Truy tìm Dracula - Chương 44 phần 2

“ ‘Sáng hôm sau, khi tôi ra chỗ giếng nước, anh đang ngồi ở quán rượu cùng với mấy ông lão, và lại viết gì đó. Tôi nghĩ mình đã thấy ánh mắt anh liếc nhìn tôi, nhưng anh không tỏ dấu hiệu nào có quen biết với tôi. Trong thâm tâm tôi rất vui, vì hiểu anh đã giữ kín bí mật của anh và tôi. Trưa hôm đó, khi cha mẹ và anh chị em tôi ra khỏi nhà, tôi đã làm một việc xấu xa: tôi mở chiếc tủ gỗ của cha mẹ lấy ra một con dao găm nhỏ bằng bạc mà trước đây tôi đã nhiều lần trông thấy. Mẹ tôi có lần đã nói nó được dùng để giết ma cà rồng, nếu chúng đến để gây rắc rối cho người hoặc gia súc. Tôi cũng nhổ một nắm hoa tỏi trong mảnh vườn của mẹ rồi giấu các món này vào trong khăn trên đường đi ra đồng.

“ ‘Lần này, các anh tôi cứ kè kè bên tôi, làm việc rất trễ, tôi không thể nào bứt ra khỏi họ, nhưng cuối cùng họ cũng nói sẽ trở về làng và bảo tôi về cùng. Tôi nói mình phải hái thêm một ít cỏ thuốc trong rừng và một lát sau sẽ về. Suốt quãng đường đến chỗ người khách lạ đang ngồi trên tảng đá hôm qua, sâu trong rừng, tôi rất hồi hộp. Anh đang hút tẩu, nhưng khi tôi bước đến, anh đứng bật dậy và bỏ tẩu thuốc xuống. Tôi ngồi xuống và bày ra cho anh thấy những gì tôi mang theo. Trông anh có vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy con dao, và rất thích thú khi tôi giải thích là anh có thể dùng nó để giết pricolici. Anh muốn từ chối, nhưng tôi đã nài nỉ tha thiết đến độ anh không cười nữa và thận trọng dùng khăn tay của tôi gói và cất con dao vào ba lô. Sau đó tôi trao cho anh bó hoa tỏi và bảo anh nên bỏ một ít vào túi áo khoác.

“ ‘Lúc tôi hỏi anh còn ở lại làng bao lâu, anh đưa năm ngón tay - năm ngày nữa. Anh cho biết là sẽ đến nhiều làng khác gần đó, đi từ làng chúng tôi đến từng làng để hỏi chuyện người dân về tòa lâu đài kia. Tôi hỏi sau năm ngày nữa, anh sẽ đi đâu khi rời khỏi làng chúng tôi. Anh nói anh sẽ đến một nước có tên là Hy Lạp, một đất nước tôi đã từng nghe nói đến, sau đó quay về quê mình, ở Anh. Anh vẽ lên đất cho tôi thấy đất nước anh, gọi là Anh quốc, một hòn đảo ở cách xa đất nước chúng tôi. Anh cho tôi biết trường đại học của anh ở đâu - tôi không biết anh hàm ý gì - và viết tên trường lên mặt đất. Tôi vẫn còn nhớ những con chữ này: OXFORD. Sau đó, thỉnh thoảng tôi đã viết lại những con chữ đó, để nhìn ngắm chúng. Đó là từ ngữ lạ lùng nhất mà tôi được nhìn thấy.

“ ‘Đột nhiên, nước ứa ra trong mắt tôi vì tôi hiểu anh sắp ra đi, tôi sẽ không còn bao giờ gặp lại anh hoặc ai đó giống như anh. Tôi đâu muốn khóc - tôi chưa bao giờ khóc vì đám trai làng khó chịu - nhưng giờ tôi không sao ngăn được nước mắt khỏi tuôn tràn trên má mình. Trông có vẻ lo lắng, anh rút trong túi áo khoác và trao cho tôi một chiếc khăn tay màu trắng. Chuyện gì vậy? Tôi lắc đầu. Anh chậm rãi đứng dậy, chìa tay ra giúp tôi đứng lên, giống như chiều tối hôm qua. Trong lúc đứng lên, tôi đã vô tình vấp ngã vào người anh, rồi chúng tôi đã hôn nhau khi anh đỡ lấy tôi. Sau đó, tôi quay người bỏ chạy ra khỏi rừng. Khi ra tới con đường mòn, tôi ngoái lại nhìn. Anh vẫn còn đứng đó, im lìm như một gốc cây, nhìn theo tôi. Tôi chạy suốt đường về làng, thao thức suốt đêm với chiếc khăn giấu trong bàn tay.

“ ‘Chiều tối hôm sau anh đã ở đó, vẫn nơi đó, tựa như chưa từng dịch chuyển từ khi tôi rời đi. Tôi lao đến, anh dang tay ôm lấy tôi. Khi những nụ hôn đắm đuối không còn đủ nữa, anh trải tấm áo khoác xuống đất và chúng tôi cùng nằm xuống. Trong giờ phút đó tôi mới biết thế nào là tình yêu, một khoảnh khắc đặc biệt. Bên trên tôi, đôi mắt anh xanh như bầu trời. Anh cài hoa lên tóc và hôn những ngón tay tôi, tôi ngạc nhiên vì việc anh làm, việc mình làm, và tôi biết như thế là sai, là tội lỗi, nhưng đồng thời cũng cảm nhận niềm vui thiên đường đang bừng mở chung quanh chúng tôi.

“ ‘Sau đó là ba đêm cho đến khi anh ra đi. Chúng tôi gặp nhau sớm hơn vào mỗi chiều tối. Tôi viện đủ mọi lý do có thể nghĩ ra để nói với cha mẹ, và luôn quay về với những bó cỏ thuốc hái trong rừng, tựa như đã vào đó chỉ để hái cỏ thuốc. Mỗi đêm Bartolomeo đều thủ thỉ với tôi là anh yêu tôi và năn nỉ tôi hãy theo anh khi anh rời khỏi làng. Tuy rất muốn nhưng tôi lại e sợ cái thế giới rộng lớn mà từ đó anh đến, mà tôi cũng không thể hình dung làm sao để có thể thoát khỏi cha mình. Mỗi đêm tôi hỏi anh vì sao anh không thể ở lại làng cùng tôi anh lại lắc đầu, nói anh phải về nhà, về với công việc của anh.

“ ‘Vào đêm cuối trước khi anh rời khỏi làng, tôi đã bật khóc ngay khi chúng tôi vừa chạm vào nhau. Anh ôm và hôn lên tóc tôi. Tôi chưa từng gặp một người đàn ông nào dịu dàng và tử tế như vậy. Khi tôi ngưng khóc, anh cởi chiếc nhẫn bạc nhỏ có phù hiệu ra. Tôi không chắc, nhưng lúc đó tôi nghĩ đó là phù hiệu trường đại học nơi anh làm việc. Anh đã đeo chiếc nhẫn đó ở ngón út bàn tay trái. Anh tháo chiếc nhẫn ra, đeo nó vào ngón nhẫn của tôi. Rồi anh ngỏ lời muốn cưới tôi làm vợ. Chắc hẳn anh đã học câu này trong tự điển, vì anh nói là tôi hiểu ngay.

“ ‘Thoạt đầu, ý tưởng đó có vẻ bất khả thi đến nỗi tôi lại bắt đầu khóc - tôi còn quá trẻ - nhưng rồi tôi lại đồng ý. Anh cho tôi hiểu là anh sẽ quay trở lại tìm tôi trong vòng bốn tuần. Anh phải đi Hy Lạp để lo một số công việc ở đó - công việc gì, tôi không thể hiểu. Sau đó anh sẽ trở lại với tôi và sẽ đưa cho cha tôi một ít tiền để làm vui lòng ông. Tôi đã cố gắng giải thích là tôi không có của hồi môn, nhưng anh không nghe. Mỉm cười, anh cho tôi thấy con dao găm và đồng xu mà tôi đã tặng anh, sau đó dùng hai tay ôm vòng lấy mặt và hôn tôi.

“ ‘Lẽ ra tôi phải cảm thấy hạnh phúc, nhưng tôi lại linh cảm thấy sự hiện diện của tà ma và lo sợ sẽ có chuyện gì đó xảy ra khiến anh không thể trở lại. Mỗi khoảnh khắc bên nhau của chúng tôi trong chiều tối hôm đó đều vô cùng ngọt ngào vì tôi nghĩ chúng là những giây phút cuối cùng. Anh tỏ ra rất tự tin, chắc chắn rằng chúng tôi sẽ sớm gặp lại nhau. Đến tận khi khu rừng gần như tối hẳn, tôi vẫn không thể nói lời từ biệt. Nhưng rồi tôi bắt đầu thấy sợ cơn giận dữ của cha nên sau cùng đành hôn Bartolomeo một lần nữa, kiểm tra chắc chắn là bó hoa tỏi vẫn còn trong túi áo anh, rồi rời đi. Tôi cứ ngoái lại nhìn nhiều lần. Lần nào cũng vậy, tôi thấy anh vẫn đứng đó, cầm mũ trong tay. Trông rất cô đơn.

“ ‘Tôi vừa bước đi vừa khóc, tháo chiếc nhẫn nhỏ, hôn lên nó rồi cột gút nó lại trong chiếc khăn tay. Khi về đến nhà, cha đang nổi giận và muốn biết tôi đi đâu khi trời đã tối mà không được phép của ông. Tôi trả lời là cô bạn Maria bị lạc mất một con dê và tôi phải giúp cô đi tìm. Tôi lên giường ngủ, lòng nặng trĩu, đôi lúc cảm thấy tràn đầy hy vọng nhưng rồi nỗi buồn lại ập đến ngay.

“ ‘Sáng hôm sau, tôi nghe nói Bartolomeo đã rời khỏi làng, đi nhờ xe ngựa của một bác nông dân đến Târgoviste. Với tôi, đó là một ngày dài lê thê và chán chường, đến chiều tối tôi lại lững thững vào rừng, đến nơi hẹn hò của chúng tôi, để được một mình ở đó. Tôi lại bật khóc khi thấy lại cảnh cũ. Tôi ngồi xuống những tảng đá mà chúng tôi đã ngồi, nằm xuống nơi chúng tôi đã nằm mỗi chiều tối. Tôi úp mặt xuống đất nức nở khóc. Rồi tôi cảm thấy tay mình chạm vào một cái gì đó giữa đám dương xỉ, và ngạc nhiên khi nhận ra một gói các lá thư vẫn còn nguyên phong bì. Tôi không đọc được những dòng chữ viết tay trên các bì thư, chúng được gửi đến đâu và cho ai, nhưng in ở nắp của mỗi bì thư là cái tên đẹp đẽ của anh, như những dòng chữ vẫn in trong sách. Tôi mở vài lá thư và hôn lên những dòng chữ của anh, dù có thể nhận thấy chúng không phải gửi cho mình. Trong một thoáng, tôi băn khoăn tự hỏi liệu có thể chúng được viết cho một phụ nữ khác hay không, nhưng lập tức gạt phăng ý nghĩ này đi. Tôi nhận ra có lẽ những lá thư hẳn đã rơi ra lúc anh mở ba lô khoe con dao găm và đồng xu mà tôi đã tặng anh.

“ ‘Tôi đã nghĩ đến việc gửi chúng bằng đường bưu điện về Oxford trên đảo quốc Anh, nhưng lại không nghĩ ra được cách phải gửi như thế nào để không bị để ý. Vả lại, tôi không biết sao có tiền mà gửi. Chắc hẳn phải tốn nhiều tiền để gửi một gói như vậy đến hòn đảo xa xôi của anh, trong khi tôi thì chưa bao giờ có tiền ngoại trừ đồng xu nhỏ mà tôi đã tặng anh. Tôi quyết định giữ chúng lại để trao tận tay khi anh trở lại với tôi.

“ ‘Bốn tuần lễ chậm chạp trôi qua, rất chậm. Để có thể theo dõi được ngày tháng, tôi đã khắc những khía hình chữ V vào một gốc cây gần nơi hẹn hò bí mật của chúng tôi. Tôi làm việc đồng áng, giúp đỡ mẹ, kéo sợi và dệt vải để may áo quần cho mùa đông sắp đến, đi lễ nhà thờ, và nghe ngóng tin tức về Bartolomeo ở bất cứ nơi nào có thể. Thoạt đầu những người lớn tuổi còn nhắc đến anh chút ít, và lắc đầu ngao ngán trước mối quan tâm của anh về lũ ma cà rồng. “Chẳng có gì tốt lành từ việc đó cả,” một người trong số họ nhận xét, những người còn lại đều đồng tình. Tôi cảm thấy lòng mình lẫn lộn buồn vui khi nghe thấy vậy. Vui vì được nghe người khác kháo chuyện về anh, bởi tôi không bao giờ có thể thổ lộ với bất kỳ ai một lời nào, nhưng tôi cũng cảm thấy rùng mình ớn lạnh khi nghĩ đến việc anh ấy có thể lôi kéo sự chú ý của lũ pricolici.

“ ‘Tôi không ngớt băn khoăn tự hỏi điều gì sẽ xảy ra khi anh quay trở lại. Liệu anh có đến nhà cha tôi, gõ cửa và xin cha tôi cho phép cưới tôi làm vợ? Tôi tưởng tượng cả gia đình sẽ ngạc nhiên ra sao. Tất cả bọn họ sẽ tụ tập ở cửa nhà và chăm chú nhìn, trong lúc Bartolomeo trao quà cho họ còn tôi hôn từ biệt mọi người. Sau đó anh sẽ dẫn tôi đến một chiếc xe ngựa đang chờ sẵn, thậm chí có thể là một chiếc xe hơi. Chúng tôi sẽ đi xe ra khỏi làng, ngang qua các xứ sở mà tôi không thể hình dung được, bên kia những ngọn núi, xa hơn cả thành phố vĩ đại mà chị Éva đang sống. Tôi hy vọng chúng tôi sẽ ghé thăm Éva, vì lúc nào tôi cũng thương yêu chị nhất. Bartolomeo cũng sẽ quý mến chị ấy, vì chị mạnh mẽ và dũng cảm, và là một người thường đi đây đó như anh.

“ ‘Tôi đã trải qua bốn tuần trong tình trạng như vậy, đến cuối tuần thứ tư tôi cảm thấy mệt, kém ăn và mất ngủ. Khi đã khắc những khía chữ V vào gốc cây được gần bốn tuần, tôi bắt đầu trông ngóng một dấu hiệu nào đó của việc anh sẽ quay lại. Bất kỳ lúc nào có một chiếc xe vào làng, tiếng bánh xe luôn làm cho tim tôi rộn lên. Tôi ra giếng lấy nước ba lần một ngày, chờ mong và trông ngóng tin tức. Tôi thầm nhủ chắc hẳn anh không thể đến đúng sau bốn tuần, và mình nên chờ thêm một tuần nữa. Sau tuần thứ năm, tôi ngã bệnh và nghĩ chắc chắn ông hoàng của lũ pricolici đã giết anh. Có lần, thậm chí tôi đã nghĩ rằng người yêu tôi có thể quay trở lại dưới lốt ma cà rồng. Tôi chạy đến nhà thờ ngay giữa trưa, và cầu nguyện trước tượng Thánh Nữ Đồng Trinh để xua đi cái ý tưởng khủng khiếp đó.

“ ‘Đến tuần thứ sáu rồi thứ bảy, tôi bắt đầu không còn hy vọng. Vào tuần thứ tám, qua nhiều triệu chứng mà tôi thường nghe được từ những phụ nữ có gia đình, tôi chợt hiểu là mình đã có thai. Đêm về, tôi lặng lẽ khóc thầm trong chiếc giường ngủ chung với các chị em, và cảm thấy toàn thế giới, kể cả Chúa Trời và Đức Mẹ Thiêng liêng đều đã bỏ rơi mình. Tôi không biết chuyện gì đã xảy đến với Bartolomeo, nhưng tôi tin chắc chuyện đó phải khủng khiếp lắm, vì tôi biết anh thực sự yêu tôi. Tôi bí mật đi hái các loại cỏ và rễ cây, những thứ được cho rằng có thể ngăn không cho đứa bé trong tôi ra đời, nhưng chỉ hoài công vô ích. Đứa bé lớn mạnh trong tôi, mạnh hơn cả tôi, và bất chấp bản thân mình tôi bắt đầu yêu cái sức mạnh đó. Lúc kín đáo đặt tay lên bụng, tôi cảm nhận được tình yêu của Bartolomeo và tôi tin rằng anh không thể nào quên tôi.

“ ‘Tôi biết mình phải rời khỏi làng trước khi mang tủi nhục đến cho gia đình và hứng chịu cơn lôi đình của cha. Tôi nghĩ đến việc thử tìm bà lão đã trao cho tôi đồng xu. Có lẽ bà sẽ cho tôi vào nhà, cho tôi nấu nướng và lau nhà cho bà. Bà đến từ một trong những làng mạc phía thượng lưu sông Argeş, gần lâu đài của ma cà rồng, nhưng tôi không biết làng nào, hoặc liệu bà còn sống hay không. Tôi không dám mạo hiểm băng rừng một mình, vì trên núi ngoài lũ gấu và chó sói còn có rất nhiều ma quỷ.

“ ‘Sau cùng, tôi quyết định viết thư cho chị Éva, tôi đã gửi thư cho chị một đôi lần. Tôi lấy vài tờ giấy và một cái bì thư từ nhà của vị cha xứ, nơi thỉnh thoảng tôi tới giúp việc bếp núc. Trong lá thư, tôi nói rõ cho chị biết tình trạng của tôi và cầu xin chị đến giúp tôi. Phải mất năm tuần sau thư trả lời của chị mới đến. Tạ ơn Chúa, bác nông dân mang lá thư cùng một ít hàng tiếp tế đến nhà đã trao nó cho tôi chứ không phải cha, và tôi đã bí mật vào rừng để đọc. Khi ấy bụng tôi đã lùm lùm, nên tôi cảm thấy lạ lùng khi ngồi xuống một khúc cây, dù vậy tôi vẫn có thể giấu cái bụng tròn đó dưới tấm tạp dề của mình.

“ ‘Có một ít tiền trong thư, tiền Rumani, tôi chưa bao giờ thấy nhiều tiền như vậy, thư của chị Éva ngắn gọn và thực tế. Chị nói tôi phải đi bộ rời khỏi làng, đến làng kế tiếp, cách xa khoảng năm cây số, và sau đó bắt xe ngựa hoặc xe tải đến Târgoviste. Từ đó tôi có thể đáp xe đến Bucharest, và từ Bucharest tôi có thể đi xe lửa đến biên giới Hungary. Chồng chị sẽ đợi tôi tại trạm biên phòng T - vào 20 tháng Chín - tôi vẫn còn nhớ ngày hẹn đó. Chị nói tôi phải tính toán thế nào để có thể đến nơi đúng ngày hôm đó. Kèm theo thư của chị còn có một thư mời có đóng dấu của Chính phủ Hungary, giúp tôi vào đất nước đó. Chị gởi lời yêu thương đến tôi, và bảo tôi phải rất thận trọng, và cầu chúc tôi lên đường bình an. Khi đọc đến cuối thư, tôi đã hôn lên chữ ký của chị và cầu Chúa phù hộ cho chị bằng tất cả tấm lòng mình.

“ ‘Tôi gói nhúm đồ đạc ít ỏi của mình vào một túi nhỏ, gồm cả đôi giày tốt kia để dành cho lúc lên xe lửa, những lá thư mà Bartolomeo đã đánh rơi và chiếc nhẫn bạc của anh. Một buổi sáng nọ tôi rời bỏ căn nhà tranh của gia đình mình, ôm hôn người mẹ đang càng lúc càng già yếu của tôi. Tôi muốn sau này mẹ hiểu đó là một cách tôi tạm biệt bà. Tôi nghĩ bà sẽ ngạc nhiên, nhưng bà không hỏi tôi câu nào. Sáng hôm đó, thay vì ra đồng, tôi đã băng qua khu rừng, cố tránh đường lộ. Tôi dừng lại để chào từ biệt địa điểm hẹn hò bí mật trong rừng, nơi tôi đã nằm cùng Bartolomeo. Bốn tuần khắc trên thân cây đã mờ nhạt. Ở đó tôi đã đeo lại vào tay chiếc nhẫn của anh và cột khăn lên đầu, như một phụ nữ đã có chồng. Tôi có thể cảm nhận mùa đông đang đến qua những chiếc lá vàng và bầu không khí se lạnh. Tôi đứng đó khá lâu, sau đó đi dọc theo con đường mòn đến làng kế bên.

“ ‘Tôi không nhớ toàn bộ chuyến đi đó, chỉ còn nhớ là tôi rất mệt và đôi lúc rất đói. Có đêm tôi ngủ nhờ nhà một bà lão, bà đã cho tôi ăn xúp đỡ dạ và càu nhàu lẽ ra chồng tôi không nên để tôi đi một thân một mình như vậy. Có lúc tôi phải tá túc trong kho thóc. Sau cùng tôi tìm được một chuyến xe đến Târgoviste, và sau đó bắt thêm một chuyến nữa đến Bucharest. Tôi không biết đi xe lửa sẽ mất bao nhiêu tiền, vì vậy tôi rất cẩn thận, và chỉ bỏ tiền ra cho việc ăn uống khi cần thiết. Bucharest rất lớn và đẹp, nhưng tôi cảm thấy khiếp sợ vì ở đó có quá nhiều người, tất cả đều ăn mặc đẹp, và bọn đàn ông trâng tráo nhìn tôi ngay cả ở giữa đường. Tôi phải ngủ tại ga xe lửa. Tàu hỏa cũng làm tôi sợ, một con quái vật khổng lồ, đen đúa. Khi đã ngồi trên tàu, cạnh bên cửa sổ, tôi cảm thấy lòng hơi nhẹ nhõm một chút. Con tàu chạy qua nhiều cảnh đẹp tuyệt vời - những ngọn núi, dòng sông và những cánh đồng mênh mông, khác xa với những khu rừng vùng Transylvania chúng tôi.

“ ‘Ở trạm ga biên giới, tôi được biết hôm đó là ngày 19 tháng Chín và tôi đã nằm ngủ trên một chiếc ghế dài cho đến khi một trong các viên chức biên phòng cho tôi vào phòng làm việc của ông và cho tôi uống một ly cà phê nóng. Ông ta hỏi chồng tôi ở đâu, tôi trả lời là đang đến Hungary để gặp chồng. Sáng hôm sau, một người đàn ông đội mũ, mặc com lê đen đến gặp tôi. Anh ta có khuôn mặt rất hiền hậu, hôn lên cả hai má tôi và gọi tôi bằng “em gái”. Tôi luôn quý mến người anh rể này từ lúc đó cho đến ngày anh qua đời, và đến nay tôi vẫn còn yêu quý. Anh ấy còn hơn bất kỳ người anh nào trong gia đình tôi. Anh ấy đã chăm lo mọi thứ, mời tôi một bữa ăn nóng mà chúng tôi ngồi ăn tại một bàn có trải khăn ăn trên tàu. Chúng tôi có thể vừa ăn vừa ngắm nhìn cảnh vật đang lướt trôi bên ngoài cửa sổ.