Thất Dạ Đàm - Chương 03

Đêm Thứ Hai

Thành bích

Nàng hãy cùng ta, từ nay mọi phong ba bão tố, chúng ta cùng nhau chia sẻ, đang chạy trốn, đừng bỏ lại mình ta...

***

1.

Mưa thu tí tách suốt đêm, ngày hôm sau, trời vẫn u ám. Cả mặt hồ Yến Tịch chìm trong màn mưa giăng mờ ảo, đèn lồng treo trước phường thuyền lặng lẽ tỏa ánh nến vàng vọt ảm đạm.

Kim Chi không ngừng vén rèm nhìn ra ngoài, sốt ruột hỏi: “Có thật Cung Thất sẽ đến?”

“Nhất định đến!” Tôi nhìn vào gương, cài chiếc trâm phượng lên tóc, đây là chiếc trâm phượng hết sức độc đáo, tôi đã phải bỏ ra một ngàn lạng bạc thuê tên trộm lợi hại nhất thiên hạ đột nhập vào kho bạc của Hầu gia phủ lấy trộm bản vẽ, lại mướn thợ kim hoàng khéo nhất kinh thành chế tác giống hệt bản mẫu đó. Do vậy, kế hoạch của tôi phải lùi lại đúng ba tháng. Chớp mắt, đã đến mùa thu.

Kim Chi vẫn lo lắng, lẩm bẩm: “Mưa to thế này, có lẽ chàng ta sẽ không đến!”

“Yên tâm, nhất định đến!” Tôi đứng dậy khỏi đài trang nâng tà váy nhón bước đến bên cầm án, “mồng một tháng mười hằng năm chàng ta đều đến đây, bảy năm rồi chưa năm nào quên.”

Một trận gió lạnh lùa vào thuyền lầu, tấm rèm bay bay, thấp thoáng thấy được mặt hồ nước trắng xóa bên ngoài, cảnh sắc không phải quá nên thơ, nhưng trở nên khác thường bởi liên quan đến một thiên diễm tình nổi tiếng khắp thiên hạ.

Bảy năm trước, Cung Thất lần đầu gặp phu nhân Châu Hạnh của mình ở nơi đây.

2.

Cung Thất là ai?

Trước khi tôi nhận nhiệm vụ làm ăn này đã nghe đồn về chàng. Chàng là tiểu đệ ruột của đương kim hoàng hậu, được phong tước Hầu nhất đẳng, tinh thông lục nghệ, rất mực tài năng, tuổi còn trẻ nhưng đã nức tiếng xa gần, thiên hạ không ai sánh bằng.

Chàng không chỉ là trang nam nhi tuấn tú bậc nhất được người đương thời công nhận mà còn là tình lang si tình có tiếng.

Sau khi phu nhân họ Châu mất tích vào chính ngày thành hôn, từ đó Cung Thất mãi không lấy vợ, mà vẫn cử người đi khắp nơi tìm người vợ thất lạc, nhưng bặt vô âm tín. Cứ vào mồng một tháng mười hằng năm, chàng đều đến bên hồ Yên Tịch nơi lần đầu gặp gỡ. Chờ đợi phu nhân Châu Hạnh của mình.

Phàm đã là con người, ai cũng có khiếm khuyết nhưng chàng lại thập toàn thập mỹ, ngay kẻ hẹp hòi nhất cũng không tìm được cớ chỉ trích chàng, một con người hoàn mỹ như thế, có vẻ khiến nhiều người cảm thấy... nghịch mắt.

Tôi ghét nhất hạng người sinh ra đã có tất cả, khi người khác bôn ba lăn lộn vì cuộc sống thì người đó lại ung dung hưởng thụ tất cả. Ngay cả lúc chỉ phải chịu một chút đau khổ như vậy cũng nhận được bao nhiêu cảm thông, chia sẻ thương xót của tất cả mọi người! Tại sao?

Cho nên, tôi nhận vụ này, một vụ làm ăn mà người khác không dám, cũng không muốn giết chết Cung Thất trước tiết Đông chí. Kẻ thuê tôi là người nhà của Giang Quý Phi, muốn loại bỏ chàng để giảm bớt thế lực của hoàng hậu. Chính trị thối nát quả nhiên sẽ có nhiều thứ rác rưởi vô nguyên tắc, phi đạo lý nhất trên đời, có điều chính vì nó vô nguyên tắc, phi đạo lý nên tôi mới có đất sinh tồn.

Tôi là một sát thủ chuyên nghiệp, chỉ dựa vào cướp đoạt tính mạng của người khác để nuôi sống bản thân. Ba năm trước, sau khi giết đại sư huynh của mình, tên của tôi đã nhảy vọt lên xếp hạng thứ hai trong bang phái, chỉ sau có sư phụ, - người đã đích thân huấn luyện tôi.

Bây giờ là giờ tị, tôi phải tiếp tục nhẫn nại, nhẫn nại đến lúc Cung Thất xuất hiện

3.

Giờ tuất, trời mỗi lúc một u ám, ánh đèn từ thuyền hoa chiếu xuống mặt hồ, sáng lấp lánh.

Nỗi băn khoăn ban đầu của Kim Chi đã trở thành nôn nóng thực sự, cô ta sốt ruột đi lại trên khoang thuyền cau mày lẩm bẩm: “Quả nhiên gã không đến, lẽ nào ta cứ chờ thế này? Thật không thể hiểu, rõ ràng đường gần lại không đi sao cô nhất định đi đường vòng? Chẳng phải quản gia của Cung phủ đã bị chúng ta mua đứt, bằng lòng phối hợp với chúng ta, thích giết Cung Thất lúc nào chẳng được? Ngồi đợi trên thuyền trong thời tiết quái quỷ thế này thà núp trên xè ngang phòng ngủ của Cung Thất có phải cơ hội càng lớn hơn!”

Tôi thầm than thở, chẳng trách võ công Kim Chi rõ ràng cao hơn tôi, lại chỉ có thể xếp thứ mười trong bang phái chỉ vì cô ta không giữ được bình tĩnh, tính nôn nóng mà người không giữ được bình tĩnh, bất luận võ công cao cường đến đâu đều không phải là sát thủ ưu tú.

Đúng lúc đó bên ngoài truyền đến tiếng trống điểm canh, bảy tiếng dài ba tiếng ngắn, cả người Kim Chi bỗng cứng đờ, tôi cũng từ từ kép tấm khăn phủ cây đàn.

Cung Thất đã đến.

Ba tiếng trống ngắn điểm canh là tín hiệu đồng đảng báo cho tôi.

Tôi khẽ vuốt phím đàn, bắt đầu chơi. Mặc dù tôi vốn thiên về cầm ca, nhưng cầm khúc tôi đang chơi đã mất khá nhiều thời gian để tập luyện. Nó mang một cái tên rất đẹp, gọi là “Khán châu thanh bích”. Nghe nói bảy năm trước, Cung Thất đi dự hội đạp thanh đã bị cuốn hút bởi chính khúc này, nhất định đòi gặp nữ danh cầm có tiếng đàn tuyệt mỹ kia, khi ràm thuyền hoa vén lên, thiếu nữ ở bên trong mở to đôi mắt mơ màng, chàng kinh ngạc đứng sững...

Đó chính là Châu Hạnh, nữ danh cầm Châu Hạnh mù lòa, một đóa hoa dại trong chốn phong trần sống bằng nghề cầm ca.

Bất chấp phản đối của dòng tộc, Cung Thất một mực muốn cưới nàng, nhân duyên của họ đã trở thành tin chấn động nhất thời đó. Người ta cười nhạo, châm chọc, ngưỡng mộ, khâm phục, hoặc cũng xuýt xoa tiếc nuối cho bậc nam tử phong lưu tài hoa nhất kinh thành lại chọn cưới một ca nữ tật nguyền không ai ngờ, tân nương lại mất tích trong đêm tân hôn giống như bị bốc hơi. Cung Thất vẫn phái người đi tìm, năm năm, tháng tháng, ngày ngày chờ đợi, nhưng nàng Châu Hạnh mặt hoa da phấn có tiếng đàn e mê đắm không hề xuất hiện.

Hôm nay, sau sáu năm, mười một tháng người xuất hiện lại là tôi.

“Cô nương... cô nương là ai?!” Một giọng nói mượt mà thanh sảng giống như âm thanh của loài rượu ngon tuyệt thế, xuyên qua màn mưa truyền vào thuyền hoa.

Ngón tay tôi dừng đột ngột, dây đàn không chịu nổi áp lực bất ngờ nổ tung, cùng lúc Kim Chi đã xách đèn lồng đi ra, cười tươi hỏi khách, “đêm mưa gió lạnh cớ sao công tử một mình dầm mưa trên bờ? Nên chăng vào trong nhấp chén trà nóng cho ấm?”

4.

Khi Cung Thất đi vào, tôi đang thay dây đàn. Nghe tiếng bước chân, tôi biết chàng ta đến, cũng biết chàng vẫn đang nhìn tôi nhưng nhất quyết không ngẩng lên, chăm chú tháo dây đàn, thay dây mới, vặn lại rồi vuốt nhẹ thử âm.

Tôi muốn chàng ta lên tiếng trước.

“Cô nương là... ai?” Cung Thất quả nhiên không kìm chế được, bước thật nhanh đến nắm tay tôi.

Lúc này tôi ngẩng đầu nhìn thấy bộ xiêm y trắng đục như sương mù, đôi mắt lóng lánh tựa thủy tinh; trưng đôi đồng tử in hình khuôn mặt tươi cười diễm lệ của tôi, mày thanh, miệng nhỏ, dưới khóe mắt phải ba phân có một nốt ruồi giống như giọt lệ đây không phải là dung mạo của tôi mà là của Châu Hạnh. Cũng như chiếc trâm trên mái tóc, không phải của tôi mà của Châu Hạnh.

Tôi dày công vạch định nửa năm, chỉ vì một khắc này.

“Ánh đèn mờ nhạt dần, bóng trăng thanh lạnh lẽo, hồn ta gửi nơi này, con đường cũ còn đây. Mộng uyên ương khó tỉnh, rượu khó say, mây giăng khói phủ, trông vời chốn cũ, đâu là cố nhân, lối cũ quên về... Tây quân hỡi, còn nhớ thiếp chăng?”

Mắt Cung Thất đột nhiên mờ loạn, tiếng gọi đó, cái tên Tây quân đó, tôi không tin chàng ta không nhớ ra. Tây quân[1] Tây quân! Ngày xưa Châu Hạnh gọi chàng như vậy, từng tiếng từng da diết đoạn tràng.

[1] Tây quân: Cách gọi tôn trọng.

“Cô nương...” Run rẩy từ đầu ngón tay lan ra toàn thân, chàng ta giơ tay giữ chặt vai tôi, trong sắc thái có ba phần kinh ngạc, ba phần vui, ba phần buồn và một phần hoài nghi, “sao có thể... sao có thể!? Cô nương... dung mạo cô nương... đôi mắt cô nương...”

Tôi lại cười, nụ cười có ba phần luyến nhớ, ba phần hờn trách, ba phần buồn rầu ngưng lại thành nỗi sầu thê lương, “phải Tây quân, thiếp đã trở về. Nhưng, thiếp không phải là thiếp ngày xưa...”

Khi tôi biết tôi là Châu Hạnh có bảy phần giống nhau, tôi liền vạch ra kế hoạch mưu sát này, giả làm Châu Hạnh tiếp cận Cung Thất, thừa cơ đầu độc chàng. Chỉ có vậy, sau khi sự thành, tôi sẽ biến mất, thiên hạ sẽ coi như Châu Hạnh mất tích lần nữa.

Tôi vào nghề này được mười năm, thật sự phải dụng đến võ công rất ít, đa phần dùng mưu kế, hơn nữa mưu càng hoang đường, nguy hiểm thì cơ hội thành công lại càng lớn. Vì vậy, thế giới này vốn thực hư lẫn lộn, sáng tối nhập nhằng giống như sơ đồ cất giấu châu báu, hoặc kiếm pháp bí truyền tuyệt thế, càng huyền bí thì hình như càng khiến người ta tin. Cung Thất có tin không?

Cung Thất nhìn tôi rất lâu, rất lâu khiến tôi có cảm giác chàng sẽ nhìn mãi như vậy, rồi chính lúc đó chàng dang hai tay ôm lấy tôi, bằng một giọng thấp trầm như hơi thở, nhưng êm ái dễ nghe nói từng chữ, từng chữ, “cuối cùng ta đã đợi được nàng... A Hạnh!”

5.

Tôi cùng Cung Thất trở về phủ đệ họ Cung.

Chân vừa bước qua cổng phủ, đã thấy một người đàn ông mặc áo chùng xanh tuổi chạc tứ tuần hô to truyền tin: “Lão gia muốn gặp... phu nhân!” Tôi chú ý đến ánh mắt lóe sáng đầy hoài nghi của ông ra khi nói hai chữ “phu nhân” thầm nghĩ: Bữa tiệc này tuyệt đối không phải bình thường, có lẽ sẽ là một đại yếu chốn hồng môn.

Mà tôi đã đi đến bước này cũng chỉ có thể đi tiếp, không còn cách nào khác.

Hành lang dài quanh co qua chín khúc ngoặt mới đi hết, ngôi lầu chính lộng lẫy tráng lệ đã hiện ra trước mắt. Kỳ thực, ban đêm tôi đã bí mật lọt vào phủ thăm dò, ghi nhớ hết tất cả sơ đồ phòng ốc, đường đi bên trong. Vì vậy, tôi biết quản gia đang đưa tôi đến Nghị sự đường trong Cung phủ, lão Hầu gia thường tiếp những khách quan trọng ở đó, ông ta lựa chọn gặp tôi ở Nghị sự đường chứng tỏ tôi chỉ là “khách” chứ không phải con dâu ông ta.

Tôi cúi đầu, tỏ vẻ bẽn lẽn, khiêm nhường bước vào phòng. Cửa bốn cánh lập tức khép lại. Bên trong là một giang phòng lớn vuông vắn, chính giữa có tấm bình phong, lúc này mọi ánh đèn đều tập trung rọi vào người tôi. Vì vậy, tôi chỉ có thể lờ mờ nhìn thấy đằng sau bức bình phong bằng gỗ từ đàn chạm ngọc có bóng người ngồi.

“Mời ngồi!” Giọng già nua, uy nghiêm lạnh lùng từ phía đó truyền đến.

Tả hữu hai bên có bốn chiếc ghế, tôi nghĩ một lát liền ngồi vào chiếc ghế ngoài cùng bên trái. Bởi vì, nếu triệu tập cuộc họp toàn gia tộc thì với tư cách phu nhân của Cung Thất, tôi chỉ cơ thể ngồi ở vị trí cuối cùng.

Một a hoàn áo hồng bưng trà đến cho tôi, sau đó giọng già nua kia lại nói: “Uống trà đi!”

“Xin vâng!” Mở nắp cốc trà, mùi trà hoa nhân sâm và cẩu khoảng thoang thoảng. Sau khi thầm đếm đến năm, tôi ngẩng đầu, rụt tè mỉm cười, “đa tạ lão gia nhưng... trà này có nhân sâm, mà tiểu nữ lại không thể uống nhân sâm, vì tiểu nữ mắc chứng nổi mề đay mỗi khi uống trà đó.”

“Chính vì thế, nên mới cần cô nương uống!”

Tôi lập tức hiểu ý ông ta, nếu sau khi tôi uống mà không nổi mề đay đó, chúng tỏ tôi không phải là Châu Hạnh. Vậy là tôi làm ra vẻ khó khăn, nhưng miễn cưỡng nhượng bộ, thong thả đưa len miệng uống từng ngụm nhỏ.

Một lát say, cổ tôi bắt dầy nôi lên từng nốt đỏ, nhưng do lượng nhân sâm không nhiều, các nốt đỏ cũng không nghiêm trọng.

Người ngồi sau bức bình phong quả nhiên không nói gì.

Tôi cười thầm: Khương lão tinh anh không hổ danh là lão Hầu gia tung hoành ba chục năm có lẽ trong cung đình lại nghĩ ra chiêu này để thử tôi. Ông biết một người dung mạo, tính tình có thể thay đổi chỉ duy có thể chất, ví dụ chứng dị ứng do không điều trị dứt điểm tuyệt đối không thể thay đổi.

Đáng tiếc ông ta gặp phải tôi.

Một sát thủ xuất sắc nhất Dạ Minh bang, sao có thể không điều tra ngọn ngành dã dám mạo hiểm làm bừa?

Tất cả mọi chi tiết liên quan đến Châu Hạnh tôi đều nắm được, thậm chí có thể nói, tôi còn biết nhiều hơn cả Cung Thất. Châu Hạnh có chứng dị ứng, cho nên đề phòng bất trắc, tôi đã mang theo một ít bột độc, giấu trong chiếc vòng ngọc đeo tay, chiếc vòng được chế tác rất khéo,bên trong có một ô rỗng chứa chất độc, bên ngoài được nguỵ trang bằng nút cài, khi bê trà lên uống, lén kéo nút cài ra hít một ít, có thể cho hiệu quả tương tự.

Chiêu này không thử được tôi, lão Hầu gia!

Trong phòng yên lặng một lát, lão Hầu gia đằng hắng vài tiếng lại hỏi: "Đêm tân hôn bảy năm trước, cô đã bỏ đi đâu?"

Câu này tôi đã chuẩn bị rát kỹ nhưng Cung Thất lại không nhắc đến nửa câu, chính lúc tôi đang thất vọng vì đã hoài công chuẩn bị thì cha chàng lại hỏi. Vậy là tôi thẹn thùng cúi đầu, biểu diễn một màn độc thoại mà tôi đã thục luyện trơn tru, "bẩm lão gia... thực ra , con không rõ lắm đêm đó rốt cuộc xảy ra chuyện gì... Con chỉ biết con ngồi trong phòng tân hôn sau đó ngất đi, khi tỉnh lại đã thấy mình ở trên một đảo hoang. Đảo hoang đó có nguồn nước vô cùng thần kỳ, dần dần làm mát con sáng lại, con vật lộn suốt bảy năm trời ở đó rồi được một chiếc thuyền đi qua đưa về kinh thành."

Lão Hầu gia "hừ" một tiếng, "một chuyện hoang đường như vậy, cô nương tưởng ta sẽ tin chăng?"

Tôi thản nhiên cười: "Con biết câu chuyện của con quá ly kỳ nói ra người ta cũng không tin nhưng vì sao con phải lừa mọi người? Nếu có thể lừa con đã bịa ra một câu chuyện hay hơn chứ không nên dùng câu chuyện hoang đường ngay trẻ con cũng không tin như vậy, không phải sao? Thực ra... có lẽ lão gia không muốn con trở về, phải không?"

Người đằng sau bình phong yên lặng.

Từng rơi vào tuyệt cảnh lại được phục sinh, tôi đành dùng chiêu này bởi vì tôi không thể bịa ra một câu chuyện dối trá hoàn hảo nào nữa, để bị phát hiện chi bằng ngay từ đầu đã b lộ sơ hở. Chủ yếu nhất là tôi biết lão Hầu gia không ưa Châu Hạnh, chắc chắn sẽ gây nhiều khó khăn, sẽ nghi ngờ cho nên cũng không mấy lo lắng. chỉ cần Cung Thất tin câu chuyện của tôi là được.

Người khác tin hay không, không quan trọng.

Vì vậy, trong Cung gia, người thực sự quyết định chuyện này chính là Cung Thất.

Mà chàng đã bị tôi điểm trúng huyệt.

Lão Hầu gia không hỏi gì thêm, lệnh cho quản gia đưa tôi đi.

Vừa ra khỏi Nghị sự đường tôi nhìn thấy Cung Thất khoanh tay đứng trước hành lan can bằng đá bạch ngọc, mắt nhìn ra ngoài trời mưa, không biết đang nghĩ gì, nghe tiếng động, chàng quay người chìa tay về phía tôi, "không có chuyện gì chứ?"

Thấy chàng chau mày có vẻ lo âu, vậy là tôi mỉm cười: "Vâng, không có chuyện gì!"

"Vậy thì tốt. Nàng biết cha ta luôn không ưa nàng, lần này nàng quay về đương nhiên phải hỏi rõ ngọn ngành. Bất luận cha ta nói gì, nàng cũng đừng bận tâm!"

Tôi giơ ngón chỏ chặn môi chàng, "suỵt! Chàng đừng nói vậy. Thiếp hiểu tất cả... thiếp hiểu hết." Tôi nhân cơ hội đó lao vào lòng chàng ta, tỏ vẻ âu yếm nhưng ánh mắt lướt qua vai chàng bắt đầu quan sát phía xa.

Tất cả mới chỉ bắt đầu, Cung Thất hãy cho tôi diễn tán trò lãng mạn mà tàn nhẫn cho tới khi cúc nở hoa, là lúc tai hoạ giáng xuống đầu chàng!

6.

Tôi ngâm mình trong thùng gỗ, sung sướng tắm một trận thật thoải mái dễ chịu. Vừa giơ chân lên khỏi mặt nước phủ kín những cánh hoa hồng rẽ ra một khoảng trống, rồi lại bị những cánh hoa khác tràn tới phủ kín. Không gì dễ chịu hơn trong đêm mưa thu như trút nước được tắm nước nóng ngào ngạt mùi hương hoa. Nhưng chỉ tủi cho Kim Chi đứng bên cạnh trong vai người hầu của tôi đang tức tối, không chịu nổi "hừ" một câu, "không sợ thật sao! Không sợ thật à?"

"Sợ gì kia?" Tôi gập chiếc khăn mặt nhúng nước nóng đắp lên trán, khép mắt mơ màng, "tôi đã bước qua cổng Cung phủ, cửa ải lão Hầu gia tạm thời coi như qua, có gì đáng sợ

Cô ta giậm chân, "ý tôi là tối nay! Tối nay! Lát nữa Cung Thất đến muốn cùng cô, cùng cô... động phòng thì sao?"

Tôi bật cười, chăm chú nhìn cô ấy.

Mặt Kim Chi đỏ dần dưới cái nhìn của tôi, cuối cùng thở mạnh một hơi, vẫn giọng tức giận hỏi: "Cô nhìn gì? Câu hỏi của tôi tức cười lắm à?"

"Không, không buồn cười..." Tôi cụp mắt càng cười to, "thực ra, chuyện đó cũng chẳng có gì là không hay."

Cô ta nhảy lên, "này! Chúng ta là sát thủ không phải kỹ nữ!"

Kim Chi luôn cho rằng, sát thủ cũng cần nguyên tắc,cho nên luôn chăm chỉ luyện võ công, hy vọng có thể giải quyết mọi chuyện bằng đao kiếm. Một ý nghĩ thật ngây thơ và tốt đẹp, tôi bất giác thầm hâm mộ, nhưng miệng vẫn cười nhạo: "Nhưng, biết bao nhiêu cô gái trong thiên hạ khao khát được xuân phong nhất độ với một trang phong lưu tuấn kiệt như Cung Thất, vậy phải chăng tôi nên cảm thấy vinh hạnh mới đúng?"

Cô ta há mồm, ngây người nhìn tôi rất lâu, cuối cùng vứt khăn mặt bỏ đi.

Tôi lấy khăn mặt trên trán cuống, nhúng nước phủ lên mặt, sau đó gối đầu lên thùng gỗ. Hơi nước bốc lên, khăn mặt ướt khiến cảm giác như nghẹt thở.

Thực ra, sát thủ và kỹ nữ có gì khác nhau, nếu cuộc đời vẫn còn một tia hy vọng, thì ai muốn dấn thân làm nghề này. Nhưng, sau khi vào nghề lập tức nhận ra quãng đời còn lại vẫn chỉ một màu đen kịt, không một tia sáng dù le lói. Vì sao tôi trở thành sát thủ? Hồi đó đã xảy ra chuyện gì? Vì sao tôi không nhớ ra? Khi cố nhớ lại, trong đầu chỉ có một màng đen đặc hỗn độn.

Đó là nỗi... tuyệt vọng sâu xa cùng cực.

7.

Sự lo lắng của Kim Chi cuối cùng được chứng minh là vô ích.

Bởi vì đêm đó Cung Thất không đến.

Ngày hôm sau khi tôi tỉnh dậy đang chải đầu, chàng ta mới xuất hiện. Chàng đi đến rút chiếc lược trong tay tôi, bắt đầu chải và vấn tóc cho tôi. Tay chàng ấm áp, nhẹ nhàng và khéo léo, nét mặt rất đỗi dịu dàng thân thiện, không nhận thấy bất kỳ dấu hiệu bất thường nào. Vậy vì sao đêm qua chàng ta không đến gặp tôi!?

Hình như nhận ra nỗi băn khoăn của tôi, chàng dang tay ôm tôi nhìn khuôn mặt tôi trong gương mỉm cười, "ta muốn cho nàng một hôn lễ hoàn toàn mới, hãy để chúng ta làm lại từ đầu."

Tôi khẽ "vâng" một tiếng, nhướn mi hỏi: "Vậy chàng đã chọn ngày chưa?"

"Chọn rồi, ngày hăm mốt tháng mười một chính là tiết Đông chí. Hoàng đạo cát nhật vạn sự đều hợp, nàng thấy thế nào?"

Lòng tôi run lên nhưng mặt vẫn nở một nụ cười thật tươi, "đương nhiên là tốt, đúng là rất tốt."

Đúng là... rất tốt.

Có phải tôi đã bị nghi ngờ.

Ai đã bán đứng tôi? Ai đã để lộ mọi chuyện? Hay là chàng ta lựa chọn ngày Đông chí để làm hôn lễ chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên? Tôi băn khoăn nhìn vào gương, nhìn chàng mỉm cười, sắc mặt chàng vẫn dịu dàng, nhưng trong gương tôi có cảm giác giống như phủ bóng tối.

Người đàn ông này thoạt nhìn có vẻ dễ hiểu, nhưng tiếp xúc càng lâu càng cảm thấy, thực ra không thể nào nắm bắt được gì.

Cũng được, trò chơi mà quá dễ dàng thì cũng không thấy thú vị.

Hôm nay là mồng hai tháng mười, còn năm mươi ngày nữa là đến Đông chí. Mà năm mươi ngày đủ để tôi dưa một loại độc dược mãn tính vào nước trà chàng uống hàng ngày, khi uống đến liều cuối cùng, trúng loại độc gì cũng không thể phát hiện ra, mà phát hiện được thì đã không còn bất kỳ thuốc nào giải được.

Tôi đặt tên cho loại độc dược này là "Khán châu thành bích".

"Thím La, thím đã nghe nói chưa? Bây giờ bên ngoài đang đồn đại, ngày mai tân phu nhân mượn xác hoàn hồn sẽ đến, không những dung mạo thay đổi mà mắt cũng không bị mù nữa."

"Vú Trương, vú ở trong phủ lâu nhất đã gặp thiếu phu nhân rồi, vú thấy người đó có đúng là thiếu phu nhân không?"

"Cái này tôi cũng khó nói rõ ràng, ăn uống ngủ nghỉ của cô ấy vẫn giống như trước. Nhưng nếu... tôi dám chắc đó là hai người khác nhau."

"Kể ra thì, vị thiếu phu nhân này của chúng ta vẫn thật kỳ dị. Vô duyên vô cớ mất tích trong đêm tân hôn, sau đó vô duyên vô cớ lại xuất hiện, mắt lại khỏi mù như có phép tiên."

Bà ta hạ giọng nói nhỏ: "Này, tôi thấy, chưa biết chừng là ma cũng nên..."

Tôi đằng hắng một tiếng, lời bàn tán trong nhà bếp tức thời dừng lại. Tôi mới đẩy cửa vào, mấy người bên trong quả nhiên tỏ ra lúng túng.

Tôi cười với họ, "lúc trước Tây quân muốn ăn bánh bột lọc nhân tôm, đã làm xong chưa?"

Một bà vội đưa chiếc khay có nắp đậy, "xong rồi, xong rồi! Chúng tôi đang định bê lên, đâu dám phiền thiếu phu nhân đích thân lấy."

"Đằng nào cũng tiện đường. Không dám quấy quả mấy vị, tôi lấy đồ rồi đi đây!" Tôi đón lấy khay, nâng váy quay đi vừa bước qua bậc cửa lại ngoái đầu, "ầy, dưới ánh mặt trời, tôi có bóng nên chắn chắn không phải là ma."

Mặt họ bỗng đỏ lựng.

Tôi vừa cười, vừa bê khay đi về Hậu hoa viên, Cung Thất đang đợi toi đánh cờ ở nhà Thuỷ đinh hóng mát, nhìn thấy tôi chàng nhướn mày hỏi: "Có chuyện gì vui mà nàng cười suốt vậy?"

"Vâng, biết nói thế nào..." Tôi láy bánh ra đưa cho chàng, giọng chầm chậm, "chàng có tin là có ma không?"

Ánh mắt chàng xao động, đăm đăm nhìn tôi, "có người nói bậy gì với nàng chăng?”

Xem chừng chàng có biết những lời đồn kia.

Tôi cười nghẹo đầu hỏi: "Nếu thiếp là ma thật, chàng có sợ không?" Lời vừa dút, chàng đột nhiên giơ nhấc tôi bế lên đùi chàng.

Tôi ngẩn người, chàng ôm rất chặt, gục đầu vào vai tôi giọng khe khẽ như tiếng thở dài nhưng rất kiên định: "Không sao, đối với ta dù nàng là người hay ma, mắt loà hay sáng đều không quan trọng. Quan trọng là nàng đã trở về, bây giờ nàng ở bên ta. Như vậy là đã đủ rồi."

Tôi rụt tay vào ống tay áo, bấm móng vào lòng bàn tay đau điếng, cảm giác đó nhắc tôi, tất cả trước mắt chẳng qua là giấc mộng nhưng... rất đẹp.

Lời nói của chàng quá hay.

Tôi đặt tay mình lên tay chàng, dõi nhìn mặt trời tàn bên ngoài nhà Thuỷ đình, cuối cùng cười nhạt: "Châu Hạnh thật có phúc, đời này gặp được Tây quân."

Người may mắn không phải là tôi, người được Cung Thất yêu sâu nặng như vậy xưa nay chỉ có một mình Châu Hạnh.

Đáng tiếc cô ta cũng chỉ là cô gái phúc mỏng, mất tích bí hiểm như vậy. Thực ra tôi đã tung người đi dò la tung tích cô ấy nhưng không có kết quả, một người mà ngay bang sat thủ và người của Cung phủ đều không tìm thấy, hoàn toàn có thể coi như đã chết.

Tôi mong là cô ta đã chết. Bởi trên đời này không có cô gái nào có tư cách được hưởng phúc lớn như vậy, người được hưởng những thứ vượt quá phúc phận sẽ bị giảm thọ. Châu Hạnh là một ví dụ điển hình. Tôi phải luôn nhắc mình điều đó.

Tôi đứng nhìn ánh tịch dương đỏ ối nơi chân trời.