Truy tìm Dracula - Chương 69 phần 1

Chương 69

“Hai ngày ở Bachkovo là hai trong những ngày dài nhất cuộc đời cha. Cha muốn mau mau chóng chóng đến cái lễ hội hứa hẹn ấy ngay, muốn nó diễn ra tức thì, để chúng ta có thể đi theo một từ của bài hát đó - rồng - tới chính hang ổ của nó. Nhưng đồng thời cha cũng sợ hãi giây phút có lẽ không thể tránh khỏi kia, khi cái có thể là manh mối này tan thành mây khói, hoặc hóa ra chẳng liên quan gì cả. Helen đã cảnh báo cha là những bài dân ca vốn nổi tiếng không đáng tin cậy; nguồn gốc của chúng thường thất lạc sau hàng thế kỷ, lời hát cũng thay đổi và biến hóa, những người hát dân ca ít khi biết các bài hát xuất xứ từ đâu hoặc có từ thời nào. ‘Chính những yếu tố đó biến chúng trở thành dân ca,’ Helen vừa nói với vẻ đăm chiêu, vừa đưa tay vuốt thẳng cổ áo cha khi chúng ta ngồi ở khoảnh sân trong, đó là ngày thứ hai ở tu viện. Helen vốn ít bày tỏ những cử chỉ âu yếm như vậy, nên cha biết hẳn cô đang rất lo lắng. Mắt cha nóng ran và đầu nhức như búa bổ khi nhìn quanh khoảng sân sỏi đầy nắng mà lũ gà đang bươi móc. Đây là một chốn đẹp đẽ hiếm thấy, đối với cha nó đẹp kỳ lạ, ở đây chúng ta được chứng kiến dòng sống cứ thế trôi chảy từ thế kỷ mười một đến nay: lũ gà vẫn đang săn lùng côn trùng sâu bọ, con mèo vẫn lười biếng cuộn mình bên chân chúng ta, ánh mặt trời rực rỡ vẫn rộn ràng trên cái công trình bằng đá xinh đẹp màu trắng và đỏ bao quanh chúng ta. Nhưng cha hầu như không còn cảm nhận được vẻ đẹp đó nữa.

“Vào buổi sáng ngày thứ hai, cha thức dậy rất sớm. Cha nghĩ có lẽ mình đã nghe tiếng chuông nhà thờ ngân lên, nhưng không chắc chắn đó là thực hay chỉ là một phần của giấc mơ. Từ ô cửa sổ phòng ngủ che tấm rèm thô ráp, cha nhìn thấy bốn năm tu sĩ đang đi vào nhà thờ. Cha mặc quần áo vào - lạy Chúa, bộ quần áo đã quá dơ, nhưng cha chẳng hơi đâu mà bận tâm đến chuyện giặt giũ nữa - rồi yên lặng xuống cầu thang, bước vào sân trong. Quả thực, hãy còn quá sớm, trời mờ mờ tối, trăng đang lơ lửng trên đầu núi. Cha thoáng nghĩ đến việc vào nhà thờ rồi lừng khừng gần cánh cửa để ngỏ; từ bên trong hắt ra ánh nến, thoảng mùi thơm của sáp và hương trầm đang cháy, phần nội thất mà ban ngày tối om giờ bỗng trở nên ấm áp và mời gọi. Cha có thể nghe tiếng cầu kinh của các tu sĩ. Âm thanh u uất đó cao dần lên và xoáy vào lòng cha như một mũi dao. Có lẽ họ đã từng cầu kinh như thế này, vào một buổi sáng còn lờ mờ tối năm 1477 khi Sư huynh Kiril và Stefan cùng các tu sĩ khác bỏ lại nấm mộ của hai người bạn tử đạo - trong khu chứa hài cốt? - và lên đường băng qua những ngọn núi, bảo vệ cái vật báu trong cỗ xe. Nhưng họ đã đi theo hướng nào? Cha quay mặt về hướng Đông, rồi hướng Tây - nơi mặt trăng đang lặn xuống rất nhanh - và rồi hướng Nam.

“Một cơn gió nhẹ làm lao xao những cành đoan, và chỉ vài phút sau cha thấy tia sáng mặt trời đầu tiên ló rạng sau những triền núi xa xa và trên các bức tường tu viện. Rồi một chú gà trống cất tiếng gáy muộn màng từ một nơi nào đó trong khuôn viên tu viện. Nếu còn chút lòng dạ nào thì chắc chắn đó là một khoảnh khắc cực kỳ thú vị, một giây phút được đắm mình trong lịch sử mà cha hằng mơ ước. Cha nhận ra mình đang chậm rãi xoay một vòng, cố cảm nhận hướng Sư huynh Kiril đã đi. Có lẽ đâu đó ngoài kia là một ngôi mộ mà vị trí chính xác đã thất truyền từ quá lâu đến độ không ai còn biết gì về nó nữa. Nó có thể cách đây một ngày đi bộ, hoặc chỉ ba giờ, hoặc phải cả tuần. ‘Không còn bao xa và không còn sự cố nào nữa,’ Zacharias đã viết như vậy. Không còn bao xa là còn bao xa? Bọn họ đã đi đâu? Mặt đất đang quay cuồng - những ngọn núi rậm rạp cùng những tảng đá nhô cao bụi bặm, khoảnh sân đầy đá cuội dưới chân cha và đồng cỏ, trang trại của tu viện - nhưng tất cả vẫn câm lặng giữ kín bí mật của mình.

“Khoảng chín giờ sáng hôm đó, chúng ta khởi hành trên chiếc xe của Ranov, Sư huynh Ivan ngồi ghế trước. Chúng ta chạy trên con đường dọc sông khoảng mười cây số, rồi bỗng nhiên dòng sông dường như biến mất và con đường men theo một thung lũng dài khô cạn, uốn khúc giữa các ngọn đồi. Quang cảnh này gợi cho cha nhớ đến một điều. Cha thúc khuỷu tay vào Helen, cô cau mày nhìn cha. ‘Helen, thung lũng có dòng sông.’

“Mặt Helen sáng lên, cô vỗ vào vai Ranov. ‘Anh làm ơn hỏi Sư huynh Ivan dòng sông chảy về đâu? Chúng ta đã qua sông ở chỗ nào chưa?’

“Ranov nói mà không cần quay qua Ivan rồi dịch lại cho chúng ta. ‘Ông ta nói ở đây dòng sông đã khô cạn - bây giờ nó đã ở phía sau chúng ta, lúc ta băng qua cây cầu mới đây. Ngày xưa nơi này từng là thung lũng có sông, nhưng giờ thì nước ở đây đã khô cạn rồi.’ Helen và cha im lặng nhìn nhau. Phía trước chúng ta, ở cuối thung lũng, cha nhìn thấy hai đỉnh núi vút lên, hai ngọn đơn độc giống như đôi cánh góc cạnh. Và ở giữa hai đỉnh núi, tít đằng xa, chúng ta có thể nhìn thấy các ngọn tháp của một nhà thờ nhỏ. Helen bỗng nắm chặt tay cha.

“Một lát sau, chúng ta quẹo lên một con đường đất dẫn vào một vùng đồi bằng phẳng, theo biển chỉ dẫn đến một ngôi làng tên Dimovo. Rồi con đường hẹp lại và Ranov dừng xe trước nhà thờ, mặc dù chưa thấy cái làng Dimovo ấy ở đâu cả.

“Nhà thờ Thánh Tử Đạo Petko bé tí xíu, một nhà nguyện trát vữa dãi dầu mưa nắng, nằm lẻ loi giữa một bãi đất trống có lẽ được sử dụng để phơi cỏ cuối vụ mùa. Hai cây sồi cong cong phủ bóng phía trên nhà thờ, kế bên là một kiểu nghĩa địa mà cha chưa từng thấy bao giờ - mộ của các nông dân, một số có ghi ngày chôn cất từ thế kỷ mười tám, Ranov giải thích với vẻ mặt hãnh diện. ‘Đó là truyền thống, thậm chí ngày nay vẫn có nhiều địa điểm như vậy, dành để chôn cất những người lao động nông thôn. Bia mộ hoặc bằng đá hoặc bằng gỗ, có mái che hình tam giác phía trên, nhiều cái còn có một ngọn đèn nhỏ dưới chân. ‘Sư huynh Ivan cho biết sau mười một giờ rưỡi buổi lễ mới bắt đầu,’ Ranov lên tiếng khi chúng ta lừng khừng ở đó. ‘Bây giờ, người ta đang sửa soạn nhà thờ. Ông ấy sẽ đưa ta đến gặp Baba Yanka trước, sau đó ta sẽ quay lại xem buổi lễ.’ Gã nhìn chúng ta chăm chú, tựa như để đoán xem chúng ta quan tâm đến điều gì nhất.

“ ‘Chuyện gì đằng kia vậy?’ Cha trỏ một nhóm người đang làm việc trên cánh đồng kế bên nhà thờ. Một số đang kéo các khúc gỗ và cành cây lớn xếp thành một đống, trong khi những người khác xếp gạch hoặc đá chung quanh. Họ đã thu nhặt rất nhiều vật liệu từ trong rừng.

“ ‘Sư huynh Ivan nói đó là dành để đốt lửa. Lúc trước tôi chưa nhớ ra, nhưng sẽ có màn đi trong lửa nữa đấy.’

“ ‘Đi trong lửa ư!’ Helen thốt lên.

“ ‘Đúng vậy,’ Ranov trả lời. ‘Các bạn biết tục lệ này chứ? Nó rất hiếm thấy tại Bungari thời hiện đại, thậm chí càng hiếm thấy hơn ở miền này của đất nước. Tôi mới chỉ nghe nói về tục đi trong lửa ở vùng Biển Đen. Nhưng đây là một khu vực nghèo khó và mê tín đị đoan mà Đảng vẫn đang đầu tư phát triển. Tôi chắc chắn những việc như thế này rốt cuộc cũng sẽ bị loại trừ.’

“ ‘Em cũng nghe nói đến tục này.’ Helen quay sang cha. ‘Nó là một phong tục của dân ngoại giáo, và đã trở thành tục lệ của người Thiên Chúa giáo vùng Balkan khi người dân ở đây cải đạo. Thường không phải đi mà là nhảy múa. Em rất vui vì chúng ta sẽ được chứng kiến một sự kiện như thế này.’

“Ranov nhún vai, dẫn chúng ta hướng về phía nhà thờ, nhưng ngay sau đó cha nhìn thấy một trong những người đang làm việc quanh đống củi bỗng chồm tới châm lửa. Đống củi nhanh chóng bắt lửa, bùng lên, lan rộng và bắt đầu gầm gào. Đống củi khô chẳng khác gì bùi nhùi và chẳng mấy chốc đã bốc lên đến đỉnh, cháy rừng rực. Thậm chí cả Ranov cũng đứng sững. Cánh đàn ông vừa chất đống củi ấy lùi lại vài bước, rồi thêm vài bước nữa, và đứng lại chùi hai tay vào quần. Ngọn lửa đã đạt đến mức cao nhất, bùng lên mãnh liệt, gần như cao ngang với mái ngôi nhà thờ gần bên, nhưng vẫn ở khoảng cách an toàn. Chúng ta nhìn ngọn lửa ngốn dần cái đống củi khổng lồ cho đến khi Ranov lại ngoảnh đi. ‘Họ sẽ để nó cháy vài giờ đồng hồ và tự lụi tàn,’ gã nói. ‘Giờ thì ngay cả những kẻ mê tín nhất cũng chả dám vào đó nhảy múa nữa.’

“Khi chúng ta bước vào nhà thờ, một người đàn ông trẻ, hình như là vị cha xứ, bước đến chào chúng ta. Ông ta cười vui vẻ, bắt tay chúng ta, rồi Sư huynh Ivan và ông ta cúi chào nhau một cách thân mật. ‘Ông ta nói rất vinh dự đón các bạn ở đây trong ngày lễ thánh,’ Ranov lạnh nhạt dịch lại.

“ ‘Nói với ông ấy là chúng tôi cũng hân hạnh được chứng kiến lễ hội này. Anh có thể hỏi ông ấy Sveti Petko là ai không?’

“Vị cha xứ giải thích Thánh Petko là một người tử đạo ở địa phương, bị người Thổ giết vì từ chối bỏ đạo trong thời gian xứ này bị chiếm đóng. Thánh Petko là cha xứ của nhà thờ trước đây ở địa điểm này, nhà thờ đó bị bọn Thổ đốt cháy, và ngay cả khi nhà thờ đã bị phá hủy ông ấy vẫn cự tuyệt không chấp nhận đức tin Hồi giáo. Sau đó, người ta xây nhà thờ này, di hài của ông được mai táng trong hầm mộ cũ. Ngày nay, vẫn có nhiều người đến quỳ ở đó. Ảnh thánh đặc biệt của ông, cùng hai ảnh thánh đầy quyền năng khác sẽ được rước quanh nhà thờ và đi băng qua đống lửa. Đây là Thánh Petko, được vẽ trên bức tường trước nhà thờ - vị cha xứ trỏ vào bức bích họa phai màu phía sau, một gương mặt râu ria chẳng khác gì ông ta. Chúng ta hãy quay lại tham quan nhà thờ khi ông ta đã chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng. Hoan nghênh chúng ta đến xem toàn bộ buổi lễ và nhận phước lành của Thánh Petko. Chúng ta không phải là những người hành hương đầu tiên từ xứ sở khác đến đây và được làm vơi bớt bệnh tật, đau đớn. Vị cha xứ mỉm cười ngọt ngào với chúng ta.

“Qua Ranov, cha hỏi liệu ông ta đã từng nghe nói đến một tu viện có tên là Sveti Georgi. Vị cha xứ lắc đầu. ‘Tu viện gần nhất là Bachkovski,’ ông trả lời. ‘Thỉnh thoảng tu sĩ từ những tu viện khác cũng ghé đến đây trên đường hành hương, vào những năm… lâu lắm rồi.’ Cha hiểu câu ấy nghĩa là việc hành hương có lẽ đã chấm dứt từ khi người cộng sản nắm quyền cai trị, và thầm ghi nhớ điều này để hỏi Stoichev khi trở về Sofia.

“ ‘Tôi sẽ nhờ ông ấy tìm hộ Baba Yanka,’ một lúc sau Ranov lên tiếng. Vị cha xứ biết chính xác căn nhà Baba Yanka. Ông ta rất muốn đi cùng chúng ta, nhưng nhà thờ vừa đóng cửa hàng tháng trời - ông ta chỉ đến đây vào các ngày lễ - vì vậy ông và người phụ lễ hãy còn quá nhiều việc phải làm.

“Ngôi làng nằm trong một lòng chảo ngay phía dưới đồng cỏ nơi nhà thờ tọa lạc, và đó là cộng đồng nhỏ bé nhất mà cha gặp kể từ khi đến với cái khối phương Đông này: không hơn mười lăm mái nhà túm tụm lại với nhau một cách gần như là sợ hãi, những cây táo và vườn rau mơn mởn trồng quanh rìa làng, con đường đất chỉ vừa đủ rộng cho một chiếc xe ngựa chạy ở giữa, một giếng nước cổ với một cây cột gỗ và chiếc xô treo lủng lẳng trên cột. Cha ngạc nhiên vì sự thiếu vắng tuyệt đối của thời hiện đại và nhận ra mình đang kiếm tìm những dấu vết của thế kỷ hai mươi. Dường như thế kỷ này chưa xuất hiện ở nơi đây. Vậy nên cha có cảm giác như bị phản bội khi thấy một xô nhựa trắng trong sân bên hông một ngôi nhà đá. Những ngôi nhà này như mọc trồi lên từ đống đá xám, lớp vữa ở tầng trên chắc vừa được trát vội vào sau, mái lợp bằng loại ván lợp phẳng màu xám đen. Vài căn còn phô trương kiểu trang trí tường gạch khung gỗ thanh nhã cổ kính, trông thân quen như một làng quê mang phong cách kiến trúc Tudor.

“Khi chúng ta bước vào một con đường trong làng Dimovo, mọi người ra khỏi nhà hoặc chuồng gia súc để chào hỏi chúng ta - chủ yếu là các ông già bà lão, nhiều người trong số họ do lao động nặng nhọc nên gầy giơ xương đến mức hầu như không thể tin được, đám phụ nữ thì thô kệch với kiểu đi chữ bát, cánh đàn ông thì lưng khom về phía trước tựa như luôn phải vác trên lưng một cái bao vô hình trĩu nặng. Nước da họ nâu, má đỏ hây hây - họ cười và thốt lên những lời chào hỏi, cha thoáng thấy những cái lợi trống trơn không còn răng hoặc ánh kim loại lấp lánh trong vòm miệng. Cha nghĩ ít ra họ còn biết đi chữa răng dù thực khó hình dung việc đó được thực hiện ở đâu và như thế nào. Một vài người bước đến cúi chào Sư huynh Ivan, ông làm dấu thánh ban phước lành và có vẻ như đang hỏi han bọn họ đôi điều. Chúng ta đi đến nhà Baba Yanka giữa một đám người vây quanh, người trẻ nhất có lẽ cũng phải đến bảy mươi, dù sau này Helen nói rằng những nông dân này có lẽ trẻ hơn cả hai chục tuổi so với bề ngoài của họ.

“Nhà của Baba Yanka rất nhỏ, hầu như chỉ là một túp lều tranh, nặng nề tựa vào một chuồng gia súc nhỏ. Chính bà cũng đi nhanh ra cửa trước để xem có chuyện gì xảy ra; vật đầu tiên trên người bà đập vào mắt cha là vuông khăn quàng đầu in hoa đỏ rất nổi bật, kế đến là chiếc váy yếm tạp dề kẻ sọc. Bà nhòm ra cửa nhìn chúng ta, và gật đầu lia lịa khi vài dân làng gọi to tên bà. Da mặt bà có màu gỗ, mũi và cằm nhọn, đôi mắt - khi chúng ta đến càng lúc càng gần hơn - hình như có màu nâu, nhưng đã bị che khuất bởi những nếp nhăn.

“Ranov gọi bà - cha chỉ có thể hy vọng đó không phải là một mệnh lệnh hoặc một câu bất kính - và sau khi nhìn đăm đăm chúng ta một lát, bà đóng cánh cửa gỗ lại. Chúng ta yên lặng chờ bên ngoài, và khi cửa lại mở ra cha nhận thấy bà không nhỏ bé như cha đã hình dung; bà cao đến vai Helen, ánh mắt vui vẻ dù gương mặt vẫn còn vẻ thận trọng. Bà hôn tay Sư huynh Ivan, và thoạt tiên có vẻ bối rối khi chúng ta bắt tay bà. Sau đó bà xua chúng ta vào nhà tựa như chúng ta là một bầy gà có thể chạy mất.

“Bên trong nhà rất tồi tàn, nhưng sạch sẽ, và cha chợt thấy thoáng mủi lòng khi nhận ra bà trang trí căn nhà đơn sơ của mình bằng một lọ hoa dại tươi tắn, đặt trên một cái bàn xập xệ, trầy xước. Ngôi nhà của mẹ Helen giống như một dinh thự so với gian nhà xập xệ gọn gàng, với một cái thang đóng vào tường làm lối đi lên gác này. Cha tự hỏi Baba Yanka còn có thể leo trèo cái thang kia bao lâu nữa, nhưng khi nhìn bà di chuyển quanh phòng với vẻ nhanh nhẹn đầy sinh lực, cha dần nhận ra là bà thực sự chưa già. Helen gật đầu khi cha thì thầm với cô nhận xét trên. ‘Năm mươi, có lẽ vậy,’ cô thì thầm đáp lại.

“Phỏng đoán của Helen làm cha rất ngạc nhiên. Bà nội con ở Boston đã năm mươi hai tuổi, vậy mà trông như thể là cháu gái của người phụ nữ này. Đôi bàn tay Baba Yanka chỉ toàn xương chẳng khác gì đôi chân gầy gò của bà; cha nhìn bà mang ra những chiếc đĩa phủ vải, đặt ly cốc trước mặt chúng ta mà thầm hỏi bà đã làm gì với đôi bàn tay kia suốt cả đời để chúng ra đến nông nỗi đó. Đốn cây, có lẽ vậy, bửa củi, gặt hái mùa màng, làm việc trong giá buốt hoặc giữa trời nắng chang chang. Bà liếc trộm chúng ta một hai lần trong lúc làm việc, mỗi lần liếc kèm theo một nụ cười, và sau cùng rót cho chúng ta một loại đồ uống gì đó - một thứ nước màu trắng, sền sệt - mà Ranov nốc cạn ngay rồi gật đầu với bà trong khi chùi miệng bằng khăn tay. Cha bắt chước gã, nhưng thứ nước đó làm cha suýt chết; nó âm ấm và rõ ràng có mùi đặc trưng của sàn chuồng gia súc. Cha cố không nôn ra trước mặt mọi người trong lúc Baba Yanka nhìn cha với ánh mắt tán thưởng. Helen bình thản uống ly của mình, và Baba Yanka vỗ vỗ lên tay cô. ‘Sữa cừu pha nước lã,’ Helen nói với cha. ‘Anh cứ xem nó như sữa lắc là xong.’

“ ‘Bây giờ tôi sẽ đề nghị bà ta hát,’ Ranov nói với chúng ta. ‘Đó là điều các bạn mong muốn, đúng chứ?’ Gã trao đổi với Sư huynh Ivan một lúc, rồi ông này lại quay qua Baba Yanka. Người phụ nữ lùi lại, gật đầu lia lịa. Không, bà ta sẽ không hát; rõ ràng bà ấy không muốn hát. Bà ra dấu về phía chúng ta rồi giấu hai tay dưới tấm tạp dề. Nhưng Sư huynh Ivan rất kiên trì.

“ ‘Chúng tôi sẽ yêu cầu bà ấy hát bất kỳ bài nào bà ấy muốn trước,’ Ranov giải thích. ‘Sau đó các bạn có thể đề nghị bài mình quan tâm.’

“Baba Yanka dường như đã chịu nhượng bộ, cha tự hỏi phải chăng toàn bộ sự phản kháng của bà là một hình thái khiêm tốn, bởi bà đã lại mỉm cười. Bà thở dài, xốc lại vai dưới chiếc áo cánh sờn rách in hoa đỏ. Bà nhìn chúng ta bằng ánh mắt chân thật và mở miệng cất tiếng hát. Âm thanh vang lên nghe ấn tượng lạ lùng; thoạt tiên nó vang to một cách đáng kinh ngạc, đến độ không chỉ làm ly cốc trên bàn rung lanh canh mà còn khiến những người đứng bên ngoài cánh cửa để ngỏ - có vẻ như một nửa cái làng này đang tụ tập ngoài kia - thò đầu vào nhìn. Âm thanh đó rung lên từ các vách tường, từ dưới chân chúng ta và làm những dây tỏi ớt lắc lư trên chiếc lò vỡ. Cha kín đáo nắm tay Helen. Âm điệu đầu tiên đã làm chúng ta xúc động, rồi một âm điệu khác, mỗi âm điệu kéo dài và rền rĩ, mỗi âm điệu là một tiếng gào khóc vì cùng cực và tuyệt vọng. Cha chợt nhớ đến cô thôn nữ thà gieo mình xuống vách đá cao ngất chứ không chịu bị bắt vào hậu cung của tên quan tổng trấn, và tự hỏi phải chăng bài hát này diễn tả nội dung tương tự. Điều kỳ lạ là Baba Yanka lại mỉm cười trong mỗi giai điệu, hít mạnh không khí vào phổi, tươi cười nhìn chúng ta. Chúng ta sững sờ im lặng lắng nghe cho đến lúc bà đột ngột dừng hát; âm điệu cuối cùng như vẫn còn ngân vang mãi trong gian nhà nhỏ bé.

“ ‘Làm ơn nhờ bà ấy nói với chúng tôi về lời bài hát,’ Helen nói.

“Bằng sự cố gắng thấy rõ - nhưng cũng không làm nụ cười tắt trên môi - Baba Yanka thuật lại lời bài hát để Ranov dịch.

Vị anh hùng nằm chết trên đỉnh núi xanh.

Vị anh hùng nằm chết với chín vết thương bên sườn.

Ôi, chim ưng, hãy bay đến báo cho chàng, rằng dân của chàng vẫn yên lành.

Yên lành trong những ngọn núi, nhân dân của chàng.

Vị anh hùng đã bị chín vết thương bên sườn,

Nhưng chính vết thương thứ mười đã giết chết chàng.