Điểm dối lừa - Chương 055 - 056 - 057 - 058

Chương 55

Trong khi Delta-Ba còn đang dừng lại để nhặt xác của Norah Mangor và gom chiếc xe trượt, hai người lính còn lại liền tăng tốc trượt xuôi dốc băng nhằm bám theo con mồi.

Chân họ đi giày trượt hiệu Elektro Tread. Được chế tạo theo mô hình thanh trượt có động cơ Fast Trax, đây là loại giày trượt đặc dụng cho vùng băng tuyết có gắn xích loại nhỏ - loại xích của những chiếc xe chạy vùng băng tuyết vẫn được lắp bao quanh bánh xe. Tốc độ được điều chỉnh bằng cách ép ngón tay trỏ và tay cái vào nhau, tác động lên hai đĩa tốc độ được gắn trong găng tay bên phải. Một loại pin bằng gel lỏng được đúc trong giày, bao quanh chân, vừa làm tăng độ cách ly lại vừa cho phép người sử dụng có thể trượt cách rất êm. Đặc biệt là lượng điện sản ra bởi trọng lực của chân và bởi tốc độ quay của chiếc xích khi người trượt di chuyển xuôi dốc sẽ được tích lại trong pin để dùng cho lần leo dốc tiếp theo.

Khom người, giữ thẳng hướng với gió katabatic, Delta-Một vừa di chuyển vừa quan sát địa thế sông băng. Cặp kính nhìn xuyên bóng tối mà anh đang đeo khác rất xa loại kính dùng ban đêm Patriot của cánh lính thuỷ quân lục chiến. Anh đang quan sát địa vật bằng chiếc kính không gọng có những thấu kính sáu phần tử cỡ 40 x 90 mm, thấu kính phóng đại ba phần tử Doubler. Cảnh vật bên ngoài hiện lên với tông màu lam đục lạnh lẽo thay vì màu xanh lá cây như thường lệ - tông màu này đã được chọn lựa kỹ càng cho những địa hình có độ phản chiếu ánh sáng cao như vùng Bắc Cực này.

Đến gần ụ tuyết thứ nhất, kính xuyên đêm của Delta-Một cho thấy hình ảnh vài vệt xước mới nguyên trên mặt băng chạy dọc lên đỉnh ụ tuyết như những mũi tên bằng nê ông trong bóng đêm. Rõ ràng là ba kẻ trốn chạy kia đã không nghĩ đến chuyện tháo bỏ chiếc dù tạm thời của họ, hoặc là đã không thể làm được việc đó. Nếu vượt qua ụ tuyết thứ ba mà họ vẫn chưa tháo được dù ra thì chắc chắn lúc này họ đã ở đâu đó ngoài đại dương rồi. Delta-Một biết những bộ quần áo bảo hộ họ mặc trên người có thể kéo dài cuộc sống của họ trong môi trường nước, nhưng dòng hải lưu chảy xiết sẽ cuốn họ ra ngoài đại dương. Chết đuối là không thể tránh khỏi.

Dù rất tự tin, Delta-Một đã được huấn luyện thói quen không dựa vào suy đoán của mình. Anh phải nhìn thấy xác chết. Cúi thấp người xuống, anh ấn chặt ngón trỏ và ngón cái phải vào nhau, trượt lên con dốc đầu tiên.

Michael Tolland nằm im không nhúc nhích, mình mẩy đau ê ẩm.

Dù bị quật lên quật xuống, ông tin là mình chưa bị gãy cái xương nào. Dĩ nhiên là nhờ có bộ quần áo Mark IX này ông mới tránh được những vết thương chí tử. Mở to mắt, phải mất một lúc ông mới tập trung được suy nghĩ của mình. Mọi thứ ở chỗ này có vẻ êm đềm hơn… yên tĩnh hơn Gió vẫn hú, nhưng mãnh lực thì kém hơn nhiều.

Chẳng phải cả nhóm đã lao xuống vực rồi hay sao?

Cố thu hết tinh lực, ông nhận thấy mình đang nằm trên mặt băng, mình vắt ngang qua người Rachel, gần như tạo thành một góc vuông, những chiếc khoá móc ở thắt lưng của cả hai người đều bị vặn xoắn. Cảm nhận được hơi thở của Rachel ngay bên dưới, nhưng ông không thể nhìn thấy mặt cô. Ông lăn người sang một bên, nhưng các cơ bắp không chịu nhúc nhích.

- Rachel này… - Ông không biết chắc mình có nói được thành tiếng hay không nữa.

Tolland nhớ lại những giây phút cuối cùng trong cuộc trượt băng chí tử của nhóm - quả khinh khí cầu kéo họ lên dốc, rồi dây néo đứt, cả ba rơi thẳng xuống con dốc thoải bên kia ụ tuyết, rồi trượt qua ụ tuyết cuối cùng, trượt tiếp đến mép sông băng - rồi không còn thấy mép băng đâu nữa. Rachel và Tolland rơi tự do, nhưng cú ngã của họ ngắn lạ thường. Thay vì rơi thẳng xuống biển, họ chỉ rơi xuống khoảng ba mét và ngã xuống một phiến băng thấp hơn, rồi do có trọng lượng của Corky làm lực cản nên mới dừng lại được.

Lúc này, Tolland cố ngóc cổ lên để nhìn mặt biển. Cách đó không xa là một vách băng dựng đứng - điểm tận cùng của phiến băng, ông nghe thấy tiếng ào ạt của biển từ dưới vọng lên. Quay lại sau lưng, ông căng mắt nhìn trong bóng đêm, cố thu nhận vào đồng tử hình ảnh cửa dòng sông băng. Mắt ông bắt gặp hình ảnh một bức tường băng dựng đứng cách họ khoảng sáu, bảy mét. Đến lúc này thì Tolland nhận thức được những gì vừa xảy ra. Họ vừa trượt từ phiến băng chính xuống một mặt băng thấp hơn. Tảng băng này rất phẳng, to bằng sân chơi hockey, đã sụp một phần - và có thể trượt xuống biển khơi bất cứ lúc nào.

Sự ra đời của những núi băng trôi, Tolland thầm nghĩ và quan sát mặt băng chênh vênh trước mắt. Đó là một phiến băng lớn và bằng phẳng hình tứ giác gắn vào sông băng như cái ban công khổng lồ, ba bề giáp với biển. Sau lưng họ, một cạnh của tảng băng gắn với sông băng, và Tolland thấy sự gắn kết này không hề bền vững chút nào. Ranh giới giữa tảng băng này với phiến băng Milne là một vết nứt rộng hoác với bề ngang khoảng hơn một mét. Trọng lực sắp sửa chiến thắng trong cuộc chơi này.

Nhưng vết nứt kinh hãi đó vẫn chẳng là gì so với cảm giác hãi hùng khi thấy thân thể của Corky Marlinson bất động nằm co quắp trên băng. Corky nằm cách ông mười mét, vẫn được nối với ông bằng sợi dây như ban nãy.

Tolland gượng đứng dậy, nhưng người ông vẫn còn bị buộc chặt vào Rachel. Xoay người, ông gắng sức tháo những chiếc móc gài đang buộc chặt thắt lưng của họ vào nhau.

Rachel nhỏm người, cố ngồi dậy, trông rất yếu, giọng ngơ ngác:

- Chúng ta không rơi xuống à?

- Chúng ta ngã xuống một khối băng thấp hơn. - Tolland nói, cuối cùng thì cũng tháo được những cái móc gài ra. - Phải xem xem Corky thế nào.

Nhức nhối khắp mình mẩy, Tolland cố đứng dậy, nhưng đôi chân quá yếu ớt ông túm sợi dây và ra sức kéo. Corky bắt đầu trượt về phía họ. Kéo được khoảng mươi nhịp thì Corky đã nằm trên băng, cách họ khoảng một mét.

Trông Corky Marlinson thật thảm hại. Kính bảo hộ, đã văng mất, má rách toạc, mũi bê bết máu. Tolland sợ rằng nhà cổ sinh vật này đã chết, nhưng ngay lập tức ông thấy yên dạ khi ông ta lăn người và trợn ừng mắt giận dữ.

- Lạy Chúa tôi. - Corky lắp bắp. - Thế này là thế nào?

Tolland thấy nhẹ cả người.

Lúc này Rachel đã ngồi được dậy, mặt nhăn nhó vì đau. Cô nhìn quanh.

- Chúng ta phải thoát ra khỏi chỗ này. Trông khối băng này như sắp rơi xuống đến nơi…

Tolland hoàn toàn đồng ý. Nhưng vấn để là bằng cách nào.

Họ chẳng có thời gian mà lựa chọn giải pháp: Trên đầu họ, trên phiến băng cao, nghe có tiếng vo vo. Tolland ngẩng phắt lên, nhìn thấy hai bóng áo trắng nhẹ nhàng trượt đến sát mép băng rồi cùng dừng lại. Họ đứng đó một lúc, nhìn ba con mồi thảm bại bên dưới với ánh mắt của những đấu thủ cờ vua hau háu nhìn đối phương trước khi tung đòn tối hậu.

Delta-Một ngạc nhiên thấy ba kẻ trốn chạy kia vẫn còn sống. Tuy nhiên, anh biết rằng đây chỉ là trong điều kiện tạm thời. Họ đã ngã xuống một khối băng sắp sửa tách ra rồi rơi xuống biển. Đội của anh có thể khống chế và giết những người này theo cùng một kiểu với người đàn bà kia, nhưng một giải pháp sạch sẽ hơn nhiều vừa nảy ra trong óc anh. Bằng cách đó thì xác của họ sẽ không bao giờ được tìm thấy. Quan sát khối băng thấp đó, Delta-Một nhận thấy một vết nứt rộng đang há ra như một cái nêm lớn được chêm vào giữa phiến băng chính và khối băng thấp. Tảng băng lớn mà ba kẻ kia vừa rơi xuống trông rất nguy hiểm… Nó có thể rơi xuống đại dương bất kỳ lúc nào.

Thế thì sao không rơi luôn lúc này…

Trên phiến băng vĩnh cửu Milne, chốc chốc lại có tiếng nổ đinh tai nhức óc xé tan màn đêm thanh vắng - tiếng những khối băng lớn nứt tách ra khỏi sông băng và rơi xuống biển. Ai mà để ý đến những tiếng nổ này cơ chứ?

Cảm thấy lượng adrelanine trong máu lại tăng mạnh như những lần chuẩn bị ra tay hạ sát con mồi, Delta-Một thò tay vào túi dụng cụ và lấy ra một vật nặng hình quả chanh. Được chế tạo riêng cho các đội đặc nhiệm, vật này có tên là "Vụ nổ sáng loà" - loại lựu đạn gây chấn động mạnh "không sát thương" nhằm tạm thời đánh lạc hướng đối phương bằng cách tạo ra một luồng sáng chói loà đi kèm với những sóng chấn động đinh tai nhức óc. Tuy nhiên, đêm nay, Delta-Một biết chắc rằng "Vụ nổ chói loà" sẽ giết chết đối phương.

Anh đứng sát mép vực và băn khoăn không hiểu vết nứt kia sâu đến đâu. Bảy mét ư? Điều đó không quan trọng. Vết nứt nông hay sâu thì kế hoạch của anh vẫn cứ thành công.

Với sự điềm tĩnh có được sau vô số lần ra tay hạ sát đối tượng, Delta-Một chỉnh kim đồng hồ hẹn giờ đến mốc mười giây trên quả lựu đạn kéo chốt, rồi ném vào trong khe nứt. Quả lựu đạn rơi vào khe nứt tối sẫm rồi biến mất.

Sau đó. Delta-Một và đồng đội của anh lui về tận ụ tuyết và đợi. Sắp có một cảnh rất đáng xem. Dù tâm trí rối bời.

Rachel Sexton biết rất rõ hai kẻ kia vừa ném vật gì xuống khe nứt. Không biết Tolland cũng biết vật đó hay chỉ nhìn thấy ánh mắt sợ hãi của cô mà ông tái mặt, hoảng hốt nhìn tảng băng lớn dưới chân họ, rõ ràng đã nhận ra tình thế tuyệt vọng của cả nhóm.

Giống như ánh chớp loé lên từ giữa đám mây trong đêm giông bão, một luồng sáng chới loé lên từ sâu trong lớp băng dưới chân Rachel. Những tia sáng trắng kỳ lạ toả ra tứ phía. Trong phạm vi một trăm mét quanh họ, con sông băng chợt sáng loà. Tiếp đến là cơn chấn động. Không phải thứ tiếng nổ ì ầm của động đất mà là luồng sức mạnh khiến người ta váng óc, buốt ruột. Đợt sóng chấn động từ sâu trong tảng băng ấy lan truyền khắp thân thể Rachel.

Ngay lập tức, như thể có ai vừa chêm một cái nêm lớn vào giữa sơn băng và tảng băng lớn nơi họ đang ngồi, những tiếng nứt gãy hãi hùng vang lên. Rachel và Tolland nhìn nhau khiếp sợ. Corky kêu thét lên.

Đáy khối băng vỡ toác ra.

Trong một tích tắc, phiến băng nặng ngàn cân rơi xuống, Rachel thấy mình trong trạng thái không trọng lượng. Rồi sau đó, cả ba người rơi tõm xuống mặt biển lạnh giá cùng với khối băng.

Chương 56

Băng cọ vào băng nghe lộng óc, khối băng khổng lồ từ phiến băng Milne đâm thẳng xuống biển, làm toé lên những cột nước lớn. Đập mạnh vào mặt nước, khối băng giảm tốc độ, cơ thể đang trong trạng thái không trọng lượng của Rachel bị đập mạnh vào mặt băng. Tolland và Corky cũng rơi xuống ngay gần đó.

Theo đà, khối băng chìm sâu xuống nước. Rachel thấy trong mắt mình mặt biển ngầu bọt dâng ngược lên, giống như người ưa mạo hiểm buộc dây vào chân để nhảy từ trên cầu xuống, nhưng sợi dây lại quá dài. Dâng lên…, dâng lên nữa… và thế là… Cơn ác mộng thuở nhỏ bỗng chốc hiện ra. Băng tuyết…, nước…, bóng tối.

Kinh hoàng tột độ.

Mặt trên của khối băng bị nhấn chìm xuống dưới mực nước, và những luồng nước lạnh giá của Bắc Băng Dương chảy ùa vào từ mọi phía. Nước biển táp mạnh vào cơ thể Rachel, rồi bủa vây cô tứ phía. Vùng da mặt không được bộ quần áo bảo hộ che chở rát như bị bỏng. Khối băng tiếp tục chìm xuống thêm nữa, Rachel cố ngoi lên mặt nước, lớp đệm gel lúc này như một chiếc phao.

Nước mặn xộc vào mồm, nhưng giờ cô đã nổi được trên mặt nước.

Hai người kia cũng đang lóp ngóp quanh cô, sợi dây vẫn buộc họ vào nhau. Ngay khi Rachel vừa nổi hẳn lên trên mặt nước thì Tolland đã hét lớn.

- Nó lại nổi lên đấy!

Ông chưa dứt lời, Rachel đã cảm thấy những luồng nước rất mạnh đẩy từ dưới lên. Như đầu máy xe lửa khổng lồ giảm tốc độ rồi đổi hướng, khối băng lớn đã giảm hẳn tốc độ trong lòng nước, lúc này đang nổi dần lên ngay dưới chân họ. Cách mặt biển vài mét, tiếng ì oạp, ầm ì vọng lên. Khối băng khổng lồ đang trồi lên.

Nó trồi lên rất nhanh, như lao lên từ bóng đêm. Rachel bị nâng bổng lên. Nước xáo động mạnh, mặt trên của khối băng đã chạm người cô. Rachel chới với, cố hết sức giữ thăng bằng, khối băng tròng trành trồi dần lên, đẩy Rachel lên, cùng cả ngàn ga-lông nước biển. Vừa trồi lên, khối băng vừa lắc lư, tròng trành, như thể đang tìm xem tâm trọng lực của nó ở điểm nào. Rachel loạng choạng đứng trên mặt băng rộng mênh mông, nước cao đến ngang bụng. Khi nước bắt đầu rút khỏi mặt băng, dòng chảy xiết cuốn phăng cô ra tận ngoài rìa. Trượt trong tư thế nằm sấp, cô thấy mép tảng băng đang đến tiến sát vào người.

- Cố lên! Giọng nói của mẹ cô vang lên y như thuở nào, lúc cô vẫn còn bé đang thì thụp trong cái hồ đóng băng. Cố lên, đừng để bị chìm!

Bị giật mạnh ngang thắt lưng, chút không khí cuối cùng còn lại trong hai lá phổi của Rachel cạn kiệt. Còn cách mép phiến băng vài mét, cô quẫy mạnh người và dừng lại được. Cách đó khoảng mười mét, Corky cũng vừa dừng lại như cô, thân thể nát nhừ. Mỗi người bị cuốn khỏi mặt băng theo một hướng khác nhau, và nhờ có lực đà của ông mà cô dừng lại được. Nước rút đi rất nhanh, và một bóng đen khác xuất hiện ngay gần Corky. Bò lồm cồm, tay bám chặt, sợi dây buộc vào thắt lưng Corky, miệng nôn thốc ra toàn nước biển.

Michael Tolland.

Luồng nước cuối cùng đã thoát xuống khỏi mặt phiến băng, Rachel kinh hãi nằm bất động, nghe những âm thanh của biển. Sau đó cảm thấy băng giá buốt đến tận cổ, cô nhổm người lên. Tảng băng khổng lồ vẫn đang lắc qua lắc lại như viên nước đá khổng lồ trong cốc. Đau đớn, cuồng loạn, cô bò về phía hai người kia.

Trên cao, trên đỉnh phiến băng, Delta-Một dùng kính nhìn xuyên đêm để quan sát nước biển cuộn xoáy quanh tảng băng trôi mới nhất của Bắc Băng Dương. Không nhìn thấy người nào trong nước, nhưng anh không hề ngạc nhiên. Nước biển tối sẫm. Còn các nạn nhân của anh thì mặc quần áo và đội mũ màu đen.

Căng mắt, anh cố nhìn rõ khối băng lớn đang nổi lềnh bềnh. Rất nhanh, nó đang trôi ra xa theo luồng hải lưu thềm lục địa.

Đã định chuyển hướng quan sát xuống mặt biển, anh chợt trông thấy ba đốm màu đen trên mặt băng. Xác của họ đó sao? Delta-Một căng mắt nhìn.

- Cậu có thấy gì không? - Delta-Hai hỏi.

Delta-Một không nói gì, tay điều chỉnh kính phóng đại. Trong ánh sáng mờ ảo hắt lên từ mặt băng, anh kinh ngạc trông thấy ba người nằm bất động. Không thể biết họ còn sống hay đã chết. Và cũng không cần phải biết. Nếu còn sống thì vài giờ nữa họ sẽ chết, dù mặc trên người bộ quần áo vi khí hậu kia; cả ba đều bị ướt, trời lại sắp nổi giông bão, và họ đang trôi dạt ra vùng biển đáng sợ nhất trên trái đất. Không một ai có thể tìm thấy xác của họ.

- Chỉ có vài bóng đen thôi. - Delta-Một quay người đáp. - Quay về căn cứ, nào!

Chương 57

Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton đặt ly rượu Courvoisier trên bệ lò sưởi trong căn hộ của ông tại khu chung cư Westbrooke, vừa cho than vào lò vừa trầm ngâm suy nghĩ. Sáu người đàn ông cùng ở trong phòng với ông đều đang im lặng, chờ đợi Những câu chuyện phiếm đều đã kết thúc, giờ là lúc Thượng nghị sĩ phải tung ra khẩu hiệu quảng cáo cho bản thân mình. Họ biết thế. Ông cũng biết thế.

Làm chính trị cũng giống như đi chào hàng.

Cần phải gây dựng lòng tin. Cho họ thấy là mình hiểu vấn đề của họ.

- Chắc các vị cũng biết, - ông quay về phía họ và nói, mấy tháng nay tôi đã gặp rất nhiều người trong tình cảnh giống như các vị.

Ông mỉm cười, ngồi xuống cùng với họ.

- Các vị là những người duy nhất mà tôi mời đến nhà riêng. Các vị đều là những người xuất chúng, vì thế tôi lấy làm vinh hạnh được làm quen.

Sexton khoanh tay trước ngực, đưa mắt nhìn khắp phòng, nhìn thẳng vào mắt từng vị khách một. Sau đó, ông tập trung vào đối tượng đầu tiên - người đàn ông dáng bệ vệ đội mũ cao bồi.

- Công ty Vũ trụ Houston, - Ông nói - tôi rất mừng vì ông đã đến.

Ông già Texas đó càu nhàu:

- Tôi ghét cái thành phố này.

- Tôi không trách ông về điều đó. Thành phố này đã đối xử với ông một cách bất công.

Ông già đội mũ đó chằm chằm nhìn Sexton nhưng không nói gì.

- Cách đây 12 năm, - Sexton bắt đầu nói, - Ông đã đưa ra một đề nghị đối với Chính phủ. Ông muốn xây cho họ một sân bay vũ trụ với mức giá chỉ năm triệu đô la.

Đúng thế. Tôi vẫn còn giữ bản kế hoạch chi tiết đây.

- Ấy thế nhưng NASA đã thuyết phục được Chính phủ rằng sân sân bay vũ trụ của Hoa Kỳ phải là một dự án của NASA.

- Đúng thế. Họ bắt tay xây dựng sân bay đó cách đây gần chục năm.

- Một thập niên. Và không những sân bay vũ trụ đó chưa thể đi vào hoạt động toàn bộ, mà nó đã ngốn mất số tiền nhiều gấp 20 lần mức giá ông đưa ra. Là người dân đóng thuế, tôi phát sợ.

Tiếng xì xào tán thưởng nổi lên trong phòng. Sexton lần lượt nhìn thẳng vào mắt từng vị khách.

- Tôi cũng biết rằng, - ngài Thượng nghị sĩ nói tiếp. - một số công ty của các vị đây đã đưa ra giá năm mươi triệu đô la cho một lần phóng vệ tinh nhân tạo lên quỹ đạo.

Một số người gật đầu.

- Ấy thế nhưng NASA đã nẫng tay trên của quý vị bằng cách chào mức giá có ba mươi tám triệu đô một lần phóng…, mặc dù giá thật của mỗi lần phóng lên tới 150 triệu!

- Bằng cách đó họ đã ngăn cản chúng tôi tiến vào vũ trụ. - Một người lên tiếng. - Các công ty tư nhân không thể cạnh tranh nổi khi họ chấp nhận mức giá lỗ tới bốn trăm phần trăm, nhưng vẫn có thể tiếp tục kinh doanh.

- Các vị cũng không cần phải cạnh tranh theo kiểu đó.

Tất cả đều gật gù.

Lúc này Sexton quay sang nhà kinh doanh dáng khắc khổ bên cạnh mình, ông đã đọc tài liệu về ông ta một cách rất say sưa.

Giống đa số những doanh nghiệp đang tài trợ cho Sexton, nhà quân sự này vì ngán ngẩm mức lương ba cọc ba đồng và tệ quan liêu của Chính phủ nên đã từ bỏ sự nghiệp quân sự để kinh doanh trong lĩnh vực vũ trụ.

- Công ty Kistler, - Sexton lắc đầu buồn bã và nói - công ty của các vị đã thiết kế và chế tạo những tên lửa có khả năng vận chuyến hàng hoá lên vũ trụ với giá chỉ hai ngàn đô la một pound, so với mức giá mười ngàn đô la của NASA. - Ông ngừng một lát để lời nói có thêm trọng lượng. - Ấy thế nhưng vẫn không tìm được khách hàng nào cả.

Làm sao mà tôi có nổi khách hàng. - Ông ta đáp. - Tuần trước NASA vừa ăn chặn của tôi bằng cách chào giá với Motorola có tám trăm mười hai đô la để phóng một vệ tinh viễn thông. Trên thực tế Chính phủ đã làm vụ đó với mức lỗ lên tới chín trăm phần trăm!

Sexton gật đầu. Những người đóng thuế đang phải nai lưng ra mà bao cấp cho một tổ chức có hiệu suất thấp bằng một phần mười các đối thủ cạnh tranh của nó.

- Thật đau lòng. - Ông thấp giọng nói - rằng NASA đang cố sức kìm hãm sự cạnh tranh trong lĩnh vực vũ trụ. Họ hất cảng các công ty tư nhân ra bằng cách cung cấp dịch vụ với mức giá thấp hơn giá thị trường.

- Đó chính là trò Wal-Mart trong vũ trụ, chứ còn gì nữa. - Người đàn ông Texas nói.

Sự giống nhau đáng ghét, Sextơn thầm nghĩ. Mình phải nhớ lấy điều này. Wal-Mart từng khét tiếng về chiến thuật thâm nhập thị trường mới bằng cách bán dưới giá, và tiêu diệt hết các doanh nghiệp địa phương.

- Tôi thấy quá mệt mỏi, - người đàn ông Texas lại nói tiếp - vì cứ phải trả hết tỉ này đến tỉ khác tiền thuế để Chính phủ có đủ tiền nẫng tay trên các khách hàng của tôi!

- Tôi biết, - Sexton nói - và rất thông cảm với ông.

- Chính vì không được nhận tài trợ nên Rotary Rocket đang chết dần. - Người đàn ông ăn mặc rất chỉnh tề, nói. - Luật cấm tài trợ chẳng qua là bộ luật giết người!

- Tôi hoàn toàn tán thành. - Sexton đã từng vô cùng ngạc nhiên khi biết rằng NASA cũng đã bảo vệ sự độc quyền của họ bằng cách vận động Chính phủ thông qua bộ luật cấm dùng các phương tiện vận tải vũ trụ cho mục đích quảng cáo. Bộ luật đó cấm các công ty tư nhân nhận tiền từ các nhà tài trợ cũng như các hợp đồng quảng cáo logo - giống như cách các tay đua xe chuyên nghiệp vẫn thường làm - các phương tiện vận tải trên vũ trụ chỉ được phép có chữ U.S.A, và tên công ty chế tạo. Ở một quốc gia mà doanh thu từ quảng cáo lên tới 185 tỉ đô la mỗi năm, các công ty vũ trụ tư nhân không thu nổi một xu từ lĩnh vực này.

- Đó là hành động cướp bóc! - Một người lên tiếng. - Tôi dự định duy trì hoạt động của công ty cho đến tháng năm, khi chúng tôi có thể phóng thử mô hình tên lửa du lịch đầu tiên của cả nước. Và hi vọng nhận được rất nhiều tiền từ quảng cáo. Nike đã đề nghị tài trợ cho chứng tôi những bảy triệu đô la để hình chiếc giày của họ kèm theo khẩu hiệu "Hãy xốc tới! - được in trên vỏ quả tên lửa đó.

Pepsi đưa ra số tiền nhiều gấp đôi như thế cho dòng chữ "Pepsi: sự lựa chọn của tương lai". Nhưng theo luật Liên bang, nếu in hình quảng cáo thì quả tên lửa đó bị cấm phóng lên!

- Đúng thế! - Thượng nghị sĩ Sexton nói. - Và nếu đắc cử thì tôi sẽ tìm cách huỷ bỏ điều luật cấm tài trợ đó. Tôi xin hứa như vậy. Từng inch trên mặt đất đều được tận dụng để quảng cáo và vũ trụ cũng nên như thế.

Lúc này Sexton đưa mắt nhìn thính giả của mình, nhìn sâu vào mắt từng người một, nói một cách trang trọng. - Tuy nhiên, phải nói rằng trở ngại chính trong công cuộc tư hữu hoá NASA không phải là các đạo luật mà chính là hình ảnh của nó trong lòng công chúng.

Hầu hết dân Mỹ vẫn giữ trong lòng hình ảnh đầy thi vị và đẹp đẽ về chương trình vũ trụ của Hoa Kỳ. Họ vẫn tin rằng NASA là một bộ phận cần thiết của Chính phủ.

- Chẳng qua là tại mấy bộ phim chết tiệt đó của Hollywood! - Một người nói. - Hollywood đã làm không biết bao nhiêu bộ phim kiểu NASA cứu nguy cho trái đất khi bị một sao Chổi tấn công. Họ tuyên truyền bằng cách ấy đấy!

Những bộ phim về NASA được chiếu nhan nhản khắp nơi, Sexton biết, chẳng qua là vì lí do kinh tế. Sau thành công vang dội của bộ phim "Súng ngắn siêu hạng" do Tom Cruise thủ vai chính, có tác dụng quảng bá mạnh mẽ cho Hải quân Mỹ - NASA nhận thấy rằng Hollywood rất có tiềm năng trở thành bộ phận quan hệ công chúng đặc biệt hữu hiệu. Thế là họ bắt đầu cho phép các nhà làm phim sử dụng cơ sở vật chất của NASA mà không cần phải trả tiền - các bệ phóng, dàn thiết bị điều khiển, các cơ sở luyện tập. Vốn quen phải chi những khoản tiền khổng lồ để thuê địa điểm mỗi khi bấm máy bên ngoài trường quay, các nhà sản xuất phim chớp ngay lấy cơ hội để tiết kiệm cho ngân quỹ của mình hàng tỷ đô la, họ sản xuất những bộ phim hành động về NASA. Dĩ nhiên chỉ sau khi NASA thông qua kịch bản thì Hollywood mới được sử dụng địa điểm của họ mà không mất tiền.

- Đấy là thủ đoạn nhồi sọ công chúng, - Một người khác làu bàu. - Những bộ phim đó chẳng là gì so với những tiểu xảo của NASA để lấy lòng dân chúng. Đưa một công dân nào đó lên vũ trụ ư? Hiện giờ họ định đưa một phi hành đoàn toàn là nữ lên quỹ đạo ư? Toàn những thủ đoạn tuyên truyền!

Sexton thở dài, càng nói giọng ông càng trở nên khúc chiết.

- Đúng vậy, không cần phải nhắc chắc các vị cũng nhớ một sự kiện xảy ra hồi cuối những năm tám mươi. Khi đó Bộ Giáo dục bị khủng hoảng ngân sách và quay sang buộc tội NASA là đã phung phí nhiều triệu đô la đáng ra phải được chi cho giáo dục. Thế là NASA bày trò làm ra vẻ quan tâm đến giáo dục. Họ đưa một cô giáo dạy phổ thông lên vũ trụ. - Sexton ngừng một lát.

- Các vị còn nhớ Christa McAuliffe chứ?

Căn phòng chìm trong yên lặng.

- Thưa các vị. - Sexton nói, dừng bước bên lò sưởi. - Tôi tin là đã đến lúc người Mỹ hiểu ra sự thật, vì tương lai của toàn nước Mỹ. Đã đến lúc người Mỹ phải hiểu ra rằng NASA chẳng hề giúp chúng ta tiến vào vũ trụ, thực ra nó đang gây cản trở cho việc thăm dò vũ trụ. Vũ trụ cũng là một ngành kinh doanh như mọi ngành khác, và ngăn cản không cho các công ty tư nhân tham gia vào là có tội. Cứ nhìn ngành công nghiệp máy tính mà xem, đơn vị thời gian của những tiến bộ và những thay đổi là từng tuần một! Vì sao ư? Bởi vì chúng ta áp dụng cơ chế thị trường tự do ở đó: Hiệu suất làm việc và tầm nhìn xa trông rộng được đền đáp bằng lợi nhuận. Giả sử Chính phủ vẫn đang độc chiếm ngành này xem, chắc giờ chúng ta vẫn phải lóp ngóp trong tăm tối. Ngành vũ trụ của chúng ta đang đình trệ. Chúng ta nên chuyển giao công cuộc thăm dò vũ trụ sang cho thành phần kinh tế tư nhân, vì nó thuộc về họ. Rồi người Mỹ sẽ phải kinh ngạc khi chứng kiến sự tăng trưởng, khi thấy nhiều chỗ làm mới được tạo ra và những giấc mơ của họ trở thành hiện thực. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên để cơ chế thị trường tự do giúp người Mỹ vươn lên tầm cao mới trong vũ trụ. Nếu đắc cử, tôi sẽ nỗ lực hết sức nhằm khai thông mọi bế tắc, và mở rộng cửa thị trường vũ trụ.

Sexton nâng cao ly rượu Cognac trong tay.

- Thưa các vị, hôm nay các vị đã tới đây để xem tôi có xứng đáng với lòng tin của quý vị hay không. Hy vọng rằng những gì tôi vừa thể hiện đã gây dựng được lòng tin đó. Cần phải có các nhà đầu tư thì mới có các công ty; tương tự như thế, phải có các nhà đầu tư thì mới có chiếc ghế Tổng thống. Cũng giống như các cổ đông trông chờ cổ tức, các nhà đầu tư chính trị như các vị trong đợi cơ hội làm ăn. Thông điệp mà tối nay tôi muốn chuyển đến các vị là rất đơn giản: Hãy tài trợ cho tôi, tôi sẽ không quên các vị Không bao giờ. Chúng ta có những ước nguyện giống nhau và cùng chung một mục đích.

Sexton cụng ly với cả nhóm.

- Với sự giúp đỡ của các vị, tôi sẽ nhanh chóng trở thành chủ nhân Nhà Trắng… Còn các vị sẽ vươn tới bầu trời.

Cách đó vài mét, Gabrielle Ashe sững sờ đứng trong bóng tối. Từ trong phòng vọng ra tiếng cụng ly lách cách cùng với tiếng lửa cháy lép bép trong lò.

Chương 58

Hoảng hốt, chàng kỹ thuật viên trẻ của NASA lao như tên bắn trong bán sinh quyển. Vừa xảy ra sự kiện hãi hùng! Anh tìm thấy ông Giám đốc Ekstrom đứng một mình gần khu báo chí.

- Báo cáo Giám đốc, - anh hổn hển nói - vừa có tai nạn!

Ekstrom quay lại, ánh mắt xa xăm, như thể đang đắm chìm trong những âu lo nào đó.

- Cậu nói gì? Tai nạn à? Ở đâu?

- Ở hố trục vớt tảng thiên thạch. Một cái xác vừa nổi lên. Tiến sĩ Wailee Ming.

Sắc mặt Ekstrom không hề thay đổi.

- Tiến sĩ Ming à. Nhưng mà..

- Chúng tôi vớt được ông ấy lên, nhưng quá muộn. Ông ấy mất rồi.

- Lạy Chúa, ông ấy ngã xuống đó được bao lâu rồi?

- Chắc là khoảng một tiếng đồng hồ. Có lẽ ông ấy trượt chân xuống đó, chìm xuống tận dưới đáy, đến khi cơ thể đã trương lên thì mới nổi lên.

Nước da đỏ au của Ekstrom trở thành đỏ tía.

- Quỷ tặc! Còn ai biết chuyện này nữa?

- Không ai cả. Mỗi hai chúng tôi thôi ạ. Vừa vớt ông ấy lên, chúng tôi nghĩ là nên báo cáo Giám đốc trước đã…

- Các cậu làm thế là đúng. - Ekstrom thở hắt ra nặng nhọc. - Giấu kín ngay xác tiến sĩ Ming, không nói gì hết.

Anh chàng kỹ thuận viên bối rối.

- Nhưng, thưa Giám đốc, tôi…

Ekstrom đặt bàn tay to bè lên vai chàng kỹ thuật viên:

- Cậu nghe tôi nói này. Đây là một tai nạn đáng tiếc, chẳng ai mong muốn điều này. Dĩ nhiên là sẽ đến lúc tôi phải lo chuyện hậu sự cho ông ấy một cách tươm tất. Tuy nhiên, bây giờ chưa phải lúc.

- Tức là bây giờ phải giấu kín cái xác ạ?

Đôi mắt Bắc Âu lạnh lẽo của Ekstrom cụp xuống.

- Cậu nghĩ mà xem. Nói cho mọi người biết cũng được thôi, nhưng làm thế thì được cái gì? Chỉ còn một giờ nữa là cuộc họp báo bắt đầu. Loan báo rằng có tai nạn chết người sẽ phủ bóng đen lên phát kiến của chúng ta và làm ảnh hưởng đến không khí chung. Tiến sĩ Ming đã bất cẩn; và tôi không định để NASA trả giá cho điều đó. Các nhà khoa học dân sự ở đây đã được chú ý quá nhiều. Tôi không có ý định để cho một sai lầm ngu ngốc của họ phủ bóng đen lên vinh quang chung của mọi người. Tai nạn của tiến sĩ Ming phải được giữ kín đến hết cuộc họp báo. Cậu có hiểu không?

Chàng kỹ thuật viên gật đầu, mặt tái xám.

- Tôi sẽ giấu kín xác ông ấy.