Bích Huyết Kiếm - Chương 17 phần 2

Thiết La Hán nói:

- Đói lắm rồi! Đói lắm rồi! Thừa Chí nói:

- Chúng ta lên tửu quán này để tái ngộ hai viên sĩ quan ngoại quốc cũng hay.

Tám người cùng lên thẳng tửu lầu. Thiết La Hán đi trước, vừa lên tới trên lầu đã thất kinh là lớn. Thì ra lúc ấy mấy tên lính Tây phương cầm súng đang nhắm Thanh Thanh bắn. Tay chúng đã sửa soạn bóp cò, tình thế rất nguy hiểm. Còn phía bên kia, Bĩ Đắc, Lô Mông và cô gái Tây phương Nhược Khắc Lâm đang ngồi cạnh cái bàn. Thấy các vị anh hùng lên lầu, Lô Mông liền chỉ nói mấy câu tiếng Tây, lại có mấy tên lính ngoại quốc chĩa súng vào các người, quát lớn bắt giơ hai tay lên.

Nhanh trí không, Thừa Chí cầm luôn hai cái bàn bày ở đó ném luôn vào người bọn lính Tây, đồng thời phi thân tới cạnh Thanh Thanh, vít vai nàng cùng ngồi xổm xuống. “Đoành, đoành...” mấy tiếng, khói bốc lên trần nhà, mấy khẩu súng đều nổ một lúc, những đạn chì bắn ngập cả vào mặt bàn.

Sợ hỏa khí lợi hại, Thừa Chí vội kêu gọi:

- Tất cả xuống hết nhà dưới. Nắm tay Thanh Thanh, chàng cùng mọi người xuyên qua cửa sổ nhảy xuống dưới lầu. Lô Mông cả giận, rút luôn súng ngắn ra bắn xuống phía dưới.

Thiết La Hán kêu “ối chà!” một tiếng, mông đít đã bị bắn trúng một phát, đứng không vững sắp ngã. Sa Thiên Quảng vội chạy lại đỡ luôn. Các người nhảy lên mình ngưạ phóng về phía Nam. Hồi đó hỏa khí của ngoại quốc bắn xong một phát, phải nhồi thuốc và đạn vào mới bắn tiếp được. Nên tới khi bọn quan binh Tây phương sửa soạn bắn tiếp thì mọi người đã chạy mất dạng rồi. Thừa Chí và Thanh Thanh cùng cưỡi chung một con ngựa.

Thừa Chí kề ngựa lại gần Thiết La Hán:

- Chuyện xảy ra như thế nào?

Thiết La Hán đáp:

- Lúc nãy chúng tôi theo bọn người Tây phương, tới chỗ trú ngụ của chúng để dò la tin tức.

- Rồi sao nữa?

- Tôi và anh Sa Thiên Quảng lẻn vô phòng nghe bọn chúng nói chuyện, nhưng toàn là tiếng lạ nghe không rõ, kế đó mấy tên này bỏ ra ngoài, tôi lẻn vào đánh cắp được mấy khẩu súng.

- Ồ! Mấy khẩu súng ở đâu rồi?

- Tôi cất một khẩu, còn một khẩu cô Thanh Thanh đòi lấy nên tôi đã trao cho cô ấy.

Thừa Chí day lại:

- Chú Thanh, khẩu súng đâu rồi?

Thanh Thanh cười cười:

- Khẩu súng tôi cất trong mình đây.

- Chú đưa tôi xem.

- Lát nữa rồi sẽ xem.

Thiết La Hán hỏi:

- Viên tướng quân, giờ chúng ta trở về khách sạn phải không?

- Phải! Chúng ta trở về khách sạn rồi mọi chuyện sẽ tính sau.

Thanh Thanh ngồi chung ngựa với Thừa Chí ra đường, nhắm khách sạn đi lại. Thanh Thanh bỗng bật cười như có điều gì thích thú lắm.

Thừa Chí quay lại:

- Chú Thanh cười gì đấy?

Thanh Thanh đáp:

- Lát nữa anh sẽ rõ.

Thừa Chí hoài nghi trong lòng nhưg không hỏi nữa vì biết Thanh Thanh tính hay giận hờn, có thể phóng xuống ngựa bất ngờ và chạy đi. Chàng cũng không hiểu tại sao mình lại chìu chuộng cô gái đến thế, nhưng vì còn nhiều chuyện bận rộn, chàng không có thời gian nhàn rỗi để suy tư.

Chợt nghe phía sau bọn người Tây phương đuổi theo rất gấp, Thừa Chí nói:

- Chúng ta hãy chạy mau, bọn chúng có hỏa lực nguy hiểm lắm! Bọn người chạy nhanh hơn trước, dần dần tiếng người đuổi theo ở phía sau xa ra rồi mất dạng.

Lúc bấy giờ bọn Thừa Chí, Thanh Thanh mới cho ngựa đi chậm lại.

Tới khách sạn, mọi người ngồi quanh một cái bàn trò chuyện về hỏa lực của bọn người Tây phương.

Thanh Thanh cầm một khẩu súng lên chơi, sơ ý bấm phải cò, đoành một tiếng, khói tỏa ra khắp căn phòng. Sa Thiên Quảng, ngồi ở phía trước nàng, may nhanh nhẹn chui ngay xuống gầm bàn mới tránh khỏi tay bay vạ gió đó. Thanh Thanh sợ hãi, mặt tái xanh, vội xin lỗi luôn mồm. Sa Thiên Quảng lè lưỡi và nói:

- Lợi hại thật! Mọi người đem hai khẩu súng kia ra xem xét, thấy trong nòng có nhồi thuốc súng và đạn chì.

Thừa Chí nói:

- Thứ thuốc nhồi trong nòng súng vốn của người Trung Quốc mình phát minh. Chúng ta chỉ dùng nó làm pháo đốt chơi, còn người Tây phương lại dùng thứ thuốc này làm vũ khí giết người. Đội hình Tây Âu này có hơn trăm người, hơn một trăm khẩu súng cùng bắn ra một lúc, hỏa lực mạnh vô cùng chứ không phải chuyện chơi đâu! Mọi người đều nghĩ cách để đối phó. Hồ Quế Nam nói:

- Viên tướng công, đệ có một quỷ kế nho nhỏ này, không biết có thể dùng được không?

Thừa Chí hỏi:

- Kế gì thế? Anh cứ việc nói ra.

Hồ Quế Nam vừa cười vừa nói kế đó ra. Thanh Thanh vỗ tay khen ngợi. Sa Thiên Quảng công nhận kế đó rất thần diệu. Ngẫm nghĩ một lúc, Thừa Chí cũng nhận thấy cần phải mạo hiểm như vậy mới có kế quả, liền hạ lệnh bố trí.

Hãy nói, Lô Mông và Bĩ Đắc vì tranh dành nàng mĩ nhân Nhược Khắc Lâm mà đêm khuya đấu kiếm. Sự thật thì Nhược Khắc Lâm với Bĩ Đắc yêu nhau từ lâu rồi. Lô Mông tuy tự phụ là người phong lưu mã thượng, nhưng không có dịp may để xen chân vào, sau mới nghĩ ra cách đấu kiếm. Rốt cuộc đấu kiếm y cũng thua tình địch, liền sử dụng gian tế, lại bị Thừa Chí bỗng ở đâu tới phá bĩnh. Vì y là quan trên, Bĩ Đắc đành phải nghiến răng cam chịu, chỉ cẩn thận đề phòng, chứ không dám báo thù.

Ngày hôm đó, bọn quan binh Tây phương đi tới một làng nọ. Làng này tên Vạn Công thôn, chỉ có ba trăm nóc nhà thôi. Lúc ấy trời đã tối, bọn chúng đành phải vào nhà thờ của họ Vạn để nghỉ ngơi. Nửa đêm, bỗng nghe tiếng người ồn ào, lính canh gác vội vào báo cáo, trong làng có nhà cháy. Lô Mông và Bĩ Đắc dậy ngay tức thì, thấyngọn lửa rất gần nơi đó liền ra lệnh cho binh lính khuân hết các thùng thuốc súng ra để ngoài bãi cỏ.

Trong lúc bối rối, những người trong làng xách thùng nước cứu hỏa đến quây quần nhà thờ nọ và hắt nước khắp mọi nơi. Lô Mông quát hỏi nguyên nhân tại sao lại tạt nước tứ tung như vậy? Mấy chục người làng nói với Thông dịch viên Tiền Thông Tứ rằng:

- Nhà này là nhà thờ duy nhất của chúng tôi. Trong lúc cháy nhà chúng tôi phải đem nước tới tạt cho thật ước trước, để khỏi bị thần hỏa cháy lan tới.

Thấy lời nói rất có lí, Lô Mông đành phải để yên cho họ tạt nước. Ngờ đâu người làng tạt vào cả những thùng thuốc súng. Bọn binh lính thấy vậy vội dùng cán súng đánh đuổi. Nhưng đuổi sao cho xuể? Có người còn tạt cả vào người các binh lính Tây phương nữa. Không đầy chốc lát, xung quanh nhà thờ bịt tạt nước đẫm như hồ ao. Tất cả đại bác, thùng thuốc súng, và những khẩu súng của binh cũng bị ướt đẫm cả. Còn căn nhà bị cháy đã tắt dần.

Cho tới sáng ngày hôm sau, Lô Mông và Bĩ Đức ra xem xét, thấy thuốc súng bị ướt sũng hết thảy, liền nghi ngờ có người âm mưu, vội ra lệnh cho lên đường ngay.

Đang sửa soạn khởi hành, bỗng có một tên tiểu quan quân tới báo cáo rằng:

Không hiểu tại sao đêm hôm qua, những lừa ngựa kéo đại bác đã chạy mất dạng hết cả. Giận quá, Lô Mông liền đánh cho tên tiểu quan quân một trận nên thân, rồi sai Tiền Thông Tứ dẫn các binh lính Tây phương vào trong làng trưng tập. Ngờ đâu, cả một cái làng to lớn như thế mà không co một con lừa con ngựa nào cả.

Sự thật thì người làng hay tin trước đã đem lừa ngựa giấu đi nơi khác rồi. Lô Mông đành phải sai Bĩ Đắc đi cùng Tiền Thông Tứ tới thành thị phía đằng trước mộ tập vậy.

Bĩ Đắc liền đem theo bốn tên lính và dắt Nhược Khắc Lâm đi theo. Lô Mông tức giận vô cùng, liền đốc thúc binh lính mở thùng lấy hết thuốc súng ra, đổ lên trên chiếu phơi.

Cho tới chiều tối hôm đó, thuốc đã sắp khô hẳn, Lô Mông đang sai binh lính đổ vào thùng thì bỗng có mấy chục mũi tên lửa ở trên nóc nhà đầu làng bắn tới. Thuốc súng gặp lửa bùng cháy rất chóng. Bọn binh lính thấy vậy, mất cả hồn vía, bỏ chạy tán loạn.

Hò hét mãi, Lô Mông mới đốc thúc nổi binh lính xếp hàng thành đội ngũ và bắn một loạt súng vào các nhà của dân làng. Trong đám khói lan man, có mấy chục đại hán chạy trốn vào trong rừng. Kiểm điểm thuốc súng, Lô Mông thấy bị đốt cháy mất 80, 90 phần trăm, buồn bực vô cùng, chỉ có cách canh phòng cẩn thận thêm để khỏi bị cháy nốt chỗ còn lại thôi. Chờ tới ngày thứ ba, Bĩ Đắc mới trưng tập được mấy chục con lừa ngựa về để kéo đại bác.

Hôm sau, bọn quan binh Tây phương lại tiếp tục lên đường. Đi được bốn năm ngày, hôm đó đi tới khe núi, một con đường hiểm đạo, vừa dốc vừa chật hẹp. Lô Mông và Bĩ Đắc chỉ huy binh sĩ, mỗi chiếc đại bác dùng mười người ở phía sau lôi kéo, để khỏi bị bắn trượt xuống chân núi.

Đường núi càng đi càng nguy hiểm, trong lúc mọi người đang chăm chú vào lối đi, bỗng trong khe núi có mấy chục mũi tên bắn ra. Mười mấy mũi bắn trúng binh lính Tây phương và mười mấy mũi bắn trúng lừa ngựa. Đau quá, mười mấy con lừa ngựa cứ cắm đầu mà chạy thẳng, bọn lính Tây phương kềm giữ sao nổi. Khẩu đại bác nào cũng nặng mấy ngàn cân bị lừa ngựa lôi kéo xuống dốc, thế mạnh vô song. Chạy được vài trăm thước, lừa ngựa bị sa xuống hố đào sẵn ở giữa lối đi, thế là hai khẩu đại bác lôi theo bị lật nhào, chỉ nghe thấy “ùm ùm” mấy tiếng, mấy tên lính bị đại bác đè bẹp như tương. Tiếp theo đó tám khẩu đại bác đi sau cũng bị sa hố lật đổ rồi lăn xuống hang núi hết cả.

Lô Mông và Bĩ Đắc sợ hãi mất hết hồn vía còn Nhược Khắc Lâm thì kinh hãi đến chết giấc. Chưa kịp ra tay cứu tỉnh nàng nọ, Bĩ Đắc đã phải ra lệnh cho binh lính phục xuống, để chống cự lại kẻ địch.

Đối phương núp trong hố đào sẵn ở bên sườn núi, nên súng đạn không sao trúng được. Mà những mũi tên của địch bắn xuống binh lính Tây phương không có chỗ tránh núp, nên chết khá nhiều.

Chiến đấu hơn hai tiếng đồng hồ, binh lính Tây phương không sao thoát khỏi vòng vây.

Lô Mông nói:

- Đạn dược của chúng ta còn rất ít, bây giờ có cách xông bừa đi mới được mong thoát chết.

Bĩ Đắc nói:

- Gọi Tiền Thông Tứ tiến lên hỏi xem, bọn thổ phỉ muốn đòi hỏi cái gì?

Lô Mông nổi giận nói:

- Với bọn thổ phỉ chỉ có cách xông pha thôi, chứ nói với chúng sao được? Nếu anh không dám xông thì để tôi xông trước vậy.

Bĩ Đắc nói:

- Cung tên của thổ phỉ lợi hại lắm. Hi sinh và mạo hiểm như vậy vô ích.

Lô Mông đưa mắt nhìn Nhược Khắc Lâm, rồi nhổ nước mắt xuống đất chửi đổng rằng:

- Hèn nhát! Tức giận xanh cả mặt, Bĩ Đắc hạ thấp giọng nói:

- Bây giờ ta không thèm cãi vã với mi vội, chờ đánh lui được bọn thổ phỉ ta sẽ cho mi biết vô lễ như thế này sẽ phải trả giá đắt như thế nào?

Lô Mông nhảy lên lớn tiếng kêu gọi:

- Ai là anh hùng hảo hán thì theo ta! Bĩ Đắc cũng lớn tiếng gọi:

- Đại tá Lô Mông muốn chết đấy à?

Bọn binh lính Tây phương cũng biết xông ra khỏi cái hố ấy là bị tên bắn chết ngay, nên không ai chịu theo Lô Mông cả. Quả nhiên, Lô Mông múa kiếm lên khỏi mặt hố, đi được vài bước, đã bị một mũi tên xuyên qua ngực nằm lăn ra chết liền.

Nhờ có súng ống lợi hại, kẻ địch không dám tới gần, Bĩ Đắc với bọn binh lính mới cầm cự được một ngày một đêm, chỉ mong có quan binh Triều đình tới cứu viện.

Ngờ đâu quan trường thời cuối Minh hủ bại vô cùng, muốn điều binh khiển tướng phải làm công văn thỉnh thị và thương nghị xuất binh, vân vân, ít ra năm bữa nửa tháng mới xuất binh được.

Đến chiều tối ngày thứ hai, bọn binh lính Tây phương đói và khát đến nỗi tối sầm mặt mày, đành phải giơ cờ trắng xin hàng. Tiền Thông Tứ lớn tiếng nói:

- Chúng tôi xin đầu hàng! Trên sườn núi có một người lớn tiếng trả lời:

- Muốn hàng thì vứt hết súng ống ra ngoài hố trước! Bĩ Đắc nói:

- Chúng ta không thể nào nộp hết súng ống cho chúng được.

Thấy bọn Tây phương không nộp súng, bên kia cũng không tấn công. Một lát sau, bỗng có mùi thịt rất thơm đưa tới. Những binh lính Tây phương đã nhịn đói hai ngày rồi, làm sao chịu được nữa. Ai nấy đều vứt cả súng ống lên trên mặt hố, rồi nhảy lên giơ tay đầu hàng. Thấy đại thế không còn, Bĩ Đắc đành phải hạ lệnh nộp súng đầu hàng. Bọn binh lính xếp súng thành một đống rồi kêu la đòi ăn uống.

Tiếng tù và ở sườn núi nổi lên, trong hàng có mấy trăm tên đại hán nhô ra, tay cầm cung tên chĩa vào bọn binh lính Tây phương. Tám, chín người thủ lĩnh đi trước từ từ tiến tới. Nhìn rõ mặt, Bĩ Đắc mới hay người thủ lĩnh của địch là thiếu niên đã cứu mình thoát nạn ở trong khách sạn bữa nọ. Bên cạnh y là người đàn bà mặt nam phục, mà bữa trước bị Lô Mông bắn rớt cái mũ xuống đất. Nhược Khắc Lâm lên tiếng nói trước:

- Ồ, ra là bọn người có phép thuật ma quỷ đấy! Bĩ Đắc rút thanh kiếm ở bên hông ra, hai tay bưng ngang nộp Thừa Chí, tỏ vẻ đầu hàng thật sự. Y nghĩ thầm, thua người thanh niên tài ba này, cũng không đến nỗi nhục nhã lắm.

Thoạt tiên, ngẩn người giây phút, không hiểu đối phương làm như thế để làm gì? Sau Thừa Chí mới hay, đó là lễ nghi đầu hàng của người Tây phương, liền xua tay, rồi nói với Tiền Thông Tứ rằng:

- Thầy thông nói cho y hay. Binh lính Tây phương đem đại bác tới giúp chúng tôi bảo vệ đất nước, chống ngoại xâm, chúng tôi rất cảm tạ và coi y là người bạn tốt.

Tiền Thông Tứ thông ngôn lại cho Bĩ Đắc hay. Gật đầu tán thành, Bĩ Đắc giơ tay bắt lấy Thừa Chí. Giây phút sau, Thừa Chí lại nói tiếp:

- Nếu các người tới Đồng Quan, giúp nhà vua giết hại nhân dân, chúng tôi tất nhiên không để cho yên đâu! Bĩ Đắc nói:

- Thế ra là nhà vua bảo chúng tôi đi giết hại nhân dân đấy à? Điều này tôi không hay biết gì cả.

Thấy vẻ mặt y thành thật, Thừa Chí biết y không nói ngoa, liền nói:

- Hiện giờ nhân dân Trung Quốc khổ sở, thiếu ăn thiếu mặc, nên ai nấy đều mong mỏi co người đứng ra lãnh đạo, đánh đổ nhà vua để thoát khỏi bể khổ. Nhà vua hay tin Lý tướng quân quật khởi, hướng dẫn cách mạng, liền ra lệnh cho các người đem đại bác đi giết hại nhân dân.

Bĩ Đắc cảm động, liền nói:

- Tôi xuất thân cũng là người nghèo, rất hiểu đau khổ của giới đó như thế nào! Thôi tôi trở về nước tức thì.

Thừa Chí nói:

- Thế thì hay lắm! Ông nên cho binh lính đi theo một thể.

Bĩ Đắc liền tập họp bộ đội, xếp hàng chuẩn bị lên đường. Thừa Chí bảo bộ hạ đem rượu và thị ra thế đãi binh lính Tây phương ăn một bữa no say. Bĩ Đắc giơ tay lên kính chào Thừa Chí, rồi ra lệnh cho binh sĩ lên đường.

Thừa Chí lớn tiếng gọi:

- Tại sao ông không đem những súng ống này đi?

Tiền Thông Tứ thông ngôn lại, Bĩ Đắc ngạc nhiên nói:

- Những súng đó là chiến lợi phẩm của các ông. Chúng tôi được các ông buông tha mà không bắt nộp tiền chuộc mạng, đã cám ơn quý ông khoan hồng đại lượng lắm rồi! Thừa Chí cười nói:

- Ông đã mất số đại bác mà không đem súng ống này đi, tôi chỉ sợ về tới nơi đại bản doanh, ông bị khiển trách nặng nề hơn. Thôi, đem đi cả đi! Bĩ Đắc nói:

- Thế quý ông không sợ chúng tôi dùng những súng này bắn lại quý ông hay sao?

Thừa Chí cả cười:

- Đại trượng phu, nhất ngôn kí xuất, tứ mã nan truy. Nam nhi hảo hán Trung Quốc chúng tôi rất trọng nghĩa khí, đã coi ông là hảo hán thì không bao giờ còn nghi ngờ ông nữa! Bĩ Đắc thấy chàng trai như vậy, càng cảm động thêm, liền ra lệnh cho binh lính bồng hết súng ống, rồi xếp hàng ra đi.

Đi được một quãng đường, càng nghĩ càng kính phục Thừa Chí, Bĩ Đắc ra lệnh cho binh lính ngồi nghỉ ngơi, rồi cùng Tiền Thông Tứ quay trở lại móc túi lấy một gói đồ ra đưa cho Thừa Chí và nói:

- Thấy ngài hào hiệp như vậy, tôi xin tặng một vật này.

Mở gói đồ ra xem, Thừa Chí mới hay đó là bản đồ một hòn đảo. Trên đó có chú thích rất nhiều chữ Tây phương, không hiểu gì cao, ngẩng đầu nhìn Bĩ Đắc với vẻ mặt nghi ngờ chất vấn.

Bĩ Đắc nói:

- Đây là một hòn đảo lớn ở về phía Nam, cách bờ biển độ hơn một nghìn dặm. Khí hậu trên đảo rất ôn hòa, các sản vật rất phong phú. Thật không khác gì một nơi thiên đường, khi đi qua đó, tôi đã lên quan sát rồi.

Thừa Chí hỏi:

- Chẳng hay ông tặng cho tôi bức địa đồ này để làm gì?

Bĩ Đắc trả lời:

- Quý ông ở đây chiến đấu vất vả như thế này, thà đem những người thiếu ăn thiếu mặc ra đó khai khẩn, còn sung sướng hơn nhiều.

Thừa Chí cười thầm và nghĩ rằng: “Tâm địa của người ngoại quốc này cũng tốt đấy. Nhưng y có biết đất nước Trung Quốc chúng ta lớn rộng biết bao? Dân chúng có hàng ức, thì cái đảo nho nhỏ này làm sao đủ ở được?” Nghĩ đoạn, chàng liền nói:

- Cái đảo này không có người ở hay sao?

Bĩ Đắc đáp:

- Đảo đó có khi giặc bể Tây Ban Nha tới ở ít lâu lại đi. Có khi không có một bóng người nào. Các vị anh hùng hảo hán như thế này thì sợ gì bọn giặc bể ấy?

Thấy y có lòng thành thật như vậy, Thừa Chí cảm tạ và nhận lấy. Bĩ Đắc vừa đi khỏi, Tiền Thông Tứ cũng đi theo. Thanh Thanh bỗng kéo tay tên thông ngôn đó lại và quát lớn:

- Lần sau, ta còn gặp ngươi tác oai tác quái, bắt nạt đồng bào thì liệu hồn nhé?

Bị kéo tai đau quá, Tiền Thông Tứ không dám kêu la chỉ năn nỉ nói:

- Tiểu nhân không dám ạ! Xin hảo hán tha cho...

Thừa Chí chỉ huy các người xem xét lại mười khẩu đại bác, thấy hư hỏng hết cả, liền ra lệnh cho lấp đất lên. Thế là những hỏa khí giới lợi hại ấy đều bị vùi chôn dưới hố, không còn tang tích gì nữa.

Thấy đại công đã hoàn tất, Thừa Chí cùng các hào kiệt và bọn Phạm Phi Vân liên hoan nửa ngày. Sáng sớm ngày hôm sau, chàng chờ chàng câm và Hồng Thắng Hải tới mới khởi hành đi lên Bắc Kinh.

Lần này công của Hồ Quế Nam lớn nhất, tất cả kế hoạch làm ướt thuốc súng, đào hố đánh bẫy, vân vân, đều do y nghĩ ra. Từ đó mọi người đều kính trọng chứ không coi thường y như trước nữa.