Truy tìm Dracula - Chương 17 phần 2
Cha chưa bao giờ thấy, gặp, hoặc nói chuyện với một phụ nữ như thế này. Cô ta ưa gây gổ, chẳng buồn tỏ ra thích được tán tỉnh chút nào. Cha có cảm giác những lời nói của cô ta là một bể nước lạnh giá cha đã lao đầu vào mà không dừng lại giây nào để tính toán hậu quả.
“Được thôi. Cô trả lời câu hỏi của tôi trước,” cha nói, bắt chước giọng lưỡi cô ta. “Ai là người cô nghĩ có thể không muốn cô sở hữu cuốn sách đó?”
“Giáo sư Bartholomew Rossi,” cô trả lời, giọng mỉa mai, châm chọc. “Anh ở khoa sử. Có lẽ anh có nghe nói đến ông ấy?”
Cha ngồi đó, chết lặng vì ngạc nhiên. “Giáo sư Rossi? Cô… cô muốn nói gì?”
“Tôi đã trả lời câu hỏi của anh,” cô ta nói, vuốt thẳng và chỉnh lại áo khoác, xếp lại hai chiếc găng tay chồng lên nhau, tựa như đã giải quyết xong một nhiệm vụ. Cha thoáng băn khoăn không biết có phải cô ta đang thưởng thức cái tác động của những lời cô ta nói lên cha, nhìn cha cà lăm cà cặp vì chúng. “Bây giờ, hãy cho tôi biết anh định nói gì với toàn bộ vở kịch về mối nguy hiểm từ một cuốn sách?”
“Cô Rossi,” cha nói. “Xin cô. Tôi sẽ nói. Bất cứ điều gì tôi có thể nói. Nhưng xin cô giải thích cho tôi mối quan hệ của cô với giáo sư Bartholomew Rossi.”
Cô ta cúi xuống, mở túi chứa sách, lấy ra một hộp da. “Anh có phiền không nếu tôi hút thuốc?” Lần thứ hai, cha nhận ra trong cô ta sự thoải mái của cánh đàn ông, thứ hình như luôn thể hiện ở cô ta khi cô ta dẹp qua một bên những cử chỉ lịch sự kiểu tự vệ của đàn bà. “Làm một điếu chứ?”
Cha lắc đầu; cha ghét thuốc lá, dù đáng lẽ cha nên nhận một điếu từ bàn tay thanh mảnh mịn màng kia. Cô ta bình thản rít một hơi, rất điệu nghệ. “Tôi không biết vì sao mình lại kể cho một người lạ điều này,” cô ta nói, vẻ trầm ngâm. “Tôi đoán là sự hiu quạnh nơi chốn này đang tác động đến mình. Đã gần hai tháng tôi hầu như không nói chuyện với ai, ngoại trừ vì công việc. Vả lại tôi không thấy anh có vẻ gì là loại người lắm chuyện, có Chúa chứng giám, khoa tôi đầy nhóc bọn ngồi lê đôi mách đó.” Tôi có thể nghe được giọng cô ta rít lên theo từng lời, được nói ra một cách ác ý. “Nhưng nếu anh giữ lời hứa…” Vẻ nặng nề lại trở lại trên mặt cô ta; cô ta thẳng người lên, điếu thuốc bướng bỉnh thò ra trên tay. “Mối quan hệ của tôi với vị giáo sư Rossi nổi tiếng kia rất đơn giản. Hoặc nên như thế. Ông ta là cha tôi. Ông ta đã gặp mẹ tôi trong thời gian tìm kiếm Dracula ở Rumani.”
Cà phê của cha bắn văng qua bên kia bàn, văng lên cả vạt áo, xuống mặt trước áo sơ mi - dù sao cũng chẳng còn sạch sẽ lắm - và văng tóe lên má cô ta. Một tay chùi má, cô ta nhìn cha chằm chằm.
“Lạy Chúa, xin lỗi. Tôi xin lỗi.” Cha cố chùi, dùng cả hai chiếc khăn ăn.
“Chuyện đó thực sự khiến anh xúc động đến thế à,” cô ta nói, không nhúc nhích. “Vậy, hẳn anh phải biết ông ta.”
“Tôi biết,” cha trả lời. “Ông ấy là giáo sư hướng dẫn của tôi. Nhưng ông ấy chưa bao giờ kể với tôi về Rumani, và ông ấy - ông ấy chưa bao giờ nói với tôi là có một gia đình.”
“Ông ta không có gia đình thật.” Giọng nói lạnh lùng của cô ta làm cha cụt hứng. “Tôi chưa bao giờ gặp ông ta, anh thấy đấy, mặc dù bây giờ tôi cho rằng đó chỉ là vấn đề thời gian.” Cô ta ngả ra sau, trong chiếc ghế dựa nhỏ và khom vai, một cách thô lỗ, tựa như từ chối không cho cha đến gần hơn. “Tôi đã thấy ông ta một lần, từ xa, trong một lần nghe giảng bài - tưởng tượng mà xem, lần đầu tiên thấy cha mình ở một khoảng cách xa như vậy.”
Cha đã tạo ra một đống khăn ướt và lúc này cha đẩy mọi thứ qua một bên, đống khăn, cốc cà phê, muỗng. “Tại sao?”
“Đó là một câu chuyện rất kỳ quặc,” cô nói. Cô ta nhìn cha, nhưng không phải theo kiểu vẫn chìm trong suy tư, mà như đang đánh giá các phản ứng của cha. “Thôi được. Đó là chuyện kiểu tình một đêm.” Câu này nghe có vẻ kỳ khôi trong chất giọng của cô ta, dù vậy cha không dám cười. “Hoặc có lẽ cũng không kỳ quặc lắm. Ông ta gặp mẹ tôi tại làng nơi mẹ tôi sống, vui thú bầu bạn với nhau một thời gian rồi sau vài tuần bỏ bà lại với một địa chỉ ở nước Anh. Ông ta đi rồi, mẹ tôi mới biết là đã mang thai, và sau đó bác gái tôi, lúc đó đang sống ở Hungary, giúp mẹ tôi trốn qua Budapest trước khi tôi ra đời.”
“Ông ấy chưa bao giờ nói với tôi là đã ở Rumani.” Cha làu bàu, không thành tiếng.
“Chẳng có gì đáng ngạc nhiên.” Cô ta rít một hơi thuốc, giọng cay đắng. “Từ Hungary, mẹ tôi đã viết thư cho ông ta, theo địa chỉ ông ta để lại, nói về đứa con của họ. Ông ta viết trả lời là ông không biết mẹ tôi là ai và làm cách nào bà đã có được tên ông, và ông chưa bao giờ đến Rumani. Anh có thể tưởng tượng nổi ra điều gì tàn nhẫn như vậy không?” Đôi mắt cô ta, bấy giờ mở to và đen tuyền, xoáy vào cha.
“Cô sinh năm nào?” Cha đã không nghĩ đến việc xin thứ lỗi trước khi hỏi câu này; cô ta quá khác biệt với những phụ nữ cha từng gặp, đến mức những quy tắc thông thường có vẻ không áp dụng được.
“Năm 1931,” cô ta đáp thẳng thừng. “Có lần, mẹ tôi đã đưa tôi về Rumani vài ngày, thậm chí trước khi tôi biết về Dracula, nhưng cũng từ đó bà không quay trở lại Transylvania nữa.”
“Lạy Chúa.” Cha thì thầm hai tiếng đó với mặt bàn lót phóc mi ca. “Lạy Chúa, tôi cứ tưởng ông ấy đã kể hết mọi chuyện với tôi, nhưng ông ta đã không kể chuyện đó.”
“Ông ta kể với anh - cái gì?” Cô ta hỏi, giọng gay gắt.
“Tại sao cô không gặp ông ấy? Ông ấy có biết cô ở đây không?”
Cô ta nhìn cha với vẻ ngạc nhiên nhưng đã trả lời không chút do dự. “Đây là một trò chơi, tôi nghĩ là anh có thể nói thế. Đó là trò ưa thích của tôi.” Cô ta ngừng lại. “Ở Đại học Budapest, tôi học không tồi. Thực ra, người ta đã xem tôi như một thiên tài.” Cô ta nói điều đó ra với thái độ gần như e lệ. Tiếng Anh cô ta thật tuyệt, lần đầu tiên cha nhận ra - tuyệt hay. Có lẽ cô ta thực sự là thiên tài.
“Mẹ tôi chưa học hết phổ thông, nếu anh có thể tin được điều đó, mặc dù bà cũng có học thêm một ít sau này, nhưng tôi thì đã vào đại học từ năm mười sáu tuổi. Tất nhiên, mẹ bảo tôi thừa hưởng di truyền từ cha, và chúng tôi cũng biết rõ những cuốn sách nổi tiếng của giáo sư Rossi, ngay cả trong vực thẳm tăm tối của khối Đông Âu thời đó - về nền văn minh Minoan, các giáo phái vùng Địa Trung Hải, thời đại Rembrandt(1). Chính quyền Hungary cho phép lưu hành các tác phẩm của ông vì ông đã viết sách ủng hộ chủ nghĩa xã hội ở Anh. Tôi học tiếng Anh suốt thời gian trung học - anh muốn biết lý do vì sao không? Ấy là để tôi có thể đọc nguyên tác tiếng Anh những tác phẩm thú vị của tiến sĩ Rossi. Anh biết đấy, đúng là không khó khăn lắm để tìm ra ông đang ở đâu; tôi thường nhìn chăm chăm vào tên trường đại học trên bìa bọc các cuốn sách của ông và thề một ngày nào đó sẽ đến đấy. Tôi suy nghĩ mọi chuyện kỹ lưỡng. Tôi đã thiết lập những mối quan hệ cần phải có, về mặt chính trị - tôi bắt đầu bằng cách vờ như muốn nghiên cứu cuộc cách mạng lao động quang vinh ở nước Anh. Và khi thời cơ đến, tôi đã chớp ngay cái học bổng của mình. Những ngày đó, chúng tôi cũng được hưởng chút tự do ở Hungary, mặc dù mọi người đều băn khoăn tự hỏi giới lãnh đạo Liên Xô sẽ dung thứ cho tình trạng đó bao lâu. Bất luận thế nào, tôi cũng phải đến Luân Đôn, trong sáu tháng, và sau đó kiếm học bổng để đến đây, bốn tháng trước.”
Cô ta nhả một làn khói thuốc xám, trầm ngâm suy nghĩ, nhưng ánh mắt không rời mắt cha. Cha chợt nghĩ, có khả năng Helen Rossi đã bị chính quyền mà cô đề cập tới một cách cay độc đến vậy khủng bố nhiều hơn là Dracula. Có khi thực ra đây là một vụ bỏ trốn sang phương Tây của cô ta. Cha thầm ghi nhớ điểm này để hỏi cô ta sau. Sau này ư? Còn mẹ cô ta thì sao rồi? Và phải chăng cô ta đã dựng lên tất cả chuyện này, ở Hungary, để dây máu ăn phần với danh tiếng của một viện sĩ nổi tiếng ở phương Tây?
Cô ta vẫn theo đuổi dòng suy tư của mình. “Đó không phải là bức tranh đẹp hay sao? Đứa con gái thất lạc đã lâu, khi cuối cùng đã thành đạt, tìm lại cha mình, đoàn tụ hạnh phúc.” Vẻ cay đắng trong nụ cười cô ta làm lòng cha quặn thắt. “Nhưng đó hoàn toàn không phải là điều tôi nghĩ trong đầu. Tôi đến đây để cho ông ta có cơ hội nghe nói về tôi, như là tình cờ - bằng những công trình được xuất bản, những bài diễn thuyết của tôi. Chúng ta sẽ xem liệu rồi đây ông ta có thể che giấu quá khứ của mình, lờ tôi đi như đã không thừa nhận mẹ tôi. Còn về cái chuyện Dracula này…” Cô ta trỏ điếu thuốc vào cha. “Mẹ tôi, cầu phước lành cho tâm hồn giản dị của bà vì đã suy nghĩ đến chuyện đó, đã kể với tôi vài điều.”
“Kể với cô cái gì?” cha hỏi, giọng rụt rè.
“Công trình nghiên cứu đặc biệt của Rossi về đề tài đó. Tôi đã không hay biết gì về nó, không biết cho đến mùa hè vừa qua, ngay trước khi khởi hành đi Luân Đôn. Đó cũng là nguyên nhân vì sao họ gặp nhau; ông ta đã hỏi quanh khắp làng những thông tin và truyền thuyết về ma cà rồng, thế nên mẹ tôi đã nghe được một số chuyện về lũ ma cà rồng ở địa phương từ ông ngoại tôi và bạn bè ông - chứ không phải một người đàn ông mà có thể một mình nói chuyện với một cô gái trẻ ở nơi công cộng, anh hiểu đấy, trong nền văn hóa đó. Nhưng tôi cho là ông ta cũng chẳng biết gì. Anh biết đấy - sử gia chứ đâu phải là nhà nhân học. Ông ta ở Rumani để tìm kiếm thông tin về Vlad - Kẻ Xiên Người, Ngài Bá tước yêu quý của chúng tôi. Anh không thấy kỳ lạ hay sao?” - cô ta chợt chồm tới, mặt gần sát mặt cha, nhưng dữ tợn chứ không phải quyến rũ - “Anh không thấy vô cùng kỳ quặc sao khi ông ta không xuất bản tác phẩm nào về chủ đề đó? Không một thứ gì cả, như anh biết đấy. Tại sao? Tại sao một nhà nghiên cứu nổi tiếng về lịch sử - và hình như, về cả phụ nữ, ai biết được ông ta còn có bao nhiêu đứa con gái thiên tài ở ngoài kia nữa - tại sao ông ta không xuất bản thứ gì về công trình nghiên cứu rất khác thường này?”
“Tại sao?” cha hỏi, không nhúc nhích.
“Tôi sẽ nói cho anh biết. Bởi vì ông ta để dành cho một kết cuộc vĩ đại. Đó là bí mật, là niềm đam mê của ông ấy. Còn điều gì khác nữa có thể khiến một học giả phải im lặng? Nhưng ông ta sẽ sớm được ngạc nhiên thôi.” Lần này thay cho nụ cười đáng yêu là một cái cười gằn, cha chẳng thích nụ cười đó chút nào. “Anh hẳn sẽ không tin tôi đã phải học hỏi bao nhiêu kiến thức trong một năm, từ khi biết được mối quan tâm nhỏ bé này của ông ta. Tôi không tiếp xúc với giáo sư Rossi, nhưng tôi đã thận trọng để cả khoa biết được sự tinh thông của tôi về vấn đề này. Sẽ là một sự tủi nhục đối với ông ta khi một người khác phỗng tay trên, xuất bản một công trình nghiên cứu về chủ đề đó trước ông ta - một người nào đó cũng có cái tên như ông ta. Thật là đẹp. Anh thấy đấy, khi đến đây, thậm chí tôi còn lấy tên ông ta - một bút danh kinh điển, anh có thể nói thế. Vả lại, ở Đông Âu, chúng tôi không thích người khác đánh cắp rồi bình luận này nọ về di sản của chúng tôi; người ta thường hiểu sai về nó.”
Cha gần như rên lên thành tiếng, bởi cô ta đã chợt dừng lại, cau mày nhìn cha. “Cuối hè này, tôi sẽ hiểu biết rành rẽ hơn bất kỳ ai trên thế giới này về huyền thoại Dracula, vì vậy, anh có thể sử dụng cuốn sách cũ của anh.” Cô ta mở túi xách ra, ngang nhiên quật mạnh cuốn sách xuống bàn, ở giữa cô ta và cha. “Hôm qua, tôi chỉ kiểm tra một vài điều trong đó vì không có thời giờ về nhà đọc cuốn sách của mình. Anh thấy đấy, thậm chí tôi không cần nó nữa. Nó chỉ là tác phẩm văn học, mà đằng nào thì tôi cũng đã gần như thuộc lòng ba cái thứ quái quỷ này.”
Cha nhìn quanh như người đang nằm mơ. Chúng tôi đã yên lặng đứng trên thành Acropolis được hơn mười lăm phút, chân chôn chặt trên đỉnh của một nền văn minh cổ xưa. Tôi kinh ngạc trước những cây cột kiên cố phía trên và ngạc nhiên nhận ra rằng những quang cảnh xa nhất trên đường chân trời là những rặng núi, những dải dài nhấp nhô treo lơ lửng ủ ê bên trên thành phố vào lúc hoàng hôn. Khi bắt đầu đi xuống, cha như chợt tỉnh và hỏi cảm tưởng của tôi đối với bức tranh toàn cảnh tuyệt vời kia, tôi phải mất cả phút tập trung ý tưởng để trả lời câu hỏi đó. Tôi đang nhớ đến đêm hôm qua.
Tôi đã đến phòng cha trễ hơn một chút so với thường lệ để nhờ cha xem lại bài tập đại số, và bắt gặp cha đang viết, đang nghiền ngẫm công việc giấy tờ trong ngày, như cha vẫn thường làm lúc đêm về. Đêm đó, ông ngồi bất động, đầu cúi xuống bàn, cúi xuống mớ tài liệu, không ngẩng lên và lật giở từng trang với vẻ linh hoạt thường lệ. Từ lối đi ở cửa, tôi không thể nói chính xác rằng ông đang chăm chú kiểm tra lại một điều gì vừa mới viết hay đơn giản đang cố gắng đừng ngủ gật. Hình dáng cha in thành một cái bóng lớn trên bức tường trơn nhẵn trong phòng khách sạn, hình bóng của một con người buồn chán sụm xuống trên một con người khác, cũng đang sụm xuống trên chiếc bàn còn đen tối hơn. Nếu không nhận biết sự mệt mỏi của ông, hình dáng quen thuộc của đôi bờ vai nghiêng trên trang giấy, không biết đến ông, thì có lẽ - trong giây phút đó - tôi đã nghĩ rằng cha đã chết.
Chú thích:
1. Rembrandt (1606-1669): tên đầy đủ là Rembrandt Harmenszoon van Rijn, một họa sĩ bậc thầy thuộc Thời đại Hoàng kim Hà Lan.