Truy tìm Dracula - Chương 45 phần 1

Chương 45

Ngày 20 tháng Sáu năm 1930

Bạn thân mến,

Ngay lúc này tôi chẳng còn ai để hàn huyên tâm sự, tôi nhận ra mình đang cầm bút trong tay và đặc biệt mong có anh bên cạnh để bầu bạn - anh sẽ vô cùng kinh ngạc khi nhìn thấy cảnh tượng mà tôi đang thưởng thức ngay lúc này. Hôm nay tôi đang trong một trạng thái hoài nghi chính bản thân mình - anh chắc hẳn cũng sẽ như vậy nếu có thể nhìn thấy tôi đang ở đâu - trên một chuyến tàu, nhưng bản thân điều này cũng chẳng nói lên gì nhiều. Con tàu vẫn đang phì phò nhả khói tiến về Bucharest. Trời đất ơi, anh bạn, tôi như đang nghe tiếng anh trên nền tiếng còi tàu. Nhưng đây là sự thực. Tôi không định đến nơi chốn này, nhưng một điều gì đó vô cùng kỳ quái đã thúc đẩy tôi. Vài ngày trước, lúc hãy còn ở Istanbul, đang tiến hành một số công việc nghiên cứu mà tôi phải giữ bí mật, tôi đã phát hiện ra một vài manh mối khiến tôi muốn đến đây. Thực ra tôi không muốn, nói cho chính xác thì tôi đã bị làm cho khiếp đảm, thậm chí cảm thấy như bị ép buộc. Anh vốn là người rất duy lý - anh sẽ chẳng thèm quan tâm đến câu chuyện, nhưng tôi vô cùng mong muốn có được trí lực của anh trong chuyến đi này; để tìm được những gì tôi đang tìm kiếm, tôi sẽ phải huy động toàn bộ sức lực mình và còn hơn thế nữa.

Đoàn tàu đang chạy chậm lại để vào một thị trấn, một cơ hội tốt để mua bữa điểm tâm - tôi tạm ngừng một lát và sẽ quay lại với câu chuyện này sau.

Buổi chiều - Bucharest

Chắc hẳn tôi đã nghỉ trưa nếu tâm trí không đang bất an và kích động như thế này. Ở đây trời nóng kinh khủng - tôi cứ tưởng nơi đây phải là một vùng núi non mát lạnh, nhưng nếu có đúng thế thật thì tôi cũng chưa đến được đó. Bucharest là Paris thu nhỏ của phương Đông, vừa đường bệ vừa nhỏ nhắn vừa điểm nét tàn phai. Thành phố chắc hẳn đã phát triển rất nhanh vào các thập niên 80 và 90 của thế kỷ trước. Phải rất lâu tôi mới tìm được một chiếc taxi, sau đó là một khách sạn, nhưng căn phòng khách sạn khá tiện nghi, tôi đã có thể tắm rửa, nghỉ ngơi, và suy nghĩ về những việc phải làm. Tôi lưỡng lự không muốn ghi lại ở đây những gì mình định làm, nhưng cuối cùng tôi đã ghi lại vì nghĩ anh sẽ rất khó mà hiểu được những đam mê của tôi. Nói một cách ngắn gọn và ấn tượng, tôi đang tiến hành một việc đại loại như là một cuộc điều tra, cuộc săn lùng của một sử gia với đối tượng là Dracula - không phải Bá tước Dracula trên sân khấu lãng mạn, mà là một Dracula có thực, bằng xương bằng thịt - Drakulya - Vlad III, một bạo chúa của thế kỷ mười lăm, từng sống tại vùng Transylvania và Wallachia và đã toàn tâm toàn ý cống hiến cuộc đời mình để ngăn không cho Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ xăm lăng lãnh thổ của mình. Khi ghé lại Istanbul gần một tuần để thăm một trung tâm lưu trữ tư liệu, nơi có một số tài liệu được người Thổ sưu tập và nói về nhân vật này, tôi đã tìm được ở đó một bộ bản đồ kỳ lạ, mà tôi tin rằng chúng là đầu mối dẫn đến vị trí hầm mộ của Dracula. Khi về nhà, tôi sẽ giải thích với anh đầy đủ hơn những gì đã đưa tôi vào cuộc săn lùng này, trong khi chờ đợi tôi chỉ biết cầu mong anh thông cảm chờ đến khi ấy. Xét cho cùng, về việc tôi lao vào cuộc truy lùng này, anh có thể đổ lỗi cho tuổi trẻ, anh bạn hiền triết già ạ.

Dù thế nào chăng nữa, rốt cuộc thời gian lưu trú của tôi tại Istanbul lại trở nên tăm tối và làm tôi khá sợ hãi, dù đối với người không trực tiếp chứng kiến thì chắc chắn điều này nghe có vẻ như chuyện điên khùng. Nhưng một khi đã bắt đầu một cuộc truy tìm, tôi không dễ gì từ bỏ, như anh biết đấy, và tôi không thể không đến đây cùng với các bản sao mà tôi đã vẽ lại từ những tấm bản đồ đó, để tìm kiếm thêm thông tin về ngôi mộ của Drakulya. Tôi sẽ giải thích cặn kẽ với anh, người ta cho rằng hắn đã được chôn cất tại một tu viện trên một hòn đảo giữa hồ Snagov, miền Tây Rumani - Wallachia, người ta gọi tên khu vực ấy như vậy. Những tấm bản đồ tôi phát hiện tại Istanbul tuy có đánh dấu rõ ràng vị trí ngôi mộ của hắn nhưng lại không cho thấy hòn đảo nào, và theo như tôi thấy thì nó không có đặc điểm nào giống như miền Tây Rumani. Dường như bao giờ cũng vậy, tôi luôn nghĩ rằng trước tiên phải kiểm tra những điều hiển nhiên đã vì đôi khi những gì bày ra trước mắt lại chính là câu trả lời đúng đắn nhất. Vì vậy, tôi đã quyết định - đến đây tôi chắc chắn anh sẽ lắc đầu ngao ngán trước điều mà anh sẽ gọi là sự bướng bỉnh điên khùng của tôi - đến hồ Snagov cùng với những tấm bản đồ để tự mình xác định là ngôi mộ kia không có ở đó. Tôi vẫn chưa biết sẽ đến đó bằng cách nào, nhưng tôi không thể hài lòng với việc truy tìm ở một nơi chốn nào khác khi chưa loại bỏ được khả năng này. Và có lẽ, rốt cuộc thì những tấm bản đồ của tôi chỉ là một trò chơi khăm cũ rích nào đó, và tôi sẽ chỉ tìm được bằng chứng đầy đủ rằng từ trước đến nay tên bạo chúa này vốn vẫn yên nghỉ tại nơi đó mà thôi.

Mồng năm tôi sẽ phải có mặt tại Hy Lạp, vì vậy tôi có rất ít thời gian quý báu dành cho toàn bộ chuyến đi này. Tôi chỉ muốn biết liệu những tấm bản đồ của mình có khớp với bất cứ chi tiết nào ở địa điểm hầm mộ. Thậm chí tôi không thể nói với anh lý do vì sao tôi cần biết rõ điều này, bạn thân mến ạ - chính tôi cũng ước gì mình cũng hiểu rõ lý do này. Tôi dự định kết thúc cuộc hành trình Rumani của mình bằng cách viếng thăm càng nhiều càng tốt khu vực Wallachia và Transylvania. Khi nghĩ tới từ Transylvania, nếu như anh có khi nào lại nghĩ tới nó, thì anh sẽ hình dung ra những gì? Phải, tôi biết - anh chẳng buồn nghĩ tới nó, thật khôn ngoan. Còn với tôi, những gì hiện ra trong tâm trí tôi là những ngọn núi với vẻ đẹp man dại, những tòa lâu đài cổ, lũ ma sói và những mụ phù thủy - một vùng đất hoang sơ kỳ diệu. Tóm lại, tôi hình dung đó là một vùng đất mà khi tiến vào tôi sẽ chẳng tin nổi mình vẫn còn trên đất châu Âu. Khi đến nơi, tôi sẽ cho anh biết đó là Âu châu hay một xứ sở thần tiên nào đó sau. Trước tiên là hồ Snagov - mai tôi sẽ lên đường tới đó.

Người bạn chân tình của anh,

Bartholomew Rossi

22 tháng Sáu

Hồ Snagov

Bạn thân mến,

Tôi vẫn chưa tìm được nơi nào để gửi lá thư đầu tiên của tôi đến anh - ý tôi là chưa tìm được chỗ nào để có thể gửi nó đi với sự tin tưởng rằng thư sẽ đến tay anh - dù vậy tôi vẫn tiếp tục ở đây, tràn trề hy vọng vì đã có thêm nhiều diễn biến mới. Tôi đã dành cả ngày hôm qua tại Bucharest để cố gắng lùng tìm những tấm bản đồ rõ ràng nhất - hiện tại tôi đã có ít nhất vài tấm bản đồ đường sá vùng Wallachia và Transylvania - và trò chuyện với những người có chút quan tâm đến câu chuyện về Vlad Ţepeş ở trường đại học. Ở đây, tôi có cảm giác dường như không ai muốn bàn tán về chủ đề này, và tôi có cảm giác khi tôi nhắc đến tên Dracula, bọn họ đều làm dấu thánh, không công khai thì cũng thầm làm thế trong lòng. Phải thừa nhận rằng sau trải nghiệm tại Istanbul, việc này khiến tôi khá căng thẳng, nhưng thôi, hiện tại tôi sẽ cứ tiếp tục tiến tới cái đã.

Dù thế nào chăng nữa, hôm qua tôi đã gặp một giáo sư trẻ thuộc khoa khảo cổ học của trường đại học, anh ta khá tử tế cho tôi biết là một trong số các bạn đồng sự của anh, một ông Georgescu nào đó, chuyên nghiên cứu về lịch sử hồ Snagov, hiện đang đào xới khai quật khu vực đó từ mùa hè này. Lẽ tất nhiên, tôi vô cùng phấn khích khi nghe tin đó và lập tức quyết định phó thác tất cả - những tấm bản đồ, các túi xách hành lý và cả bản thân mình - vào tay một tài xế, người sẽ đưa tôi đến đó ngay hôm nay; anh ta bảo hồ Snagov chỉ cách Bucharest vài giờ chạy xe. Một giờ trưa chúng tôi lên đường nên giờ tôi phải tìm nơi nào đó để ăn trưa đã - những quán ăn nhỏ ở đây đẹp một cách đặc biệt, đồ ăn cũng phảng phất nét sang trọng của người phương Đông.

Chiều tối

Bạn thân mến,

Tôi không thể không tiếp tục mối quan hệ thư từ không gửi này của chúng ta - mong rằng đến cuối cùng những lá thư này sẽ thực sự đến được tay anh - bởi hôm nay là một ngày khác thường đến nỗi tôi không thể không trò chuyện với một ai đó. Tôi rời Bucharest trên một chiếc taxi nhỏ, gọn gàng, được điều khiển bởi một người đàn ông cũng nhỏ thó gọn gàng mà tôi chỉ trao đổi được hai từ (Snagov là một trong hai từ đó). Sau khi xem lướt qua những tấm bản đồ đường sá, và sau nhiều cái vỗ vai trấn an (tất nhiên là vai tôi), chúng tôi lên đường. Chúng tôi đã chạy xe nguyên cả buổi chiều, lọc xọc vượt qua những con đường hầu hết được trải nhựa nhưng vẫn mù mịt bụi, qua một vùng phong cảnh hầu hết là đất đai nông nghiệp nhưng thỉnh thoảng xen vào những cánh rừng, để tới hồ Snagov.

Cái vẫy tay đầy kích động của người tài xế là dấu hiệu đầu tiên cho tôi biết là đã tới, theo đó tôi nhìn ra bên ngoài và chỉ thấy toàn là rừng rậm. Tuy nhiên, đó chỉ là khúc dạo đầu. Tôi hoàn toàn không biết mình mong đợi điều gì; tôi nghĩ mình đã bị tính ham tìm hiểu mọi thứ của một sử gia thôi thúc đến nỗi tôi đã thôi mong đợi một điều cụ thể. Ngay khi nhìn thấy hồ nước đó, tôi đã lập tức bật ra khỏi những ám ảnh của mình. Anh bạn ạ, đó là một nơi vô cùng xinh đẹp, thanh bình và kỳ ảo. Cứ tưởng tượng mà xem, từ con lộ, anh sẽ thấy một dòng nước chảy dài lấp lánh thấp thoáng ẩn hiện sau những tán cây dày. Ẩn mình đây đó trong những cánh rừng là những biệt thự xinh đẹp - thường anh chỉ có thể nhìn thấy một ống khói thanh nhã, hoặc một bức tường cong cong - nhiều biệt thự trong số đó có lẽ đã được xây dựng từ thế kỷ trước, hoặc xa xưa hơn nữa.

Chúng tôi đã đỗ xe gần một quán ăn nhỏ đằng sau có neo ba chiếc thuyền. Khi đến một khoảng trống trong khu rừng, từ bờ hồ anh có thể nhìn thấy hòn đảo nơi tu viện kia tọa lạc và tại đó, cuối cùng tại chính nơi đó, anh sẽ nhìn được toàn cảnh của một vùng mà chắc chắn đã chẳng hề thay đổi dù đã trải qua nhiều thế kỷ. Hòn đảo chỉ cách bờ một quãng ngắn chèo thuyền và cũng rậm rịt cây cối như trên bờ. Nhô lên khỏi đám cây cối là những mái vòm lộng lẫy theo phong cách Byzantine của giáo đường tu viện, và tiếng chuông bỗng lướt qua mặt nước ngân lên - được một tu sĩ gióng lên bằng chày vồ gỗ (sau này tôi mới biết). Tôi cảm thấy lòng bồi hồi khi nghe tiếng chuông vang vọng qua mặt hồ; đối với tôi có vẻ như đây đúng là một trong những thông điệp đến từ quá khứ, thiết tha muốn con người hiểu chúng, cho dù người ta không thể chắc chắn chúng muốn nói lên điều gì. Người tài xế và tôi, đứng đó, trong ánh nắng chiều tà phản chiếu từ mặt hồ, giống như những tên do thám của binh đội Thổ Nhĩ Kỳ đang chăm chú theo dõi cái pháo đài của một đức tin xa lạ, chứ không phải là hai gã đàn ông thời hiện đại lấm lem bụi đường đang đứng tựa vào xe ô tô.

Tôi có thể đứng ngắm nhìn và lắng nghe lâu hơn nữa mà không cảm thấy bồn chồn, nhưng tôi đã vào quán ăn vì quyết tâm phải tìm gặp được nhà khảo cổ kia trước khi trời tối. Tôi đã vận dụng hết mớ vốn liếng tiếng Latin ba rọi của mình, kể cả việc khoa chân múa tay để hỏi thuê một chiếc thuyền đi ra đảo. Vâng, vâng, có một người đàn ông đến từ Bucharest đang dùng xẻng đào xới ngoài đó, ông chủ thuyền cố loay hoay diễn đạt cho tôi hiểu như vậy - và chỉ hai mươi phút sau chúng tôi đã cập vào đảo. Tu viện nằm khá cách biệt, nhìn gần thậm chí trông nó còn đẹp hơn, với những bức tường cũ kỹ và mái vòm vút cao, trên mỗi mái vòm là một cây thánh giá trang trí công phu. Người chủ thuyền dẫn chúng tôi bước lên những bậc thang khá dốc, tôi định đi vào luôn qua cánh cửa gỗ lớn nhưng ông ta chỉ cho chúng tôi đi vòng ra phía sau.

Bước men theo những bức tường cổ xưa xinh đẹp, tôi chợt nhận ra đây là lần đầu tiên mình thực sự lần bước theo dấu chân của Dracula. Cho đến lúc đó, tôi đã lần theo dấu vết của hắn qua một mớ tài liệu rối rắm, nhưng bây giờ, tôi đang đứng trên mảnh đất, mà đôi chân hắn - mang loại giày nào nhỉ? Loại giày da, có gắn loại đinh thúc ngựa ác độc chăng? - có lẽ đã từng rảo bước. Nếu là người có thói quen làm dấu thánh, hẳn có lẽ tôi đã làm dấu thánh ngay tức khắc; trong tâm trạng đó, bất chợt tôi cảm thấy một thôi thúc mãnh liệt, muốn vỗ lên bờ vai đang khoác lớp áo len thô ráp của người chủ thuyền mà yêu cầu ông ta trở mái chèo đưa tôi trở về lại đất liền an toàn. Nhưng tôi đã không làm vậy, như anh có thể hình dung, và tôi hy vọng rốt cuộc sẽ không hối tiếc vì đã không đưa tay ra vỗ lên bờ vai đó.

Phía sau nhà thờ, giữa một khu phế tích lớn, chúng tôi thấy một người đàn ông đang cầm xẻng. Ông ta cỡ tuổi trung niên, trông có vẻ vui vẻ và khỏe mạnh, mái tóc quăn đen, áo sơ mi trắng để mở, hai cánh tay áo xắn lên đến tận cùi chỏ. Hai cậu bé làm việc bên cạnh ông ta, cẩn thận mò mẫm hai tay trong đất, thỉnh thoảng ông ta cũng bỏ xẻng xuống và làm y như hai cậu bé. Họ chăm chú tụ quanh một khu vực rất nhỏ, tựa như đã tìm được ở đó một cái gì thú vị, và chỉ ngẩng đầu nhìn lên khi người chủ thuyền lên tiếng chào hỏi.

Người đàn ông mặc áo sơ mi trắng bước đến, quan sát chúng tôi bằng đôi mắt đen sắc sảo, người chủ thuyền nói vài tiếng như là những lời giới thiệu, với sự phụ họa của tay tài xế. Tôi chìa tay ra và cố lõm bõm vài câu Rumani vừa mới học được, trước khi xổ ra một tràng tiếng Anh: “Ma numesc Bartolomeo Rossi. Nu va suparati...” Tôi đã học được câu nói hay ho này tại Bucharest từ người giữ cửa khách sạn nơi tôi tạm trú, đây là câu thường được sử dụng khi chặn người lạ lại để hỏi han này nọ. Câu này có nghĩa, đúng nghĩa đen là “Đừng nổi giận” - anh có thể nghĩ ra một câu nói nào sử dụng hàng ngày lại gợi nhắc lịch sử nhiều hơn thế không? “Anh bạn, xin đừng rút dao ra - tôi chỉ bị lạc trong khu rừng này và cần biết hướng ra mà thôi.” Tôi không biết liệu có phải do cách sử dụng câu, hoặc có thể do cách phát âm quá tệ hại của mình mà nhà khảo cổ học kia đã vừa bật cười vừa bắt chặt tay tôi.

Nhìn gần, ông là một người rắn rỏi với làn da rám nắng và những nếp chân chim quanh mắt và miệng. Ông cười để lộ hàm răng trên bị thiếu mất hai cái, phần lớn những chiếc răng còn lại đều sáng lấp lánh ánh vàng. Bàn tay ông rắn chắc một cách lạ thường, khô ráp như bàn tay một nông dân. “Bartolomeo Rossi hả,” ông trầm giọng nói, vẫn cười. “Ma numesc Velior Georgescu - Tên tôi là Velior Georgescu. Anh khỏe chứ? Tôi giúp anh được gì nào?” Trong khoảnh khắc, tôi chợt nhớ lại cuộc hành trình đi bộ của chúng ta hồi năm ngoái; người đàn ông này có thể là một trong những người dân vùng cao nguyên dày dạn phong sương mà chúng ta thường hỏi đường, chỉ khác một điều tóc ông đen thay vì hung hung đỏ.

“Anh nói được tiếng Anh sao?” tôi lúng túng buông ra một câu ngớ ngẩn.

“Chút đỉnh thôi,” Georgescu trả lời. “Đã từ lâu tôi không có cơ hội nói tiếng Anh, nhưng nó sẽ mau chóng trở lại với cái lưỡi tôi thôi.” Giọng ông trầm và lưu loát, với chữ ‘r’ được phát âm trong cổ.

“Xin lỗi ông,” tôi vội nói. “Tôi biết ông rất quan tâm đến Vlad III và rất mong được hầu chuyện với ông. Tôi là một sử gia đến từ Đại học Oxford.”

Ông gật đầu. “Tôi cũng vui khi biết mối quan tâm của anh. Anh lặn lội xa xôi như vậy chỉ để xem ngôi mộ của hắn hay sao?”

“Vâng, tôi hy vọng...”

“À, anh hy voọn, anh hy voọn,” Georgescu nói, vỗ vỗ lên vai tôi, vẻ bỗ bã. “Nhưng tôi phải kéo hy voọn của anh xuống thấp hơn một chút, anh bạn ạ.” Tim tôi như hụt một nhịp đập - có thể nào người đàn ông này cũng nghĩ Vlad không được chôn cất ở đây? Nhưng tôi quyết định chờ cơ hội tốt và lắng nghe cẩn thận trước khi nêu thêm bất kỳ câu hỏi nào khác. Ông ta quan sát tôi bằng ánh mắt giễu cợt, và lại mỉm cười. “Nào, tôi sẽ dẫn anh đi tham quan một voòn.” Ông nói với hai cậu bé phụ việc một vài câu ngắn gọn, dường như bảo chúng nghỉ tay, vì sau đó tôi thấy chúng liền chùi tay và đến ngồi nghỉ bên một gốc cây. Đặt xẻng tựa vào thành hố đang đào dang dở, ông vẫy tay ra hiệu với tôi. Đến lượt tôi cho người chủ thuyền và anh chàng tài xế biết là tôi bận chút việc, và dúi tiền vào tay người chủ thuyền. Chủ thuyền đưa tay chạm vành mũ chào rồi lỉnh ngay, còn tay tài xế thì ngồi tựa vào đống đổ nát và lấy ra một chai rượu loại bỏ túi.

“Tốt lắm, trước tiên chúng ta sẽ dạo quanh bên ngoài.” Ông quơ vòng bàn tay to tướng. “Anh biết lịch sử của hòn đảo này chứ? Chút đỉnh à? Vào thế kỷ mười bốn, ở đây có một giáo đường, tu viện được xây dựng sau đó ít lâu, nhưng cũng trong thế kỷ đó. Giáo đường đầu tiên được xây dựng bằng gỗ, và cái thứ hai thì bằng đá, nhưng cái bằng đá đã chìm xuống hồ vào năm 1453. Chuyện kỳ quái, anh có nghĩ vậy không? Dracula lên cầm quyền tại vùng Wallachia lần thứ hai vào năm 1462, và đã có những ý đồ của riêng mình. Tôi tin hắn ta thích tu viện này vì đây là một hòn đảo dễ phòng thủ - hắn ta luôn tìm những địa điểm có thể củng cố để chống lại người Thổ. Đây là một địa điểm thuận lợi, anh có nghĩ vậy không?”

Tôi gật đầu đồng ý, cố không nhìn thẳng vào ông. Tôi nhận thấy mình khó tập trung vào những gì ông nói vì tiếng Anh của người đàn ông này quá kỳ lạ, nhưng vẫn ngấm được ý tưởng cuối cùng của ông. Chỉ liếc nhìn qua chung quanh người ta cũng có thể hình dung chỉ cần vài tu sĩ là đủ để bảo vệ cứ điểm này khỏi quân xâm lược. Tôi nhận ra trong ánh mắt Velior Georgescu một sự đồng tình với nhận xét trên. “Do đó, Vlad đã xây dựng tu viện này thành một pháo đài. Hắn đã xây tường phòng thủ xung quanh, một nhà tù một phòng tra tấn, ngoài ra còn có một đường hầm thoát hiểm và một cây cầu nối liền vào bờ. Một gã lõi đời, Vlad là thế đấy. Lẽ dĩ nhiên, lâu lắm rồi cây cầu không còn nữa, tôi đã khai quật những gì còn sót lại của nó. Vị trí mà anh nhìn thấy chúng tôi đang đào xới, trước kia vốn là nhà tù. Chúng tôi đã tìm được vài bộ xương ở đó.” Ông nhoẻn miệng cười và những chiếc răng vàng lại lóe sáng dưới ánh nắng.

“Vậy thì đây là nhà thờ của Vlad?” tôi hỏi, chỉ vào một tòa nhà xinh xắn gần đó, với những mái vòm nhô cao, và đám cây cối u ám đang sột soạt quanh các bức tường.

“Không, tôi e rằng không phải vậy,” Georgescu đáp. “Tu viện đã bị người Thổ đốt cháy một phần vào năm 1462, khi Radu, em trai của Vlad, một con rối của đế chế Ottoman, đang ngồi trên ngai voàn xứ Wallachia. Và ngay sau khi Vlad được chôn cất ở đây, một cơn bão khủng khiếp đã thổi bay ngôi giáo đường của hắn xuống hồ.” Vlad được chôn cất ở đây phải không? Tôi rất muốn hỏi câu đó, nhưng đã kịp ngậm miệng lại. “Những người nông dân chắc hẳn đã nghĩ đó là sự trừng phạt của Chúa đối với những tội lỗi của hắn ta. Giáo đường được xây dựng lại vào năm 1517 - phải mất ba năm - và anh thấy ở đây là các thành quả xây dựng kia đấy. Những bức tường phía ngoài tu viện là một công trình phục chế, mới khoảng ba mươi năm.”

Chúng tôi tản bộ theo rìa giáo đường, ông đưa tay vỗ lên những công trình cổ xưa tựa như vỗ lên mông một chú ngựa yêu. Khi chúng tôi đứng đó, bất chợt một người đàn ông vòng qua góc nhà thờ và tiến về phía chúng tôi - một ông lão có dáng đi lom khom, râu tóc bạc trắng, mặc áo đen và đội chiếc mũ tròn nhỏ cũng màu đen với những tua dài buông lòng thòng xuống tận vai. Ông chống gậy bước đi, áo choàng cột lại bằng một sợi dây nhỏ, lủng lẳng ở đó là một xâu chìa khóa. Quanh cổ ông lão là sợi dây chuyền, đong đưa một cây thánh giá nhỏ rất đẹp, giống như những thánh giá tôi nhìn thấy trên đỉnh các mái vòm giáo đường.

Tôi quá kinh ngạc vì sự xuất hiện của ông lão đến độ gần như ngã lăn ra; tôi không thể tả lại tác động của sự xuất hiện đó đối với mình, chỉ biết nói rằng nó tựa như việc Georgescu đã thành công trong việc gọi hiện hình một hồn ma. Nhưng ông bạn mới quen của tôi đã bước đến, mỉm cười rồi kính cẩn cúi xuống hôn lên bàn tay xương xẩu lấp lánh chiếc nhẫn vàng của vị tu sĩ già. Có vẻ như ông lão cũng rất yêu mến Georgescu, ông đặt tay lên đầu nhà khảo cổ học một lúc lâu và mỉm cười, một nụ cười uể oải yếu ớt, khoe ra hàm răng thậm chí còn thiếu nhiều chiếc hơn cả hàm răng của Georgescu. Tôi thoáng nghe tên mình trong những lời giới thiệu và đã hết sức trịnh trọng để cúi chào vị tu sĩ, dù vậy tôi không thể buộc mình phải cúi hôn chiếc nhẫn của ông ta.

“Đây là cha tu viện trưởng,” Georgescu giới thiệu. “Ông là người cuối cùng ở đây và hiện tại chỉ có ba tu sĩ khác đang sống cùng ông tại tu viện. Ông đã ở đây từ khi còn trẻ và biết hòn đảo này rõ hơn tôi. Ông ấy chào mừng và chúc anh những điều tốt lành. Nếu anh có bất kỳ câu hỏi nào với ông,” nhà khảo cổ học nói tiếp, “ông sẽ cố gắng trả lời.” Tôi cúi chào cám ơn, và ông lão chầm chậm đi tiếp. Vài phút sau, tôi thấy ông lặng lẽ ngồi trên một gờ tường đổ nát phía sau chúng tôi, như một con quạ đang im lìm ngơi nghỉ dưới ánh nắng chiều.

“Họ sống ở đây suốt năm à?” tôi hỏi Georgescu.

“Ồ, vâng. Ngay cả vào những mùa đông khắc nghiệt nhất, họ cũng ở đây.” Ông bạn hướng dẫn viên của tôi gật đầu đáp. “Anh sẽ nghe họ cùng hát Thánh ca nếu anh đừng rời khỏi đây quá xớm.” Tôi quả quyết với ông là tôi không muốn bỏ lỡ một trải nghiệm như thế này. “Bây giờ, chúng ta hãy vào nhà thờ.” Chúng tôi đi vòng đến cửa trước, những cánh cửa gỗ đồ sộ được chạm khắc, và từ đó bước vào một thế giới mà trước giờ tôi chưa từng biết, hoàn toàn khác với những nhà nguyện Thanh giáo.