Điểm dối lừa - Chương 102 - 103 - 104

Chương 102

Chiếc taxi của Gabrielle Ashe không thể nhúc nhích.

Bị mắc kẹt trong đám tắc đường gần đài tưởng niệm FDR, Gabrielle đưa mắt nhìn quang cảnh hai bên đường, và chợt cảm thấy màn sương mờ siêu thực như đang ôm trùm lấy thành phố.

Lúc này phát thanh viên trên đài đang thông báo rằng người vừa bị tai nạn có thể là một nhân vật cao cấp của Chính phủ.

Lấy điện thoại cầm tay ra, cô gọi Thượng nghị sĩ. Chắc chắn giờ này ông đang băn khoăn tại sao cô lại biến mất lâu đến thế.

Đường dây đang bận.

Nhìn đồng hồ đo độ dài của chiếc taxi đang nhấp nháy, Gabrielle nhnl mày. Mấy chiếc xe xung quanh đang quay đầu để đi đường khác.

Người lái xe quay đầu lại hỏi:

- Cô có muốn đợi không? Lâu quá là đồng hồ sẽ tự nhảy đấy.

- Thêm nhiều xe của cảnh sát đang kéo đến. - Không. Quay lại thôi.

Người lái xe làu nhàu gì đó vẻ đồng tình rồi cho xe quay lại. Đi qua chỗ ngoặt, cô lại gọi cho Thượng nghị sĩ lần nữa.

Máy vẫn bận.

Vài phút sau, sau khi vòng vèo, chiếc xe đi qua phố C., Gabrielle nhìn thấy toà cao ốc văn phòng Phillip A. Heart lờ mờ phía trước. Cô định đến thẳng nhà riêng của Thượng nghị sĩ, nhưng nếu văn phòng của ông ở ngay gần đây thế này thì…

- Dừng lại đi. - Cô bảo người lái xe. - Tôi xuống đây cũng được.

- Cảm ơn anh.

Xe dừng bánh.

Thanh toán tiền xong, Gabrielle cho anh ta thêm mười đô la nữa.

- Anh có thể đợi tôi mười phút được không?

Người lái xe cầm tiền và nhìn đồng hồ đeo tay:

- Đúng mười phút thôi nhé.

Gabrielle hối hả bước đi. Năm phút nữa tôi quay ra ngay…

Vào lúc khuya khoắt này, khu văn phòng lát đá hoa cương của Thượng nghị sĩ trông thật đìu hiu. Đi lướt qua dãy tượng đặt cạnh hành lang tầng ba, Gabrielle chợt có cảm giác căng thẳng. Những đôi mắt bằng đá như đang theo dõi từng cử động của cô.

Đến cửa khu văn phòng mà Thượng nghị sĩ thuê riêng, cô tra thẻ ra vào vào khe để mở cửa. Hành lang mờ tối. Qua sảnh chờ rộng, cô tiến tới hành lang dẫn vào phòng thư ký. Cô vào trong, bật đèn lên, và bước thẳng tới bên chồng tài liệu trên bàn của mình.

Gabrielle có cả cặp tài liệu về những chi phí của NASA cho dự án PODS cũng như những thông tin về chính dự án đó. Rất có thể Thượng nghị sĩ sẽ cần có ngay những tài liệu cần thiết về PODS sau khi nghe cô báo cáo về Harper.

NASA nói dối về PODS.

Gabrielle chưa kịp chạm tay vào cặp tài liệu thì điện thoại cầm tay của cô đổ chuông.

- Thượng nghị sĩ phải không ạ? - Cô trả lời máy.

- Không đâu, Gabrielle. Yolanda đây. - Người bạn thân thiết của cô lên tiếng. - Em vẫn còn ở trụ sở NASA đấy à?

- Không. Em ở văn phòng.

- Có tìm được gì ở NASA không?

- Chị không thể tin nổi đâu. Gabrielle biết rằng cô nên nói chuyện với Thượng nghị sĩ trước rồi mới kể với Yolanda. Thượng nghị sĩ sẽ quyết định xử lý thông tin theo cách nào. - Em phải báo cáo với Sexton trước rồi mới kể với chị được. Em đang trên đường đến nhà riêng ông ấy.

Yolanda im lặng một lúc.

- Gab này, em còn nhớ những điều hồi nãy em nói với chị về chuyện tiền bạc giữa Sexton và SFF không?

- Em đã bảo chị là em sai và…

- Chị vừa được biết rằng hai phóng viên chuyên phụ trách mảng vũ trụ của đài chị đang điều tra về chuyện ấy đấy.

Gabrielle ngạc nhiên:

- Thế nghĩa là sao?

- Chị không biết. Nhưng họ đều là người tử tế, và đều tin rằng Sexton nhận tiền của SFF. Biết tin là chị gọi cho em ngay. Hồi tối chị có nói với em là chuyện đó không thể có thật. Những thông tin mà Marjorie Tench cung cấp có thể không chính xác. Nhưng những phóng viên của đài chị…, chị cũng chẳng biết thế nào, có lẽ em nên nói chuyện với họ rồi hãy đến gặp Thượng nghị sĩ.

- Nếu họ tin là thế thật thì tại sao chưa cho phát tin lên sóng?

Gabrielle không ngờ giọng điệu của cô lại đanh thép đến thế.

- Họ chưa có bằng chứng cụ thể. Thượng nghị sĩ rất giỏi xoá dấu vết.

- Chính khách nào mà chả thế.

- Không có chuyện ấy đâu Yolanda ạ. Em khẳng định với chị là Thượng nghị sĩ chỉ nhận những khoản hiến tặng trong giới hạn cho phép.

- Chị biết là ông ấy bảo em thế, Gab ạ. Chị không muốn khẳng định điều gì đúng, điều gì sai. Chị chỉ cảm thấy có trách nhiệm phải báo cho em biết vì chị đã khuyên em đừng tin lời nói của Marjorie Tench; và giờ đây chị vừa được biết rằng những người khác cũng có cùng quan điểm với bà ta. Thế thôi.

- Hai phóng viên đó tên là gì? - Gabrielle chợt cảm thấy bực bội.

- Chị không thể nói tên. Nhưng chị có thể dàn xếp một cuộc gặp. Họ tử tế lắm. Và rất am hiểu luật… - Yolanda lưỡng lự giây lát - Em biết không, họ còn tin rằng Sexton đang khốn đốn vì tiền thậm chí đến mức phá sản.

Trong văn phòng yên ắng, Gabrielle tưởng như nghe rõ mồn một giọng nói chát chúa của Yolanda. Sau khi Catherine mất, Thượng nghị sĩ đã tiêu tán phần lớn số tiền bà ấy để lại vào những khoản đầu tư thiếu khôn ngoan, vì hưởng thụ cá nhân, và đánh đổi cho mình chút thành công nhỏ mọn trước mắt. Cách đây khoảng sáu tháng, ông ta đã phá sản.

- Hai phóng viên này chắc sẽ đồng ý nói chuyện với em đấy. - Yolanda nói.

- Dĩ nhiên rồi! - Gabrielle thầm nghĩ. - Em sẽ gọi lại cho chị.

- Hình như em không tin tưởng lắm.

- Bao giờ em cũng tin chị. Em luôn tin ở chị. Cảm ơn chị.

Gabrielle tắt máy.

Người vệ sĩ đang gà gật trên chiếc ghế bành ngay cửa căn hộ của Thượng nghị sl Sexton tại khu Westbrooke, đột nhiên chuông điện thoại trong túi áo vang lên khiến anh ta giật mình tỉnh giấc. Ngồi bật dậy, anh ta dụi mắt rồi nghe máy.

- Tôi nghe.

- Owen à? Gabrielle đây.,.

- Vệ sĩ của Sexton nhận ra giọng cô, là, xin chào.

- Tôi có chuyện cần nói với Thượng nghị sĩ. Anh gõ cửa hộ tôi được không? Máy bàn của ông ấy bận suốt.

- Đêm khuya lắm rồi.

- Ông ấy vẫn thức đấy. Tôi biết mà. - Gabrielle tỏ ra rất nôn nóng.

- Khẩn cấp lắm.

- Lại chuyện khẩn nữa à?

- Vẫn chuyện ban nãy. Bảo ông ấy trả lời máy tôi ngay. Có chuyện này tôi phải hỏi ông ấy.

Anh chàng vệ sĩ thở dài đứng dậy.

- Thôi được, thôi được. Tôi sẽ gõ cửa. - Anh ta sải bước về phía cửa phòng riêng của Sexton.

- Hồi tối đã cho cô vào rồi thì giờ phải gọi cửa cho cô nốt vậy. Đã chót thì phải chét. - Anh ta miễn cưỡng giơ tay lên định gõ cửa.

- Anh vừa bảo gì cơ? - Gabrielle hỏi.

Anh chàng vệ sĩ rụt phắt tay lại.

- Tôi bảo là lúc nãy Thượng nghị sĩ tỏ ra hài lòng vì tôi đã để cô vào. Ông ấy bảo tôi xử sự thế là đúng. Không có vấn đề gì cả.

- Anh đã cho Thượng nghị sĩ biết à?

- Ừ. Thế thì sao?

- Không tôi tưởng…

- Quả là ông ấy hơi bị bất ngờ. Phải mất vài giây ông ấy mới nhớ ra là cô cũng ở trong đó. Chắc bọn họ uống khá nhiều rượu.

Im lặng một hồi lâu.

- Thôi… thôi. Chẳng có gì đâu. Để lúc khác tôi hỏi Thượng nghị sĩ cũng được. Tôi gọi vào máy bàn xem thế nào đã. Biết đâu lại được. Nếu cần tôi sẽ gọi lại nhờ anh gõ cửa.

Anh chàng vệ sĩ trợn tròn mắt.

- Thế cũng được, cô Ashe ạ.

- Cảm ơn Owen. Phiền anh quá.

- Không có gì. - Anh ta tắt máy, lại nằm phịch xuống ghế rồi ngủ ngay.

Một mình trong văn phòng, Gabrielle đứng chết lặng mất mấy giây rồi mới tắt được máy. Sexton đã biết mình vào trong căn hộ… nhưng không nói với mình một lời.

Đêm nay, một đêm đầy biến động, trời trở nên u ám. Gabrielle nhớ lại cuộc nói chuyện điện thoại với ngài Thượng nghị sĩ lúc còn ở đài NBC ông ta làm ra vẻ không biết cô ở đó, ra vẻ tự nguyện kể hết cho cô nghe về cuộc gặp bí mật cũng như chuyện tiền bạc.

Tưởng ông ta thật thà, cô đã tin ngay. Giờ đây, Gabrielle nhận ra rằng ngài ứng cử viên của mình không trung thực đến thế.

Tiền chẳng đáng bao nhiêu, Sexton đã nói với cô như thế. Hoàn toàn hợp pháp…

Đột nhiên, tất cả những điều Gabrielle nghi ngờ về Thượng nghị sĩ Sexton cùng đồng loạt quay trở lại.

Dưới đường, người lái taxi đang bấm còi inh ỏi.

Chương 103

Đài chỉ huy của tàu Goya là một căn phòng hình vuông, cao hơn boong chính hai tầng lầu. Từ đây, Rachel có thể quan sát khắp vùng biển tối sẫm xung quanh, một quang cảnh chẳng mấy hấp dẫn, tập trung vào công việc đang dở dang, cô không nhìn ra ngoài nữa.

Sau khi để Tolland và Corky đi tìm Xavia, Rachel liên lạc với Pickering. Cô đã hứa với Giám đốc là đến nơi thì sẽ gọi ngay về, vả lại lúc này Rachel cũng nóng lòng muốn hỏi xem ông đã biết thêm được gì sau khi gặp Marjorie Tench.

Hệ thống liên lạc SHINCOM 2100 của tàu Goya rất quen thuộc đối với Rachel. Cô biết những cuộc đàm thoại ngắn bằng hệ thống liên lạc số hoá này thường rất an toàn.

Quay xong số máy cá nhân của Pickering, cô đợi, áp chặt ống nghe vào tai. Rachel tưởng Pickering sẽ nghe máy ngay sau hồi chuông đầu tiên. Nhưng chuông cứ đổ mãi.

Sáu hồi. Bẩy hồi. Tám…

Rachel đăm đăm nhìn mặt biển tối sẫm, không liên lạc được với chỉ huy, cô càng cảm thấy bất an trước biển.

Chín hồi chuông. Mười hồi. Nghe máy đi sếp!

Rachel đi đi lại lại, chờ đợi. Có chuyện gì thế nhỉ? Lúc nào Pickering chả mang máy theo người, ông còn dặn Rachel gọi lại cơ mà.

Sau mười lăm hồi chuông. Rachel gác máy.

Lo lắng bồn chồn, cô quay số một lần nữa.

Bốn hồi. Năm hồi.

Sếp đâu nhỉ.

Cuối cùng thì cũng kết nối được. Rachel thấy nhẹ nhõm, nhưng chẳng được bao lâu. Không có ai trả lời máy. Hoàn toàn im lặng.

- Alô. - Rachel lên tiếng. - Phải Giám đốc đó không?

Có ba tiếng bíp vang lên.

- Alô? - Rachel nói.

Một loạt những tiếng bíp bíp vang lên ầm ĩ, nghe rất chói.

Rachel phải đưa ống nghe ra xa tai. Những tiếng bíp đột nhiên chấm dứt. Sau đó là một loạt những tiếng lách cách, mỗi tiếng cách nhau nửa giây. Rachel hiểu ra. Rồi thấy sợ.

- Chết tiệt!

Quay về bên bàn điều khiển, cô dập mạnh ống nghe, ngắt cuộc gọi. Rachel sợ hãi đứng chết sững mất mấy giây, thầm băn khoăn không biết ngắt cuộc gọi như thế có kịp thời không.

Cách boong chỉ huy hai tầng lầu, phòng thí nghiệm của tàu Goya là một khu làm việc khá rộng được chia thành nhiều ngăn nhỏ, chứa đầy thiết bị điện tử - thiết bị quan sát đáy biển, thiết bị phân tích dòng hải lưu, các phòng kính, phòng làm lạnh mẫu vật, máy tính cá nhân, và hàng loạt khay nhựa đựng số liệu nghiên cứu và các phụ từng dự trữ.

Khi Tolland và Corky bước vào, nhà địa lý học duy nhất trên tàu Goya – Xavia - đang ngồi trước tivi. Cô không quay đầu lại.

- Các anh hết tiền mua bia rồi à? - Cô nói vọng ra, tưởng mấy thuỷ thủ của tàu vừa quay về.

- Xavia đấy à? - Tolland lên tiếng, - Mike đây.

Nuối vội miếng bánh mì kẹp đang ăn dở, Xavia quay phắt lại.

- Mike à? - Cô lắp bắp, vô cùng kinh ngạc. Đứng dậy, cô tắt tivi và tiến lại gần hai người, miệng vẫn đang nhai. - Tôi cứ tưởng mấy anh chàng vừa đi nhậu nhẹt về. Anh làm gì ở đây thế?

Xavia khá đậm người, da ngăm đen, giọng nói sắc lạnh và vẻ mặt hằm hằm khó chịu. Cô chỉ chiếc tivi đang phát lại đoạn phim tài liệu của Tolland.

- Anh ở trên phiến băng không được lâu lắm nhỉ.

Có chuyện rắc rối xảy ra. Tolland nghĩ thầm.

- Xavia này, tôi đoán là cô biết Corky Marlinson.

Xavia gật đầu:

- Rất hân hạnh được gặp tiến sĩ.

Corky thèm thuồng nhìn mẩu bánh mì mà Xavia đang ăn dở.

- Trông ngon lành ghê.

Xavia khó chịu liếc xéo nhà cổ sinh học.

- Tôi đã nghe đoạn băng cô thu sẵn cho tôi trên điện thoại. - Tolland nói với Xavia. - Trong đoạn phim tài liệu của tôi có sai sót à? Cô hãy nói rõ hơn về điều đó.

Nhà địa chất học trợn tròn mắt nhìn Tolland rồi phá lên cười sằng sặc.

- Chỉ vì thế mà anh phải quay về đây ngay à? Mike ơi là Mike! Tôi đã bảo anh là chi tiết đó không có gì đáng kể cơ mà. NASA đã cung cấp cho anh những dữ liệu quá lạc hậu. Nhưng không có gì trầm trọng đâu. Chắc chỉ dăm ba nhà địa chất học hàng đầu nhận ra được sai sót đó thôi mà.

Tolland gần như nín thở khi ông hỏi:

- Có phải sai sót đó liên quan đến các chrondrule không?

Xavia kinh ngạc đến tái mặt:

- Chúa ơi! Đã có người gọi điện đến cho anh về chuyện đó rồi cơ à?

Tolland ngồi sụp xuống. Các chrondrule. Ông hết nhìn nhà cổ sinh học rồi lại quay sang nhìn chuyên gia địa lý học:

- Xavia này, hãy nói với tôi tất cả những gì cô biết về các chrondrule. Sai sót của tôi là thế nào?

Xavia nhìn Tolland chăm chú, và cuối cùng cũng nhận ra dáng vẻ hết sức căng thẳng của ông.

- Mike, thực ra chẳng có gì to tát cả. Dạo trước tôi đã đọc một báo cáo khoa học đăng trên tạp chí. Nhưng tại sao anh lại lo lắng đến mức thái quá như vậy nhỉ?

Tolland thở dài.

- Xavia này, câu chuyện này vô cùng lạ lùng, nhưng đêm nay cô càng biết ít càng tốt. Hãy nói với chúng tôi tất cả những gì cô biết về chrondrule, sau đó phân tích hộ tôi một mẫu đá.

Dường như Xavia vẫn đang tò mò không biết có chuyện gì, nhưng không hỏi gì thêm.

- Được, để tôi quay về phòng lấy bài báo đó cho anh xem. - Cô để miếng bánh đang ăn dở xuống ghế và nhanh nhẹn tiến ra cửa.

Corky gọi với theo:

- Này, cho tôi nốt nhá!

Xavia dừng lại, không tin vào tai mình:

- Ông muốn ăn nốt cái bánh của tôi à?

- À, nếu cô không muốn ăn nữa thì…

- Ông tự đi lấy bánh mới mà ăn! - Xavia bỏ đi.

Tolland cười ha hả, chỉ cái tủ lạnh đặt trong góc phòng. - Ngăn dưới cùng bên trái, Corky. Cạnh túi để mực khô ấy.

Trên boong tàu, Rachel đang hối hả sải bước từ lầu chỉ huy xuống đuôi tàu, chỗ chiếc trực thăng đang đậu. Đang gà gà gật gật, người phi công ngồi thẳng dậy khi cô đập thình thình lên cửa cabin.

- Xong rồi cơ à? Anh ta hỏi. - Sao nhanh thế?

Rachel lắc đầu, vẻ mặt vô cùng căng thẳng:

- Anh làm ơn bật hết cả radar quét trên không và trên mặt biển lên.

- Được ngay. Bán kính quan sát là mười dặm.

- Làm ơn bật ngay lên hộ tôi.

Người phi công vặn nút, gạt vài cái cần, và màn hình radar bật sáng. Ông kính quan sát bắt đầu quay chầm chậm.

- Có thấy gì không? - Rachel hỏi ngay.

Người phi công đợi đến khi ống kính đã quay kín một vòng. Chỉnh lại ống kính, rồi lại chờ. Không thấy gì hết.

- Chỉ có vài con thuyền nhỏ đi lướt qua ở tít ngoài xa, nhưng đều đi ra hướng khác. Chẳng có gì hết. Cả mặt biển lẫn bầu trời đều trống không.

Rachel Sexton thở phào, dù vẫn chưa hoàn toàn yên tâm.

- Tôi nhờ anh một việc. Nếu thấy bất kỳ cái gì tiến về phía chúng ta - thuyền, máy bay, bất kỳ cái gì - thì báo cho tôi ngay, được không?

- Được! Mọi thứ vẫn ổn cả chứ?

- Không có gì. Tôi chỉ muốn biết có ai đang tiếp cận chúng ta hay không thôi.

Người phi công nhún vai:

- Tôi sẽ quan sát, thưa cô. Nếu có tiếng bíp nào thì cô sẽ là người đầu tiên được biết.

Rachel đi về phía phòng thí nghiệm, ruột gan như có lửa đốt.

Đến nơi, cô thấy Tolland và Corky đang đứng trước một cái máy tính nhồm nhoàm nhai bánh mì.

Đầy miệng bánh, Corky trông thấy cô là gọi liền:

- Cô muốn ăn loại nào? Xa lát gà và cá, cá bologna, hay cá và trứng nào?

Rachel chẳng nghe thấy gì.

- Mike, mất bao lâu nữa thì chúng ta xong việc và rời khỏi nơi này được?

Chương 104

Tolland đi đi lại lại trong phòng thí nghịêm, ông cùng với Corky và Rachel đang đợi Xavia quay lại. Thông tin mới về các chrondrule cũng như những gì Rachel vừa kể lại đều rất đáng lo ngại.

Giám đốc không trả lời máy.

Có người cố tình xác định toạ độ của tàu Goya.

- Chúng ta hãy bình tĩnh. - ông nói. - Chúng ta vẫn an toàn. Người phi công cứu hộ vẫn đang quan sát bằng radar. Nếu có kẻ nào đến đây thì chúng ta sẽ được báo trước để chuẩn bị ứng phó.

Rachel gật đầu tán thưởng, dù vẫn rất lo lắng.

- Mike, cái gì đây? - Corky hỏi, tay chỉ một màn hình máy tính Sparc đầy những sinh vật lạ lùng đang chuyển động nhịp nhàng sống động Thiết bị chụp ảnh mặt đáy bằng sóng siêu âm đấy. Tolland trả lời. - Dùng để quan sát mặt cắt của dòng hải lưu bên dưới đáy tàu cũng như những thay đổi nhiệt độ của đáy biển.

Rachel trợn tròn mắt:

- Chúng ta đang thả neo ngay bên trên những thứ này sao?

Tolland buộc phải thừa nhận rằng quang cảnh này quả là hơi đáng sợ. Trên mặt biển là màu xanh lục cuộn sóng, nhưng sâu dần xuống dưới đáy, nước biển chuyển sang màu đỏ cam thật đáng sợ do nhiệt độ tăng lên. Gần đáy biển là xoáy nước cuồn cuộn đỏ rực.

- Đấy chính là một megaplume đấy. - Tolland giải thích.

Corky lẩm bẩm:

- Trông y như một núi lửa ngầm dưới đáy biển.

Về bản chất thì chính là nó đấy. Thông thường thì càng sâu xuống đáy đại dương, áp suất càng tăng lên, nhiệt độ càng giảm xuống. Nhưng tại đây, những điều kiện đó bị đảo ngược. Nước dưới đáy nóng và nhẹ hơn, nên nó nổi lên trên bề mặt. Trong khi đó nước trên bề mặt thì lại mát và nặng hơn, nên chìm xuống dưới để lấp vào chỗ trống đó. Đôi khi có những hiến tượng y hệt như bão nhiệt đới, nhưng ở trong lòng đại dương. Đó là những xoáy nước lớn rất mạnh.

- Cái bướu lớn sát đáy biển là gì thế? - Corky chỉ tay vào vùng đáy biển khá rộng lồi lên như nhà mái vòm, phập phồng như cái bong bóng lớn. Tâm của dòng nước xoáy nằm ngay bên trên nó.

- Chỗ lồi lên đó là vòm nham thạch. - Tolland nói. - Nham thạch phun ra từ đáy đại dương.

Corky gật gù:

- Trong như cái hậu môn khổng lồ.

- Đó cũng là một cách so sánh.

- Nếu nó phun trào lên thì sao?

Tolland nhíu mày, ông nhớ lại sự kiện magma phun trào nổi tiếng năm 1986 ở vùng biển Juan de Fuca Ridge. Hàng ngàn tấn magma ở nóng 12 ngàn độ C bỗng bị phun vọt lên tận mặt biển, và lập tức tạo ra một xoáy nước xiết khổng lồ. Các dòng hải lưu trên biển lập tức chảy mạnh do xoáy lan lên tận mặt biển với tốc độ chóng mặt. Tối nay Tolland không muốn kể cho Corky và Rachel nghe những gì xảy ra tiếp sau đó.

- Các vòm magma ở vùng biển Atlantic thường không đột ngột phun mạnh lên. - Tolland nói. - Nước lạnh liên tục chảy qua miệng vòm làm nó nguội đi, và đá cứng lại, khiến cho magma bị nén chặt bên dưới lớp đá cứng. Cuối cùng cả magma cũng nguội đi nốt, và xoáy nước cũng biến mất. Các vòm magma thường không có gì nguy hiểm cả.

Corky chỉ quyển tạp chí cũ nhàu nát ai đó để ngay gần chiếc máy tính bên cạnh họ:

- Thế chẳng lẽ Tạp chí Khoa học Hoa Kỳ đăng chuyện khoa học viễn tưởng hay sao?

Tolland trông thấy trang bìa. Ông nhíu mày, chắc ai đó đã lấy cuốn tạp chí này từ tủ sách trên tàu Goya. Số xuất bản tháng Hai năm 1999. Trên bìa trước là tranh vẽ một tàu chở dầu lớn bị lọt vào giữa xoáy nước khổng lồ. Dòng tít chạy ngang qua bức tranh: VÒM MAGMA - SÁT THỦ NGẦM DƯỚI ĐÁY ĐẠI DƯƠNG?

Tolland cười lớn, rồi nói át đi: Tình huống này thì lại khác. Bài báo đó nói về những vòm magma ở những khu vực hay có động đất cơ. Đó là một giả thuyết rất được ưa chuộng vài năm trước về tam giác quỷ Bermuda, để giải thích cho sự biến mất của tàu bè. Về mặt kỹ thuật mà nói thì nếu có động đất dưới đáy đại dương, thì vòm magma này có thể phun ra rất nhiều nham thạch, và xoáy nước có thể lớn đến nỗi… anh cũng biết rồi đấy…

- Không, chúng tôi không hề biết gì hết. - Corky nói.

Tolland nhún vai:

- Nó sẽ lan đến tận mặt biển.

- Kinh quá, thật may là chúng ta đang ở trên tàu.

Xavia quay lại, tay cầm mấy tờ giấy:

- Các vị đang chiêm ngưỡng đáy đại dương đấy à?

- Vâng, đúng thế! - Corky chua chát - Mike đang giải thích với chúng tôi rằng nếu cái vòm này phun trào thì chúng ta sẽ bị dòng nước xiết hút thẳng vào tâm xoáy nước khổng lồ,.

- Dòng nước xiết thôi à? - Xavia lạnh lùng chỉnh lại. - Giống bị xả xuống một cái toa lét khổng lồ thì đúng hơn.

Trên boong tàu Goya, viên phi công trên chiếc trực thăng cứu hộ đang chăm chú quan sát màn hình radar MES. Anh ta đã nhìn thấy ánh mắt sợ hãi của Rachel, và cũng đang thầm cảm thấy bất an. Rõ ràng là Rachel Sexton đã tỏ ra rất lo lắng khi yêu cầu anh bật máy quét radar lên để quan sát tất cả những vị khách không mời muốn tiếp cận tàu Goya.

Cô ấy sợ ai thế không biết, anh ta băn khoăn.

Trong phạm vi mười dặm kể từ vị trí của tàu Goya, không có bất kỳ dấu hiệu bất thường nào cả trên biển lẫn trên trời. Cách họ tám dặm có một con tàu đang đánh cá. Thỉnh thoảng lại có một chiếc máy bay sượt qua rìa màn hình rời mất hút phía xa.

Người phi công thở dài, đưa mắt nhìn mặt biển cuộn sóng xung quanh thân tàu. Thật kỳ quái, cứ như thế con tàu đang chạy hết tốc lực chứ không phải là đang bỏ neo nữa.

Anh lại quay sang nhìn màn hình radar, đầy cảnh giác.