Truy tìm Dracula - Chương 45 phần 2
Bên trong là một bầu không khí mát lạnh, và trước khi có thể nhìn thấy được bất kỳ thứ gì trong nội thất tối âm u đó, tôi nghe thoảng mùi khói hương và cảm nhận được hơi ẩm từ những tảng đá, tựa như chúng đang thở. Khi mắt đã quen với bóng tối mờ mờ, tôi chỉ thấy những tia sáng yếu ớt phản chiếu từ những đồ vật bằng đồng và ánh nến. Ánh nắng ban ngày chỉ lờ mờ xuyên qua lớp kính dày màu sậm. Chẳng có ghế dài hoặc ghế dựa gì cả, ngoại trừ vài ghế gỗ cao đặt dọc theo một bức tường. Gần lối vào có bệ cắm nến đang cháy, chảy nhỏ giọt và bốc lên mùi sáp cháy; một số cắm vào một giá đồng hình vương miện ở phía trên đỉnh và một số được cắm vào một bình cát quanh chân bệ. “Hàng ngày, các tu sĩ đều lên đây thắp nến, thỉnh thoảng khách đến thăm cũng vậy,” Georgescu giải thích. “Những cây nến quanh trên đỉnh dành cho những người còn sống và những cây ở quanh bệ phía dưới là dành cho linh hoồng của những người chết. Chúng sẽ được để cháy cho đến hết.”
Đến chính giữa nhà thờ, ông chỉ tay lên trên, tôi nhìn thấy một khuôn mặt nổi lên lờ mờ phía trên chúng tôi, ngay đỉnh mái vòm. “Anh biết rành các giáo đường Byzantine của chúng tôi chứ?” Georgescu hỏi. “Đấng Cứu Thế luôn ở chính giữa, nhìn suốn chúng ta. Cây chúc đèn” - như một vương miện khổng lồ rủ xuống từ giữa ngực đấng Cứu Thế, choán hết khoảng không gian chính của giáo đường, nhưng nến trong đó đã cháy hết - “cũng mang ý nghĩa đặc trưng của loại giáo đường này.”
Chúng tôi tiến đến gần bệ thờ. Bất chợt, tôi cảm thấy mình như đang xâm phạm nơi này: không thấy bóng tu sĩ nào còn Georgescu thì bước sải phía trước với thái độ hoan hỉ của người chủ. Trên bệ thờ có treo những tấm vải thêu, và phía trước là một đống thảm len và thảm chùi chân với các mẫu trang trí dân dã, mà nếu không biết rõ hơn chắc hẳn tôi sẽ nghĩ chúng là những tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ. Đỉnh bệ thờ được trang hoàng nhiều món đồ đa dạng, trong số đó có một mô hình Chúa Jesus bị đóng đinh trên thánh giá được tráng men và một tượng Đức Mẹ Đồng Trinh và Chúa Hài Đồng lồng trong khung bằng vàng. Phía sau bệ thờ là một bức tường với bích họa mô tả những vị thánh có đôi mắt u buồn và các thiên thần với đôi mắt thậm chí còn sầu muộn hơn, chính giữa đó là hai cánh cửa dát vàng, rèm cửa bằng nhung màu đỏ tía, dẫn đến một nơi nào đó hoàn toàn được che kín và bí ẩn.
Trong bóng tối nhá nhem, khó khăn lắm tôi mới phân biệt được toàn bộ khung cảnh đó, nhưng vẻ đẹp ảm đạm của khung cảnh đã làm tôi xúc động. Tôi quay sang hỏi Georgescu, “Vlad làm lễ ở đây à? Ý tôi là ở cái nhà thờ trước đây ấy?”
“Ồ, hẳn rồi,” nhà khảo cổ cười khúc khích. “Hắn là một kẻ sát nhân ngoan đạo. Hắn còn xây dựng nhiều nhà thờ và tu viện khác, để chắc chắn có nhiều người cầu nguyện cho linh hồn hắn được cứu rỗi. Đây là một trong những địa điểm ưa thích của hắn, hắn cũng rất thân thít với các tu sĩ ở đây. Tôi không biết họ nghĩ thế nào về những hành động xấu xa của hắn, nhưng họ thích việc hắn ủng hộ cho tu viện. Hơn nữa, hắn còn bảo vệ họ tránh khỏi người Thổ. Nhưng các báu vật mà anh nhìn thấy ở đây đều được mang về từ các nhà thờ khác - vào cuối thế kỷ trước, khi nhà thờ bị đóng cửa bọn nông dân đã cuỗm hết mọi thứ có giá trị ở đây rồi. Anh nhìn này - đây là điều tôi muốn chỉ cho anh thấy.” Ông ngồi xổm xuống và lật các tấm thảm phía trước bệ thờ lên. Ngay trước mặt, tôi thấy một phiến đá dài hình chữ nhật, trơn nhẵn, không có hình vẽ hoặc chữ nghĩa gì cả, nhưng rõ ràng đó là dấu vết một ngôi mộ. Tim tôi bắt đầu đập thình thịch.
“Mộ của Vlad?”
“Vâng, theo truyền thuyết là vậy. Vài năm trước đây, tôi và một số đồng nghiệp đã khai quật nơi này và chỉ thấy có một cái hố trống rỗng - chỉ có một ít xương thú vật.”
Tôi nín thở. “Hắn không có trong này sao?”
“Hoàn toàn không.” Hàm răng của Georgescu lại lóe sáng lấp lánh như tất cả mớ đồ vật bằng đồng và vàng chung quanh chúng tôi. “Các tài liệu ghi lại cho biết hắn đã được chôn cất ở đây, phía trước bệ thờ, và nhà thờ mới đã được xây dựng trên cùng một nền móng với nhà thờ cũ, vì vậy ngôi mộ của hắn đã không bị ảnh hưởng gì. Anh có thể hình dung chúng tôi đã thất vọng như thế nào khi không tìm thấy hắn.”
Thất vọng à? Tôi nghĩ. Tôi thì thấy cái hố trống rỗng bên dưới đáng sợ hơn là nỗi thất vọng.
“Dù sao chăng nữa, chúng tôi đã quyết định đào sâu quanh đây thêm chút nữa và ở đằng kia” - ông dẫn tôi ngược xuống gian giữa giáo đường, đến vị trí gần lối vào phía trước và lật một tấm thảm khác lên - “ở chỗ này chúng tôi đã phát hiện được một phiến đá thứ hai giống y như phiến thứ nhất.” Tôi chăm chăm nhìn xuống. Quả thực, phiến đá này cùng kích cỡ và hình dạng như phiến đá đầu tiên, cũng trơn nhẵn không có hình hoặc chữ gì cả. “Vì vậy chúng tôi cũng đã đào xới nơi này lên,” Georgescu giải thích, vỗ tay lên phiến đá.
“Và ông đã tìm thấy...?”
“Ồ, một bộ xương rất đẹp.” Ông thốt lên, vẻ hài lòng ra mặt. “Trong một quan tài vẫn còn một phần vải liệm - thật đáng kinh ngạc, sau năm thế kỷ. Tấm vải liệm màu đỏ tía vương giả với các đường thêu kim tuyến, bộ xương bên trong vẫn còn trong tình trạng tốt, trong trang phục rất đẹp, bằng gấm đỏ tía thêu kim tuyến với ống tay áo đỏ sậm. Món tuyệt vời nhất mà chúng tôi tìm được là một chiếc nhẫn nhỏ được khâu vào một trong hai cánh tay áo. Chiếc nhẫn khá giản dị, có biểu tượng của Giáo đoàn Rồng, một trong các đồng sự của tôi tin rằng nó thuộc về một bộ troang xức lớn hơn.”
Khi nghe đến đây, tim tôi như hụt nhịp, tôi hỏi, giọng như thừa nhận. “Biểu tượng à?”
“Vâng, một con rồng với móng vuốt dài và một cái đuôi cuộn lại. Những người có chức sắc trong Giáo đoàn này lúc nào cũng mang hình ảnh này đâu đó trên người họ, thường thường là một cây trâm hoặc một móc gài áo choàng. Chắc chắn ông bạn Vlad của chúng ta cũng vậy, khi đã tới tuổi trưởng thành, có lẽ nhờ cha hắn.” Georgescu mỉm cười với tôi. “Nhưng tôi có cảm giác anh đã biết việc này rồi.”
Tôi đang chống chọi với các cảm xúc trái ngược lẫn nhau, giữa tiếc nuối và khuây khỏa. “Vậy đây mới là mộ của hắn, và truyền thuyết chỉ nhầm địa điểm chính xác?”
“Không, tôi không nghĩ vậy.” Ông trải lại tấm thảm phía trên phiến đá. “Không phải tất cả các đồng sự đều đồng ý với tôi, nhưng tôi nghĩ chứng cứ có được rõ ràng cho thấy truyền thuyết không nhầm.”
Tôi không khỏi kinh ngạc nhìn ông chằm chằm. “Nhưng những trang phục vương giả và chiếc nhẫn nhỏ kia thì sao?”
Georgescu lắc đầu. “Gã này chắc có lẽ cũng là một thành viên của Giáo đoàn - một nhà quý tộc cấp cao - và không chừng ông ta đã được cho mặc những thứ quần áo đẹp nhất của Dracula trong dịp này. Có lẽ, thậm chí ông ta còn được mời tuẫn táng theo để có một cái xác lấp đầy cái hầm mộ này - ai biết được chính xác ông ta chết khi nào?”
“Ông đã chôn lại bộ xương đó chứ?” Tôi phải nêu ra câu hỏi này; phiến đá nằm sát bên chân chúng tôi.
“Ồ, không - chúng tôi đã đem nó vào viện bảo tàng lịch sử tại Bucharest, nhưng anh không thể đến đó để thăm người đàn ông này được đâu - người ở đó đã cất ông ta cùng toàn bộ số áo quần đẹp đẽ ấy vào kho rồi khóa lại. Rất đáng tiếc.” Tuy vậy, Georgescu trông không có vẻ hối tiếc gì nhiều, dường như bộ xương tuy hấp dẫn nhưng không quan trọng, ít ra so với nhân vật thực sự ông muốn truy lùng.
“Tôi không hiểu,” tôi nói, nhìn ông ta chằm chằm. “Với quá nhiều chứng cứ như vậy, nói một cách chính xác, tại sao ông không nghĩ đó là Vlad Dracula?”
“Rất đơn giản,” Georgescu vui vẻ đáp, vỗ lên tấm thảm. “Gã này còn đầu. Trong khi đầu của Dracula bị người Thổ chặt và mang về Istanbul làm chiến lợi phẩm. Tất cả các nguồn tư liệu đều thống nhất về chi tiết này. Vì vậy bây giờ tôi đang đào bới ở khu nhà tù cũ để mong tìm một ngôi mộ khác. Tôi nghĩ cái xác đã được mang đi khỏi hầm mộ phía trước bệ thờ là để đánh lừa bọn trộm mộ, hoặc cũng có thể để bảo vệ nó khỏi các cuộc xâm lăng của người Thổ sau này. Hắn đang ở đâu đây trên hòn đảo này, tên khốn đó.”
Số câu tôi muốn hỏi Georgescu nhiều đến nỗi khiến tôi gần như tê liệt, nhưng ông chỉ thản nhiên đứng vươn vai. “Anh muốn qua quán ăn ăn tối không? Tôi đói đến nỗi có thể ngốn hết cả con cừu đây này. Nhưng nếu anh muốn chúng ta vẫn có thể kịp nghe phần đầu buổi thánh lễ sắp được bắt đầu. Anh đang trọ ở đâu nhỉ?”
Tôi thú nhận là chưa nghĩ đến việc đó, và cũng cần tìm nơi trọ cho người tài xế của mình. “Tôi có nhiều vấn đề muốn thảo luận cùng ông,” tôi nói thêm.
“Tôi cũng vậy,” ông ta đồng ý. “Chúng ta sẽ trò chuyện trong bữa ăn tối.”
Tôi cần nói chuyện với người tài xế của mình, vì vậy chúng tôi quay lại khu phế tích nhà tù. Tôi bảo anh ta rằng nhà khảo cổ được tu viện cho mượn một chiếc thuyền nhỏ, ông ta có thể chèo thuyền đưa chúng tôi vào bờ và sẽ nhờ người chủ quán ăn tìm thuê hộ phòng cho chúng tôi. Georgescu thu xếp đồ đạc và cho các cậu bé phụ việc về nghỉ, chúng tôi quay trở lại nhà thờ đúng lúc cha tu viện trưởng và ba vị tu sĩ của ông ta, cũng mặc quần áo tuyền một màu đen, tiến vào nhà thờ qua các cánh cửa điện thờ. Hai trong số ba tu sĩ đã già, nhưng người còn lại dáng đi vẫn còn mạnh mẽ, bộ râu vẫn còn màu nâu. Họ chầm chậm đi vòng đến trước bệ thờ, cha tu viện trưởng đi trước dẫn đường, trong tay là một cây thánh giá và một quả cầu. Chiếc áo choàng vàng và đỏ tía phủ lên đôi bờ vai đã còng xuống vì tuổi tác, rực sáng dưới ánh nến.
Các tu sĩ cúi đầu phủ phục xuống nền đá phía trước bệ thờ - tôi để ý thấy chỉ ngay phía trước ngôi mộ trống rỗng. Trong khoảnh khắc, tôi có cảm giác kinh hoàng là họ không cúi lạy bệ thờ mà là mộ của Kẻ Xiên Người.
Đột nhiên một âm thanh kỳ quái vang lên; dường như âm thanh đó xuất phát từ ngay trong nhà thờ, loang ra khỏi các bức tường và mái vòm như một làn sương. Họ đang cầu nguyện. Tôi cố không nghển cổ nhìn vào chính điện phía trong khi cha tu viện trưởng bước qua cánh cửa nhỏ phía sau bệ thờ và mang ra một cuốn sách lớn có bìa nhiều màu, làm dấu chúc phúc trong khoảng không phía trên cuốn sách. Ông ta đặt nó lên bệ thờ. Một trong các tu sĩ trao cho ông một bình hương có gắn một sợi xích dài nhỏ; ông ta đong đưa bình hương trên cuốn sách, một làn khói thơm tỏa ra bao phủ lấy nó. Khắp chung quanh chúng tôi, phía trên và phía sau và phía dưới, dậy lên tiếng nhạc linh thiêng, âm thanh ong ong rù rì, lên bổng xuống trầm. Tôi chợt nổi da gà, nhận ra bấy giờ mình đã cận kề trái tim của đế chế Byzantine hơn nhiều so với lúc còn ở Istanbul. Tiếng nhạc xa xưa và nghi thức kèm theo hẳn đã chẳng hề thay đổi từ khi chúng được cử hành cho vị hoàng đế ở thủ đô Constantinople.
“Buổi lễ kéo dài rất lâu,” Georgescu thì thầm bên tai tôi. “Chúng ta có chuồn đi thì họ cũng không để ý đâu.” Ông ta lấy trong túi áo ra một cây nến, châm vào bấc một cây đèn trong giá đèn gần lối vào rồi cắm nó vào bình cát bên dưới.
Tại quán ăn nhỏ tí và cáu bẩn bên hồ, chúng tôi ăn ngon lành món xa lát và thịt hầm do một cô gái rụt rè ăn mặc kiểu dân quê phục vụ. Có nguyên một con gà và một chai vang đỏ loại mạnh mà Georgescu uống một cách thoải mái. Tay tài xế dường như đã đánh bạn được với vài người trong nhà bếp, vì vậy chỉ có hai người chúng tôi đơn độc trong căn phòng ốp gỗ này, nhìn ra quang cảnh đang mờ dần của hồ nước và hòn đảo.
Khi đã ăn uống no say, tôi hỏi nhà khảo cổ học về vốn liếng tiếng Anh tuyệt vời của ông. Ông bật cười dù miệng còn đầy thức ăn. “Đó là nhờ cha mẹ tôi, cầu xin linh hồn họ được an nghỉ bên Chúa,” ông trả lời. “Cha tôi là một nhà khảo cổ Scotland, một nhà nghiên cứu chuyên về thời kỳ Trung cổ, và mẹ tôi là người Scotland gốc Gypsy. Tôi lớn lên tại Fort William và làm việc với cha cho đến khi ông mất. Sau đó một số bà con của mẹ tôi đã yêu cầu bà cùng về quê họ ở Rumani. Mẹ tôi ra đời và lớn lên tại một làng ở miền Tây Scotland, nhưng khi cha tôi qua đời, bà chỉ muốn rời bỏ nơi đó. Anh biết đấy, gia đình bên cha tôi đã đối xử với bà không mấy tử tế. Vì vậy, bà đã mang tôi về đây khi tôi được mười lăm tuổi, và tôi đã sống ở đây từ lúc đó. Khi chúng tôi đến đây, tôi đã lấy họ của mẹ tôi. Để hòa nhập tốt hơn ấy mà.”
Câu chuyện đời của ông đã khiến tôi phải lặng im một lúc, ông lại nở nụ cười tươi. “Tôi biết đó là một câu chuyện kỳ lạ. Còn chuyện đời của anh như thế nào?”
Tôi kể tóm tắt với ông ta về cuộc đời và công việc nghiên cứu của mình, về việc đã sở hữu cuốn sách bí ẩn kia. Ông cau mày lắng nghe và từ tốn gật đầu khi tôi ngừng nói. “Một câu chuyện kỳ lạ, tuy vậy chẳng có gì đáng phải nghi ngờ.”
Tôi lấy cuốn sách ra khỏi túi và trao nó cho ông ta. Georgescu cẩn thận xem xét cuốn sách và lặng nhìn bức tranh khắc gỗ ở giữa một lúc lâu. “Ừ,” ông bảo tôi, vẻ đăm chiêu. “Con rồng này rất giống với những hình ảnh có liên quan tới Giáo đoàn; tôi đã thấy một con rồng tương tự trên các món đồ trang sức - chẳng hạn như chiếc nhẫn nhỏ kia. Nhưng từ trước đến nay tôi chưa bao giờ nhìn thấy một cuốn sách như thế này. Anh biết xuất xứ của nó chứ?”
“Không,” tôi thừa nhận. “Tôi hy vọng một ngày nào đó sẽ mang nó đến - có lẽ là Luân Đôn - cho một chuyên gia xem xét.”
“Đây là một cuốn sách kỳ lạ.” Georgescu trao cuốn sách lại cho tôi. “Và bây giờ, sau khi đã nhìn thấy Snagov, anh định đến nơi nào nữa? Quay trở lại Istanbul chăng?”
“Không,” tôi trả lời, rùng mình nhưng không muốn nói với ông lý do vì sao. “Thực ra, tôi phải trở lại Hy Lạp một hai tuần để tham dự một cuộc khai quật, nhưng tôi nghĩ mình nên đến thăm Târgoviste một chút, vì đó là thủ phủ chính của Vlad. Ông đã bao giờ đến đó chưa?”
“À, vâng, lẽ dĩ nhiên,” Georgescu vét sạch bóng cái đĩa như một cậu bé đói ăn. “Đó là một địa điểm thú vị đối với bất kỳ ai săn đuổi Dracula. Nhưng thứ thực sự thú vị là tòa lâu đài của hắn kìa.”
“Lâu đài của hắn? Hắn thực sự có một tòa lâu đài sao? Ý tôi là, nó vẫn còn tồn tại hay sao?”
“Chà, bây giờ nó đã là một phế tích, nhưng là một phế tích khá hấp dẫn. Một pháo đài đổ nát. Nó cách Târgoviste vài dặm và nằm ở thượng nguồn sông Argeş, anh có thể đến đó khá dễ dàng bằng đường bộ, rồi leo bộ lên đỉnh. Dracula luôn ưa chuộng bất kỳ địa điểm nào có thể phòng thủ tốt trước quân Thổ, và đây là một vị trí yêu thích của hắn.” Ông lục tìm trong túi, lấy ra một ống điếu nhỏ bằng đất sét, và nhồi thứ thuốc lá thơm ngát vào. Tôi mồi lửa cho ông. “Cám ơn, anh bạn. Tôi bảo này - tôi sẽ đi cùng anh. Dù chỉ có thể ở lại một vài ngày, nhưng tôi có thể giúp anh tìm ra pháo đài đó. Nếu anh có một người hướng dẫn thì mọi việc sẽ dễ dàng hơn nhiều. Tôi chưa từng có thời gian thong thả ở pháo đài này, nên giờ tôi muốn thăm lại nó.”
Tôi thành thật cám ơn ông; phải thừa nhận là tôi cảm thấy không yên tâm khi nghĩ đến việc đâm đầu vào giữa lòng đất nước Rumani mà không có người thông dịch. Chúng tôi đồng ý khởi hành vào ngày hôm sau, nếu người tài xế chịu đưa chúng tôi đến tận Târgoviste. Georgescu biết một làng gần sông Argeş, nơi chúng tôi có thể ở lại với chỉ vài bảng Anh; đó không phải là ngôi làng gần pháo đài nhất, nhưng dường như Georgescu không thích đến ngôi làng gần nhất nữa vì có lần ông gần như bị xua đuổi ra khỏi đó. Chúng tôi chia tay, thân mật chúc nhau ngủ ngon, và bây giờ, bạn thân mến, tôi phải tắt đèn đi ngủ để chuẩn bị cho chuyến phiêu lưu kế tiếp mà tôi sẽ kể lại với anh sau.
Gửi đến anh lời chào thân mến nhất
Bartholomew