc. Tôi chưa bao giờ cảm nhận được sự hung gở đến thế trong một giọng nói quá ư bình thản nhường này. Tôi nhìn anh chăm chăm, bối rối, nhưng giọng điệu kia không còn nữa, nét mặt của anh lại trở nên hòa nhã. Anh đang nhìn vào xấp giấy vừa rút ra khỏi chiếc bìa cứng. “Đây là kết quả các xét nghiệm của chúng tôi,” anh nói. “Tôi đã tự tay chép lại sạch sẽ cho anh, tôi nghĩ anh sẽ thấy chúng thú vị. Chúng cũng không cho biết gì nhiều hơn những lời tôi vừa nói với anh - à, nhưng còn có hai điều đáng lưu ý khác. Qua xét nghiệm, chúng tôi biết rõ cuốn sách này có lẽ đã từng được lưu giữ một thời gian dài trong một môi trường đầy bụi đá, và đó là việc xảy ra trước năm 1700. Ngoài ra, phần sau của cuốn sách đã từng bị thấm nước biển - có thể nó đã được mang theo trong một chuyến hành trình vượt đại dương. Tôi nghĩ có thể đó là vùng Biển Đen, nếu các suy đoán của chúng tôi về địa điểm in là đúng, nhưng lẽ dĩ nhiên có rất nhiều khả năng khác. Tôi e rằng chúng tôi không thể cho anh biết gì nhiều hơn nữa theo như yêu cầu của anh - mà có phải anh từng nói là anh đang viết về lịch sử châu Âu thời Trung cổ không nhỉ?”

Anh ngước lên nhìn tôi mỉm cười, một nụ cười bâng quơ, hiền hậu, kỳ dị trên gương mặt tiều tụy đó, và ngay lúc đang ngồi đó, tôi nhận ra cùng một lúc hai điều làm tôi cảm thấy lạnh cả xương sống.

Điều đầu tiên là tôi chưa bao giờ nói với anh bất cứ điều gì về việc viết lịch sử châu Âu Trung cổ; tôi chỉ nói muốn có thông tin về quyển sách để có thể hoàn thành một thư mục các tư liệu liên quan đến cuộc đời của Vlad Kẻ Xiên Người, kẻ được biết đến trong truyền thuyết là Dracula. Howard Martin là người luôn chính xác trong phương pháp chuyên môn của anh cũng như bản thân tôi trong phương pháp học thuật của mình, nên anh sẽ không bao giờ phạm phải một lỗi như thế mà không biết. Trước đó, tôi rất ấn tượng về trí nhớ của anh với khả năng ghi nhớ như chụp hình từng chi tiết, khả năng mà tôi luôn chú ý và thật lòng trân trọng bất kỳ khi nào nhận ra nó ở người khác.

Điều thứ hai tôi cảm nhận được lúc đó là, có thể do căn bệnh nào đó mà anh đang chịu đựng - anh chàng khốn khổ, tôi buộc phải thầm thốt lên - lúc anh cười, đôi môi trông mềm nhũn rệu rã, hai răng nanh trên lộ ra, và nổi bật lên theo một kiểu cách làm cho toàn bộ gương mặt anh trông rất khó chịu. Tôi bỗng nhớ lại như in hình ảnh tên quan chức ở Istanbul, mặc dù cái cổ Howard Martin không có gì bất thường, theo như tôi nhận thấy. Vừa mới dứt cơn rùng mình, tôi cầm lấy quyển sách và xấp ghi chú từ tay anh. Lúc đó, anh lại lên tiếng.

“À, cũng nhân tiện, tấm bản đồ kia cũng đặc biệt lắm đấy.”

“Tấm bản đồ?” tôi lạnh người. Tôi chỉ biết một tấm bản đồ - thực ra là ba tấm, được vẽ theo tỷ lệ xích tăng dần - nhưng nó chẳng liên quan gì với kế hoạch hiện tại của tôi và tôi chắc chắn mình chưa bao giờ đề cập về sự tồn tại của chúng với con người xa lạ này.

“Anh tự tay phác thảo nó à? Hình vẽ đó không cũ lắm, rõ ràng như vậy, nhưng tôi không đánh giá anh là một nghệ sĩ đâu. Và chắc chắn dù sao cũng không phải hạng người bệnh hoạn, nếu anh không phiền vì tôi đã nói như vậy.”

Tôi nhìn anh trừng trừng, không thể giải mã những lời nói ấy và sợ sẽ hớ hênh làm lộ một chuyện gì đó nên đã hỏi ý anh muốn nói gì. Phải chăng tôi đã để quên bức vẽ phác thảo nào trong cuốn sách? Nếu vậy thì quả là quá ngu ngốc. Nhưng chắc chắn tôi đã kiểm tra cẩn thận từng trang trước khi giao cuốn sách cho anh.

“À, tôi đã nhét nó lại vào trong quyển sách, vì vậy nó còn trong đó,” anh nói, giọng trấn an. “Bây giờ, tiến sĩ Rossi, tôi có thể đưa anh xuống phòng kế toán nếu anh muốn, hoặc thu xếp để anh thanh toán hóa đơn tại nhà.” Anh mở cửa cho tôi và lại một lần nữa khuôn mặt anh biến dạng thành một nụ cười chuyên nghiệp. Ở đó và ngay lúc đó, tôi biết mình không nên lục tìm trong quyển sách đang cầm trong tay, và trong ánh sáng hành lang tôi chợt nhận ra chắc hẳn mình đã tưởng tượng ra nụ cười kỳ dị của Martin, thậm chí có lẽ cả vẻ đau ốm của anh nữa; da dẻ anh bình thường, người chỉ hơi còng xuống do hàng chục năm lăn lộn giữa đống giấy tờ của quá khứ, ngoài ra không có gì khác. Anh đứng bên cửa, chìa tay ra chào tạm biệt, thân tình đúng kiểu dân Washington, tôi bắt tay anh, lầm bầm nói muốn thanh toán hóa đơn tại địa chỉ của mình ở trường đại học.

Tôi mệt mỏi bước xa khỏi cửa phòng anh, ra khỏi đại sảnh và cuối cùng ra khỏi tòa lâu đài màu đỏ nơi chứa những công trình lao động của anh và các đồng nghiệp đó. Trong bầu không khí trong lành của quảng trường Mall, tôi lững thững bước ngang qua bãi cỏ đến một băng ghế rồi ngồi xuống, cố gắng không lo lắng, cả bề ngoài và trong lòng.

Quyển sách bỗng mở ra trong tay tôi, với sự mời gọi quái gở thường lệ, và tôi tìm kiếm trong vô vọng ở đó một tờ giấy rời mang theo điều gì đó sẽ khiến mình ngạc nhiên. Chỉ đến khi lật các trang giấy từ cuối lên lần nữa tôi mới tìm được nó - một bản vẽ rất đẹp in lên nhờ giấy than, như thể có ai đó đã có trước mặt tấm bản đồ thứ ba, cũng là tấm chi tiết nhất trong số những tấm bản đồ bí mật của tôi, và đã căn ke lại tất cả những đường nét bí ẩn trên nó cho tôi. Tên các địa danh viết bằng một phương ngữ Xlavơ, chính xác là những cái tên mà tôi đã biết trên tấm bản đồ của mình - Làng Trộm Heo, Thung Lũng Tám Cây Sồi. Thực ra, đối với tôi, bản phác thảo này chỉ có duy nhất một đặc điểm khác lạ. Bên dưới cái tên Hầm Mộ Tội Lỗi có những con chữ Latin viết rõ ràng bằng một thứ mực có vẻ như cùng loại mực của các tiêu đề khác. Phía trên vị trí có vẻ là nấm mộ, vòng quanh đó tựa như để chứng tỏ mối liên hệ tuyệt đối của nó với địa điểm này, là những con chữ tôi đọc được: BARTOLOMEO ROSSI.

Độc giả thân mến, hãy đánh giá tôi là kẻ hèn nhát nếu bạn buộc phải như vậy, nhưng tôi đã rũ bỏ tất cả ngay lúc đó. Tôi là một giáo sư trẻ và đang sống tại Cambridge, Massachussetts, nơi tôi đang giảng dạy, hay ra ngoài ăn tối với những người bạn mới, và viết thư về cho cha mẹ già hàng tuần. Tôi không phải mang theo tỏi, hoặc thánh giá bên người, hoặc làm dấu thánh khi nghe có tiếng bước chân trong gian sảnh. Tôi chọn một sự bảo vệ tốt hơn - tôi đã dừng lại, không chúi mũi vào giao lộ lịch sử đáng sợ kia nữa. Kẻ đó hẳn sẽ thỏa mãn khi thấy tôi câm lặng, vì tôi đã không còn băn khoăn lo lắng với tấn bi kịch này nữa.

Bây giờ, nếu chính bạn phải lựa chọn giữa sự tỉnh táo và cuộc sống đáng nhớ của mình, với sự bất ổn thực sự, bạn sẽ lựa chọn bên nào, như một cách thích đáng mà một học giả có thể sống trọn những ngày tháng của mình? Tôi biết, Hedges không hề yêu cầu tôi đâm đầu vào bóng tối. Dù vậy, nếu bạn đã đọc tới đây, nghĩa là, sau cùng, tôi đã bị hãm hại. Bạn cũng phải lựa chọn. Tôi đã cho bạn biết từng chi tiết của những kiến thức mà tôi sở đắc, những kiến thức liên quan đến những chuyện khủng khiếp này. Biết được câu chuyện của tôi, liệu bạn có thể từ chối làm người kế thừa cho tôi?

Người bạn sầu khổ của bạn, Bartholomew Rossi

Bóng râm bên dưới hàng cây đã dài ra thành một mảng lớn uể oải, cha đá tung một hạt dẻ dưới gót giày. Tôi bất chợt có cảm giác nếu là người thô lỗ hơn, có lẽ cha đã nhổ nước bọt lên mặt đất, để loại bỏ mùi vị tởm lợm nào đó. Thay vì vậy hình như cha cố gắng nuốt vào và cố trấn tĩnh để mỉm cười. “Chúa ơi! Chúng ta đã nói chuyện gì vậy? Chiều nay hình như chúng ta nghiêm trang quá thì phải.” Cha cố nở nụ cười, nhưng đồng thời cũng liếc nhìn tôi, một cái nhìn đầy lo âu, tựa như một hình bóng vô hình nào đó có thể chụp xuống tôi, đặc biệt riêng tôi, và mang tôi đi không một lời cảnh báo.

Lúc này, tôi duỗi bàn tay lạnh giá ra khỏi rìa băng ghế và nỗ lực giữ cho lòng được thanh thản. Mình phải nỗ lực để thanh thản từ khi nào thế nhỉ? Tôi băn khoăn tự hỏi, nhưng đã quá trễ. Tôi đang làm công việc này thay cho cha mất rồi, đồng thời cố khiến cha nghĩ sang chuyện khác, như ông từng cố làm với tôi. Tôi vờ hờn dỗi, nhõng nhẽo để khỏa lấp - một chút thôi, không quá đáng để cha khỏi nghi ngờ. “Con lại đói nữa rồi, muốn ăn một bữa ra trò quá.”

Cha mỉm cười, tự nhiên hơn một chút, đôi giày xịn của ông nện xuống nền đất khi ông lịch sự đưa tay đỡ tôi đứng dậy, bắt đầu nhét vào túi xách các vỏ chai Naranca rỗng và các tàn tích khác của bữa ăn ngoài trời. Tôi hào hứng giúp cha thu dọn phần của mình, giờ lòng đã nhẹ nhõm vì như vậy có nghĩa là cha sẽ cùng quay về thành phố với tôi, thay vì nán lại để xem mặt tiền tòa lâu đài. Đã có lúc tôi quay người lại, khi câu chuyện gần kết thúc và thấy ở cửa sổ tầng trên, một bóng đen lừng lững đã thay thế cho bà lão giúp việc. Tôi đã nói, huyên thiên, về bất kỳ điều gì xuất hiện trong đầu. Chỉ cần cha không nhìn thấy bóng đen đó, sẽ không có va chạm nào cả. Cả hai chúng tôi có thể an toàn.

Chú thích:

1. Gutenberg (1400-1468): tên đầy đủ là Johannes Genfleish Gutenberg, người Đức, người đầu tiên sáng chế ra máy in.

2. Buda: viết tắt của Budapest, thủ đô Hungary.

3. Matthias Corvinus (1443-1490): vua Hungary, việc chiếm được nước Áo và nhiều tỉnh khác đã biến ông thành một ông vua đầy quyền lực; ông cũng là người bảo trợ cho các ngành nghệ thuật.