Điểm dối lừa - Chương 085 - 086 - 087

Chương 85

Pickering có thể gây chuyện, Tench đã nói vậy.

Quá đắm chìm trong chuỗi suy tư, Giám đốc Ekstrom không nhận thấy rằng cơn bão đang mạnh lên từng phút trên dòng sông băng. Những sợi dây néo bị kéo căng rền rĩ to hơn, và các nhân viên của NASA đang tán gẫu vì không ai ngủ được. Nhưng tâm trí của Ekstrom đang bận bịu với cơn bão khác - cơn giông tố chính trị đang hình thành ở Washington. Những giờ vừa rồi thật là lắm sự kiện, và ông đã một mình đường đầu. Nhưng lúc này, một vấn đề khác liên quan đến nhiều người hơn đã nảy sinh.

Pickering có thể gây chuyện.

Trên thế gian này, có lẽ không một bộ óc nào có thể sánh ngang tầm với ông, trừ Pickering. Bao năm nay ông ta đã giày vò NASA tìm mọi cách can thiệp vào các vấn đề nội bộ của NASA, vận động hành lang để giành quyền ưu tiên trong rất nhiều điệp vụ, và lớn tiếng công kích tất cả những thất bại của họ.

Ông biết, Pickering căm ghét NASA từ rất lâu, trước vụ nổ tên lửa đẩy của NASA phá huỷ hoàn toàn vệ tinh SIGNT trị giá bạc tỉ của NRO, hay quyết định tuyển dụng nhân sự cấp cao của NASA.

Thái độ không bằng lòng của Pickering đối với NASA là cả một câu chuyện dài tạo nên bởi những thất vọng và giận dữ.

Tàu vũ trụ X33 của NASA đã hoạt động lâu hơn thời hạn định trước những năm năm, khiến cho hàng chục chương rình bảo dưỡng và phóng thiết bị mới của NRO bị huỷ bỏ hoặc hoãn lại. Mới đây cơn cáu giận của Pickering về tàu vũ trụ X-33, chuyển thành cơn thịnh nộ khủng khiếp khi ông ta phát hiện ra rằng NASA đã huỷ bỏ dự án ấy, gây thiệt hại khoảng 900 triệu đô la.

Ekstrom về đến phòng làm việc của mình. Ông kéo rèm cửa, bước vào trong. Ông sắp phải cân nhắc vài quyết định. Ngày hôm nay, sau bước khởi đầu tốt đẹp, đang dần chuyển thành một cơn ác mộng. Ông cố đặt mình vào địa vị của Pickering để suy nghĩ. Ông ta sẽ hành động thế nào đây? Một người có đầu óc như Pickering chắc chắn phải nhận thức được tầm quan trọng của phát kiến này.

Ông ta sẽ phải chấp nhận một số vấn đề vặt vãnh nảy sinh ngoài dự kiến ông ta phải thấy được những tác động ghê gớm của việc làm hỏng giây phút vinh quang này.

Pickering sẽ làm gì sau khi thu thập được thông tin? Liệu ông ta có thẳng tay bắt NASA phải trả giá cho những thiếu sót ấy hay không?

Ekstrom rên rỉ, điều này thì ông không còn nghi ngờ gì nữa.

Rốt cuộc thì những khúc mắc của Pikering đối với NASA quả là vô cùng sâu sắc… Đó là những chua chát của cá nhân ông ta…

Những khúc mắc sâu sắc hơn những vấn đề chính trị này nhiều.

Chương 86

Rachel ngồi yên lặng, dõi nhìn ra ngoài cửa sổ của chiếc phi cơ G4 đang đưa cả nhóm về phương nam, ngang qua bờ vịnh St. Lawrence thuộc địa phận Canada. Cạnh cô, Tolland đang chuyện trò với Corky. Dù phần lớn các chỉ số cho thấy tảng thiên thạch là thật chi tiết mà Corky vừa thừa nhận, rằng hàm lượng nickel trong chất đá của nó nằm ngoài khoảng trung bình đã một lần nữa nhen lên trong tâm trí Rachel những nghi ngờ ban đầu. Bí mật khoan thủng phiến băng từ phía dưới để đưa tảng đá vào trong lòng băng là một âm mưu hoàn hảo.

Dù sao thì những bằng chứng khoa học vẫn chỉ ra rằng đó đích thực là một tảng thiên thạch.

Rachel thôi không nhìn ra ngoài nữa, cô cúi xuống nhìn mẫu đá đang cầm trên tay. Những chrondrule bé tí phản quang lóng lánh. Corky và Tolland đã thảo luận về những chrondrule bé nhỏ này hồi lâu, họ nhắc đến những thuật ngữ khoa học nằm ngoài phạm vi hiểu biết của cô - mức độ olivine cân bằng, chất nền siêu bền, những biến dạng đã tái đồng nhất. Nhưng kết luận thì rất rõ: Corky và Tolland đều thống nhất quan điểm cho rằng những chrondrule là bằng chứng chắc chắn chứng minh cho nguồn gốc vũ trụ của tảng đá. Dữ liệu đó thì không thể làm giả được.

Xoay xoay mẫu đá mỏng trong lòng bàn tay, ngón tay của Rachel chạm vào lớp vỏ bị cháy sém. Lớp vỏ nóng chảy trông rất mới - chẳng có vẻ gì là đã được ba trăm tuổi cả - mặc dù Corky đã giải thích rằng trong suốt thời gian đó, tảng thiên thạch bị bao kín trong băng đá và không chịu bất kỳ ảnh hưởng nào của bầu khí quyển. Có vẻ rất logic. Rachel đã thấy trên tivi những xác người bị chôn kín trong băng bốn ngàn năm mà nước da vẫn gần như hoàn hảo.

Chăm chăm nhìn lớp vỏ bị nóng chảy, một ý nghĩ chợt loé lên trong trí não Rachel - một dữ liệu hiển nhiên đã bị bỏ sót. Cô tham tự hỏi không hiểu người ta đã cố ý làm vậy khi giải thích với cô về tảng đá, hay chỉ là một sơ suất vô tình.

Cô đột ngột quay sang hỏi Corky:

- Mọi người đã kiểm tra niên đại của lớp vỏ nóng chảy này chưa?

Corky nhìn cô bối rối:

- Cái gì?

- Đã có ai kiểm tra niên đại của lớp vỏ bị cháy chưa? Chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng lớp vỏ này được tạo ra cùng thời điểm với sự kiện Junger Fall hay không?

- Rất tiếc, - Corky trả lời, - cái đó thì không thể xác định được. Oxy đã mài mòn sạch dấu vết các chất đồng vị. Đấy là chưa kể đến tỉ lệ giảm chất đồng vị phóng xạ rất thấp đã không cho phép xác định bất kỳ vật gì với niên đại dưới năm trăm năm.

Rachel ngẫm nghĩ trong giây lát, giờ thì cô đã hiểu vì sao không ai nhắc đến niên đại của lớp vỏ cháy sém.

- Như thế có nghĩa là lớp vỏ này có thể bị nóng chảy từ thời Trung Cổ, hoặc mới tuần vừa rồi, đúng thế không?

Tolland cười khà khà:

- Có ai dám khẳng định là khoa học đã trả lời được mọi câu hỏi đâu!

Rachel nói thành tiếng những suy nghĩ của mình:

- Chỉ cần nung ở nhiệt độ cao là sẽ có một lớp vỏ bị nóng chảy. Về mặt kỹ thuật thì lớp vỏ này có thể xuất hiện vào bất kỳ thời điểm nào trong vòng nửa thế kỷ qua, bằng nhiều cách khác nhau.

- Sai rồi. - Corky đáp. - Nung nóng bằng nhiều cách khác nhau ư? Không đâu. Chỉ bằng một cách mà thôi. Cọ xát vào bầu khí quyển.

- Không có cách nào khác à? Thế còn trong lò nung thì sao?

- Lò nung? - Corky nói. - Chúng tôi đã dùng kính hiển vi điện tử để soi lớp vỏ bị nóng chảy này. Ngay cả lò nung sạch sẽ nhất hành tinh này cũng vẫn để lại cặn nhiên liệu trên mặt đá - phóng xạ hạt nhân hoá chất, nhiên liệu hoá thạch. Quên khả năng đó đi. Lại còn các sọc dọc do rơi qua tầng khí quyển nữa chứ. Trong lò nung thì sao có cái đó được?

Corky lắc đầu:

- Lớp vỏ nóng chảy này quá tinh khiết.

Rachel nhìn sang Tolland. Nhà đại dương học gật đầu:

- Tiếc là tôi có hiểu biết đôi chút về núi lửa, cả trên cạn lẫn dưới nước. Corky nói đúng đấy. Trong tro bụi của núi lửa có rất nhiều độc tố - dioxyt carbon, dioxit sunfur, sunfat hydro, acide chlohydric - tất cả những thứ đó sẽ hiện rõ mồn một trong kính hiển vi điện tử. Buộc phải thừa nhận rằng lớp vỏ nóng chảy này là kết quả của quá trình ma sát với bầu khí quyển tinh khiết.

Rachel thở dài, lại đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. "Nóng chảy tinh khiết". Những ngôn từ ấy cứ bám chặt lấy tâm trí cô. Rachel lại quay sang Tolland.

- Nóng chảy tinh khiết có nghĩa là sao?

Ông nhún vai:

- Đơn giản là khi soi bằng kính hiển vi điện tử. không phát hiện được dấu vết nào của nhiên liệu hoá thạch, nên người ta kết luận rằng nhiệt lượng tạo ra nóng chảy chỉ có thể là kết quả của năng lượng tạo ra do động lực chứ không phải do hoá chất hay các nguyên liệu hạt nhân.

- Nếu không có vết tích của nhiên liệu thì người ta sẽ tìm thấy cái gì? Thành phần cụ thể của lớp vỏ nóng chảy này là gì?

Corky lên tiếng:

- Chúng tôi tìm thấy đúng những thứ đang chủ đích tìm. Những thành phần của bầu không khí tinh khiết. Ni tơ, oxy hydro… Không nhiên liệu hoá thạch, không sunfur, không acide núi lửa. Không có gì đặc biệt cả. Chỉ toàn những chất tạo ra trong quá trình tảng thiên thạch rơi trong bầu khí quyển mà thôi.

Rachel ngả người trên ghế, cố tập trung suy nghĩ.

Corky nhoài người về phía cô.

- Xin cô đừng nói với tôi là cô đang nghĩ đến chuyện NASA đưa một tảng đá có hoá thạch lên trên trời bằng tên lửa đẩy, sau đó ném ùm xuống mặt đất với hi vọng là không một ai nhìn thấy quả cầu lửa rơi xuống, hay nghe thấy vụ nổ khủng khiếp, hay nhìn thấy cái hố khổng lồ mà nó tạo ra.

Rachel chưa nghĩ xa đến thế, nhưng quả thật đó cũng là một khả năng. Tuy không thực tế, nhưng rất hấp dẫn. Thực ra, những ý nghĩ trong đầu cô gần mặt đất hơn nhiều. Tất cả những thanh phần tự nhiên của khí quyển. Nóng chảy tinh khiết. Những vằn sọc do rơi tự do trong bầu khí quyển. Một tia sáng le lói vừa tắt ngấm trong tâm trí Rachel.

- Thành phần của khí quyển mà anh nhìn thấy ở tảng đá này, - cô nói - có trùng khớp hoàn toàn với tất cả những tảng thiên thạch khác hay không?

Dường như Corky có ý thoái thác câu hỏi này:

- Cô nói gì cơ?

Nhận thấy thoáng phân vân của Corky, tim Rachel đập rộn lên.

- Tỉ lệ đó không trùng khớp, đúng thế không?

- Có thể giải thích chi tiết đó một cách khoa học.

Mạch Rachel đập dồn:

- Anh có tình cờ nhận thấy bất kỳ thành phần nào có tỉ lệ khác thường không?

Tolland và Corky chột dạ nhìn nhau.

- Có đấy, nhưng mà… - Corky nói.

- Có phải tỉ lệ hydro bị ion hoá không?

Nhà vũ trụ học trố mắt kinh ngạc:

- Làm sao cô biết được điều đó?

Ánh mắt của Tolland cũng đầy kinh ngạc.

Rachel nhìn thẳng vào họ:

- Thế tại sao không ai nói gì với tôi?

- Vì có một cách giải thích hết sức khoa học cho chỉ tiết đó. - Corky dõng dạc.

- Tôi đang nghe đây. - Rachel nói.

- Tỉ lệ hydro bị ion hoá quả là có cao hơn. - Ông ta nói tiếp. - Bởi vì tảng thiên thạch này rơi xuyên qua vùng khí quyển của Cực Bắc. Và điều kiện từ trường đặc trưng của vùng này đã tạo ra tỉ lệ khí hydro bị ion hoá hơi cao hơn bình thường.

Rachel nhíu mày:

- Tiếc rằng tôi lại có một cách giải thích khác.

Chương 87

Hành lang lầu bốn của NASA trông không ấn tượng như đại sảnh ở tầng một - dọc những bức tưởng đơn điệu là các cánh cửa vuông thành sắc cạnh trông buồn thảm. Hành lang không một bóng người. Những tấm biển chỉ hướng được đính trên tường.

<< LANSAT 7

TERRA >>

<< ACRIMSAT

<< JASON 1

AQUA >> PODS>>

Gabrielle đi theo hướng tấm biển đề PODS. Sau vài lần rẽ ngang rẽ dọc, cô đứng trước hai cánh cửa sắt nặng nề. Trên cửa có tấm biển:

MÁY CHỤP CẮT LỚP ĐỘ ĐẬM ĐẶC ĐỊA CỰC TRÊN QUỸ ĐẠO (PODS)

Giám đốc Dự án, Chris Harper

Cửa khoá, chỉ mở khi có thẻ ra vào và mã số PIN. Gabrielle áp tai vào cánh cửa thép. Hình như loáng thoáng có tiếng người bên trong. Tranh cãi. Cũng có thể không phải. Cô thầm cân nhắc liệu có nên đập cửa thật mạnh để gọi họ ra mở cửa hay không. Nhưng ý đồ của cô đối với tiến sĩ Harper đòi hỏi sự tinh tế hơn nhiều so với sách lược đập cửa này. Cô nhìn quanh tìm lối vào khác, nhưng không có. Chỉ thấy có một hốc tường ngay cạnh cửa ra vào. Cô bước vào, đưa mắt tìm chùm chìa khoá hay cái thẻ ra vào nào đó.

Không thấy gì. Chỉ toàn những chổi và cây lau nhà.

Gabrielle lại quay về bên cánh cửa, áp sát tai nghe ngóng. Lần này thì cô nghe rất rõ tiếng người bên trong. Mỗi lúc một to hơn. Cả tiếng bước chân nữa. Có người đang tra chìa vào ổ từ bên trong.

Khi cánh cửa bật mở, Gabrielle không kịp quay lại nấp trong hốc tường. Cô nhảy vội sang một bên, áp sát người vào tường, sau cánh cửa. Một toán người bước ra, vừa đi vừa tranh luận ầm ỹ. Họ có vẻ bực bội.

- Không hiểu Harper có vấn đề quái quỷ gì nữa. Đáng nhẽ ra ông ta phải sung sướng tột độ mới phải chứ.

- Một đêm như đêm nay, - một người khác nói tiếp khi cả nhóm đi qua ngay sát Gabrielle - thế mà ông ấy lại muốn ở một mình!

Khi nhóm người đi hết, những chiếc bản lề đệm hơi bắt đầu khép cánh cửa lại, để lộ ra Gabrielle đang đứng sát tường. Cô cố đứng im càng lâu càng tốt, cho đến khi chỉ còn vài inch nữa là cánh cửa đóng hẳn, lại. Cô nhảy bổ vào, tay chộp lấy mép cửa. Rồi Gabrielle lại tiếp tục đứng im thin thít, đợi cho bọn họ đi khuất hẳn cuối hành lang. Mải mê với đề tài bàn luận của mình, chẳng ai để ý thấy Gabrielle đang có mặt ở đó…

Tim đập thình thình, Gabrielle kéo cánh cửa mở rộng ra và bước vào trong sảnh lớn mờ tối. Cô khẽ khàng đóng cửa lại.

Đây là khu làm việc rộng rãi, khá giống phòng thí nghiệm vật lý trong trường đại học: máy tính, khu làm việc có vách quây, dụng cụ điện tử. Khi mắt đã quen với bóng tối, cô bắt đầu nhận ra những màn hình vi tính màu xanh sẫm đặt quanh phòng. Toàn bộ khu này đều tối, ngoại trừ một căn phòng ở phía cuối thấy có ánh sáng hắt ra từ dưới khe cửa. Gabrielle lặng lẽ tiến về phía đó. Cửa đóng, nhưng nhìn qua cửa sổ, cô thấy một người đang ngồi bên máy vi tính Gabrielle ngay lập tức nhận ra người đã phát biểu trong buổi họp báo của NASA. Tấm biển trên cánh cửa có ghi:

Chris Harper

Giám đốc Dự án, PODS

Đã vào đến tận đây, vậy mà Gabrielle chợt cảm thấy sợ hãi, thầm lo không hiểu có tìm ra được sự thật hay không. Cô nhớ lại thái độ quả quyết của Thượng nghị sĩ khi ông nói rằng Chris Harper đã nói dối. "Tôi có thể lấy toàn bộ sự nghiệp ra để đành cược điều này", ông đã nói thế. Dĩ nhiên là còn nhiều người khác nữa cũng có cảm giác đó, những người giờ đang trông cậy vào cô để vạch trần được sự thật, hòng trừng phạt NASA để gỡ gạc lại phần nào sau những sự kiện kinh khủng tối nay. Sau khi, bị Tench và Tổng thống Herney hù doạ một cách hèn hạ lúc chiều, cô rất nóng lòng muốn lập công.

Cô giơ tay lên định gõ cửa, rồi lại thôi. Những lời nói của Yolanda chợt vang lên trong, tâm trí. Nếu Chris Harper lừa phỉnh cả thế giới về PODS thì hà cớ gì ông ta lại thú nhận với em cơ chứ!

Sự sợ hãi, Gabrielle tự nhủ, suýt nữa thì ngày hôm nay cô đã trở thành nạn nhân của nó. Cô đã có một kế hoạch. Bao gồm chiến thuật mà Thượng nghị sĩ thỉnh thoảng vẫn dùng đến để doạ dẫm đối phương. Sau một thời gian phò tá Thượng nghị sĩ, Gabrielle đã học được khá nhiều, tuy không phải tất cả những thứ cô tiếp thu được đều thánh thiện và tốt đẹp Nhưng tối nay cô cần tất cả những thứ đó. Nếu cô có thể ép Chris Harper thừa nhận đã nói dối - bất kể vì lý do gì - thì cô đã mở được một cánh cửa cho chiến dịch tranh cử của Thượng nghị sĩ. Chỉ chừng đó là đủ, bởi với tài biến báo của mình, Sexton có thể tự lèo lái chiến dịch tranh cử qua tất cả những chặng còn lại.

Ý đồ của Gabrielle lúc này là sử dụng kế sách mà Sexton gọi là "bắn chỉ thiên" - một phương pháp thẩm vấn do những người La Mã phát minh ra để dụ cho những tên tội phạm bị tình nghi đang nói dối phải nhận tội. Một sách lược đơn giản đến không ngờ.

Khẳng định thông tin cần đối tượng thú nhận…

Sau đó buộc đối tượng vào những tội to hơn.

Mục đích là để cho đối tượng có cơ hội chọn tội nhẹ hơn - chính là sự thật trong tình huống này.

Để áp dụng phương sách này cần phải rất tự tin, mà đó chính là thứ lúc này hình như cô không có nổi. Hít một hơi thật sâu, cô duyệt lại lần nữa kịch bản trong đầu. Rồi mạnh bạo gõ cửa.

- Tôi đã bảo là đang bận! - Harper nói vọng ra, ngữ điệu Ăng-lê rất quen thuộc…

Cô lại gõ cửa. Mạnh hơn.

- Tôi đã bảo là không muốn xuống đó mà lại!

Lần này, Gabrielle đấm cửa thình thình.

Chris Harper bước ra giật mạnh cánh cửa.

- Đồ quỷ sứ, các anh… - Ông ta im bặt, ngạc nhiên trông thấy Gabrielle.

- Tiến sĩ Harper. - Gabrielle lên tiếng, cố làm ra vẻ đầy tự tin.

- Làm sao cô vào được tận đây?

Mặt Gabrielle lạnh te:

- Ông có biết tôi là ai không?

- Sao không! Sếp của cô bêu riếu chúng tôi suốt mấy tháng nay còn gì? Làm sao cô vào được tận trong này?

- Thượng nghị sĩ Sexton phái tôi đến đây.

Ông ta đưa mắt nhìn phòng thí nghiệm vắng tanh sau lưng Gabrielle.

- Ai dẫn cô lên đây?

- Cái đó ông không cần biết. Thượng nghị sĩ có rất nhiều mối quan hệ.

- Trong toà nhà này? - Ông ta ngờ vực nhìn Gabrielle.

- Ông đã xử sự không trung thực, tiến sĩ Harper ạ. Rất tiếc phải thông báo với ông là Thượng nghị sĩ đang kêu gọi thành lập một uỷ ban Thượng viện để điều tra những hành vi không trung thực của ông.

Vẻ mặt ông ta thoáng chút sững sờ.

- Cô đang nói về chuyện gì?

- Giả bộ ngây ngô là một hành động xa xỉ hoàn toàn không thích hợp với những người có đầu óc như ông đâu, tiến sĩ ạ. Ông đang gặp rắc rối, và Thượng nghị sĩ phái tôi đến đây để thoả thuận với ông một điều. Tối nay chiến dịch tranh cử của Thượng nghị sĩ đã bị giáng một đòn chí tử. Ông ấy không còn gì để mất, và rất sẵn lòng kéo luôn ông xuống đất đen cùng một thể nếu cần.

- Cô đang nói cái quái gì thế hả?

Gabrielle hít thật sâu để lấy thêm can đảm.

- Trong buổi họp báo về phần "mềm xử lý thông tin trên vệ tinh PODS", ông đã nói dối. Chúng tôi đều biết điều đó. Cho nên không cần bàn đến nữa.

Harper chưa kịp nói câu gì. Gabrielle đã tiếp tục nói phủ đầu:

- Ngay lúc này Thượng nghị sĩ có thể lôi chuyện ông nói dối ra, nhưng ông ấy không quan tâm đến điều đó. Ông ấy đang để tâm đến một sự kiện khác quan trọng hơn. Tôi tin rằng ông biết rõ tôi đang nói đến cái gì.

- Không, tôi…

- Lời đề nghị của Thượng nghị sĩ là thế này: ông ấy sẽ không đả động đến chuyện ông nói dối trong buổi họp báo nếu ông đồng ý công khai tên tuổi nhân vật chóp bu của NASA đang đồng loã với ông biển thủ công quỹ.

Hai mắt Harper mở thao láo:

- Cái gì? Tôi đâu có biển thủ công quỹ!

- Tôi tin rằng ông là người ăn nói chín chắn, thưa tiến sĩ… Uỷ ban Thượng viện đã tiến hành thu thập tài liệu từ nhiều tháng nay rồi. Chẳng lẽ ông tin là có thể giữ kín được cơ à? Dám cả gan giả mạo chứng từ của dự án PODS, dùng thủ đoạn chi tiền sai mục đích để bỏ túi tư lợi? Nói dối và tham ô sẽ khiến ông phải vào nhà đá đấy, thưa tiến sĩ Harper.

- Tôi đâu có làm chuyện đó!

- Ông bảo là không nói dối về dự án PODS hay sao?

- Không! Tôi khẳng định không hề biển thủ công quỹ?

- Có nghĩa là ông thừa nhận có nói dối về PODS?

Ông ta trợn tròn mắt, không nói nên lời.

- Hãy bỏ qua chuyện ông nói dối. - Gabrielle nói tiếp, chuyển hướng cuộc đấu khẩu. - Thượng nghị sĩ Sexton không quan tâm đến chuyện ông nói dối trong cuộc họp báo đó. Chuyện đó quá thường. NASA đã tìm thấy tảng thiên thạch, bằng cách nào thì cũng thế cả thôi. Cái ông ấy đang chú tâm chính là chuyện biển thủ công quỹ. Ông ấy muốn hạ bệ một nhân vật chóp bu ở đây. Nếu ông chịu thú nhận kẻ đồng loã với ông thì ngài Thượng nghị sĩ sẽ lái cuộc điều tra để ông không bị động đến. Nếu ông không muốn sung sướng, không chịu nói cho chúng tôi biết tên của kẻ đồng loã đó, thì Thượng nghị sĩ sẽ chẳng nương tay, và sẽ ngay lập tức cho điều tra về những lời dối trá liên quan đến phần mềm xử lý thông tin của các ông.

- Cô đừng có xạo? Chẳng có trò biển thủ nào hết!

- Ông đúng là đồ dối trá trơ trẽn, tiến sĩ Harper ạ. Tôi đã đọc tất cả các tài liệu đó. Tên của ông lù lù trên mặt giấy. Không biết bao nhiêu lần.

- Tôi thề là không hề biết gì về việc đó!

Gabrielle thở dài, làm ra vẻ thất vọng.

- Ông hãy thử đặt mình vào địa vị của tôi, tiến sĩ ạ. Trong tình thế này thì tôi chỉ có thể rút ra hai kết luận mà thôi. Hoặc là ông đang nói dối tôi, y như đã nói dối trong cuộc họp báo đó. Hoặc là ông nói thật, và nhân vật chóp bu nào đó trong cơ quan này đang dựng ông lên làm bù nhìn để che tội cho bản thân.

Câu nói ấy dường như khiến Harper tĩnh trí được đôi phần.

Gabrielle giơ tay lên xem đồng hồ.

- Thượng nghị sĩ chỉ dành cho cuộc thoả thuận này một giờ đồng hồ. Ông có cơ hội tự cứu mình bằng cách nói ra tên của nhân vật chóp bu NASA đang cùng ông biển thủ tiền thuế của dân Mỹ. Ngài Thượng nghị sĩ không quan tâm đến ông. Ông ấy muốn bắt được con cá to kia. Hiển nhiên là người thứ hai trong vụ này phải là người có vai vế ở NASA; và người đó không để tên mình chường ra trên mặt giấy, chỉ có tên ông xuất hiện như hình nhân thế mạng mà thôi.

Harper lắc đầu:

- Cô nói dối.

- Ông có muốn đứng trước toà để nói ra điều đó không?

- Sao không? Tôi sẽ phủ nhận mọi cáo buộc.

- Sau khi đã thề chỉ nói sự thật à? - Gabrielle lên giọng đầy khinh bỉ. - Chắc ông cũng sẽ lớn tiếng nói rằng không hề nói sai sự thật về phần mềm của PODS đấy nhỉ? - Vừa nhìn thẳng vào mắt ông ta, Gabrielle vừa nghe thấy tim mình đập đến vỡ cả lồng ngực. - Ông hãy lựa chọn cho kỹ, tiến sĩ ạ. Nhà tù Hoa Kỳ không phải là chốn dễ chịu lắm đâu.

Harper cũng nhìn thẳng vào mắt cô, còn Gabrielle thì cố tập trung tinh lực để khiến ông ta phải cụp mắt xuống. Trong một tích tắc Gabrielle tưởng như nhìn thấy ý định đầu hàng trong mắt ông ta. Nhưng khi Harper len tiếng, giọng ông ta sắc lạnh. điềm tĩnh.

- Cô Ashe này! - ông ta dõng dạc, mắt quắc lên giận dữ - thôi cái trò bắt nọn ấy đi. Cả tôi lẫn cô đều biết rằng ở NASA chẳng có trò biển thủ công quỹ nào hết. Kẻ duy nhất đang nói dối trong căn phòng này chính là cô đấy.

Gabrielle thấy cơ thể như hoá đá. Ánh mắt sắc lạnh của ông ta chòng chọc nhìn thẳng vào cô. Mình bày trò xảo trá trước mặt một nhà khoa học về tên lửa. Thế này là đáng đời mày lắm Gabrielle ạ. Cô cố ngẩng cao đầu.

- Tôi chỉ cần biết là, - cô làm bộ tỉnh bơ, không thèm đếm xỉa đến phản ứng của ông ta - tất cả những tài liệu mà tôi đã đọc đều cho thấy hành vi gian lận của ông và một nhân vật khác trong NASA. Và tôi chỉ biết là Thượng nghị sĩ phái tôi đến đây để đề nghị ông hãy khai ra kẻ đồng loã của mình để khỏi phải chịu tội một mình. Và bây giờ tôi sẽ về báo cáo với Thượng nghị sĩ là ông muốn một mình ra trước vành móng ngựa ông cứ việc nói với toà như vừa nội với tôi, rằng ông không biển thủ công quỹ, và cũng không nói dối về phần mềm của dự án PODS. - Cô nhếch mép cười hăm doạ. - Nhưng sau buổi họp báo chẳng ra đâu vào đâu cách đây hai tuần thì tôi rất nghi ngờ điều đó. - Gabrielle quay gót và sải bước ra khỏi phòng làm việc của Giám đốc Dự án PODS, thầm nghĩ chính ra cô mới là người phải vào nhà đá trước chứ không phải là ông ta.

Gabrielle ngẩng cao đầu bước đi, thầm mong Harper gọi mình lại. Im lặng. Cô đẩy cánh cửa thép và bước ra sảnh ngoài mờ tối, ao ước giá thang máy ở đây không được cài đặt để vận hành bằng thẻ ra vào. Cô đã thua. Cô đã cố hết sức, nhưng Harper không mắc bẫy. Biết đâu ông ta nói thật trong buổi họp báo đó thì sao? Gabrielle thầm nghĩ.

Tiếng cửa mở đánh sam vang khắp sảnh khi cánh cửa sắt sau lưng Gabrielle bị giật mạnh. - Cô Ashe này. - Harper gọi theo. - Tôi thề không biết gì về vụ biển thủ đó. Tôi là người trung thực!

Tim Gabrielle đập rộn lên sung sướng, nhưng hai chân cô vẫn tiếp tục sải bước. Gabrielle làm bộ nhún vai và nói vọng lại: Trung thực nhưng tại sao ông lại nói dối trong buổi họp báo đó?

Im lặng. Gabrielle tiếp tục tiến ra cửa.

- Dừng lại đã! - Harper hét ầm lên. Ông ta chạy đuổi theo Gabrielle, mặt tái mét. Về vụ biển thủ công quỹ này, - Ông ta hạ giọng - tôi biết kẻ nào đã dựng chuyện cho tôi rồi.

Gabrielle đứng lại, chưa dám tin hẳn vào tai mình. Cô làm ra vẻ thật tự nhiên, chậm rãi quay đầu lại.

- Ông muốn tôi tin là có người dựng chuyện cho ông ư?

Ông ta thở dài:

- Tôi thề là không hề biết gì về vụ thụt két đó. Nhưng nếu có những chứng cứ chống lại tôi thì…

- Nhiều lắm.

Harper thở dài.

- Nếu thế thì tất cả đều là trò vu khống. Chắc chắn là để làm tôi bị mất uy tín. Và chỉ một người có thể làm được điều đó.

Harper nhìn sâu vào mắt Gabrielle:

- Lawrence Ekstrom rất căm ghét tôi.

Gabrielle hoàn toàn bất ngờ.

- Giám đốc NASA ư?

Harper gật đầu một cách nghiêm trang:

- Chính ông ta đã ép tôi phải nói dối trong cuộc họp báo đó.