Bão đồng - Chương 02 - Phần 2
Cải ngao ngán:
- Ôi chao! Hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ, mà lại thế a!
- Dân chúng em cũng muốn làm chủ lắm chứ. Nhưng khốn nỗi người ta có để cho chúng em được làm chủ đâu. Ruộng đất, trâu bò của bà con góp vào đấy. Công sức của mọi người đổ mồ hôi sôi nước mắt mới làm ra hạt thóc đấy. Thế mà người mặt bán đất lưng bán trời lại chỉ được ngày vài lạng thóc ướt; còn đứa thảnh thơi xách túi rẻo bờ thì được đủ cân đủ lạng, lại toàn thóc khô, thóc tốt. Thằng gù lưng làm cho thằng ngay lưng ăn, thì bụt cũng phải chau mày. vỏ quýt dày có móng tay nhọn, mấy người cậy quyền cậy thế ức hiếp dân lắm, tư túi nhau nhiều, thì bà con chúng em cũng phải có cách làm nuôi con cái, chứ chẳng lẽ đẻ chúng ra lại để chúng chết đói. Còn đã vào họp tác xã thì ai chẳng mong làm ăn khấm khá, nước nổi thuyền nổi, hợp tác giàu thì dân cũng giàu, chứ hợp tác đã nghèo thì dân cũng chỉ còn cách ăn cháo thôi, bác ạ. Thế nên hôm nọ nghe ông Mải nói: “Ông Cải về làm bí thư huyện rồi”, trong bụng em cũng thấy mừng: “Bác Cải về, may huyện mình có mở mày mở mặt ra được chăng”.
Cải bỗng thấy bồi hồi xúc động trước lời nói chân tình của một nông dân chất phác, lại như thấy có cái gì thân thiết tuột khỏi tầm tay. Anh nói với Túc, mà mắt lại nhìn sang ông Mải:
- Nhưng tôi về thì ông lại làm đơn xin ra Đảng rồi, chứ có chịu ở lại góp sức cùng đảng bộ giải quyết tình hình phức tạp đó đâu. - Nói đến đây, Cải bỗng như trút sự buồn bực, tức giận rất vô cớ. - Nói đến những chướng tai gai mắt thì ai cũng tỏ nỗi bất bình, có khi còn đùng đùng nổi giận, muốn lật tung lên tất cả nữa kia. Nhưng khi cần có mình góp sức gỡ bỏ cái gai ấy đi, thì lại né sang bên, như kẻ lẩn trốn, chả còn hiểu thế là thế nào nữa?
Vậy nhưng Túc vẫn hiểu câu Cải vừa nói là ngầm ý trách móc, hờn giận với ai. Túc nhìn Cải, cười cười:
- Thế thì bác chưa hiểu ông em rồi. Ông em làm đơn xin ra Đảng cũng là muốn giữ thanh danh cho Đáng đấy!
Ông Mải tiếp lời:
- Nói thật với bí thư huyện uỷ, lúc nhà cửa hư hỏng, động mưa là trong nhà như ngoài sân, tôi còn dám cho vớt cả ao gỗ lên lót đường kéo pháo. Giờ nhà xây sân gạch thế này, bấn sao tôi lại ra đảng. Nhưng đúng như Túc nó nói, chẳng qua cũng là muốn cho cái chi bộ này, đảng bộ này mạnh thực sự, trong sạch thực sự, chứ không phải chỉ là cái tiếng hão, cái danh hờ, còn thực chất bên trong lại rác rưởi, sâu bọ nhung nhúc, thì chỉ thêm làm mất thanh danh của đảng chứ nước mẹ gì. Thế nên, tôi mới tính nước rủ mấy ông đảng viên già làm đơn xin ra Đảng gửi lên huyện, tỉnh. Đơn tố giác còn sợ bức vách có tai, người này người kia thù oán, chứ của chính mình thì chẳng sợ ai thâm thù. Mà cấp trên đã nhận được đơn của mấy ông già này, hẳn là không nỡ làm ngơ, thể nào cũng cho cán bộ kiểm tra, tổ chức về tận nơi xem xét. Có cấp trên về tận nơi là có dịp nói thẳng, nói thật mọi điều hay, lẽ gian để đèn trời soi xét. Chứ còn cứ luẩn quẩn trong chân làng, ngõ xóm thì sao vượt khỏi ngọn tre, mà thấu tới thiên đình. Thế nên, ba chúng tôi mới làm đơn. Chứ còn cứ mũ ni che tai, thì dại gì lại đi làm cái việc ấy. Lúc mới nghe, anh giận quá mà bảo tôi là người “nông nổi”, cũng phải. Vì một người như anh, khi thấy những đảng viên lâu năm như chúng tôi xin ra Đảng không thể không ngờ vực, giận hờn, oán trách.
Cải như trút được mối lo, nét mặt bỗng tươi tỉnh:
- Thế mà ông không nói ngay từ đầu, làm con cứ ngỡ…
Ông Mải ngắt lời:
- Anh ngỡ tôi xin ra Đảng là vì thằng Điền chứ gì. Tôi biết trên huyện ông Trường, chủ tịch, ông Khanh, trưởng ban kiểm tra, rồi cả ông Giá, hồi còn làm bí thư huyện, cũng cho là thế. Nhưng thằng Điền nó bị cách chức chủ nhiệm từ năm ngoái, chứ đâu mới vài tháng nay. Mà tôi ngần này tuổi đầu, sao phải lận đận lên tận huyện xin các ông ấy một chữ “đại xá” cho con. Chả trách hôm trước vừa thấy tôi lên, ông Trường đã xồn xồn đuổi tôi về.
Cải bây giờ mới cảm thấy uẩn khúc của mình về ông Mải được giải toả. Nhưng còn cậu con trai ông vừa nhắc tới? Chờ cho ông hút xong điếu thuốc, anh mới với tay kéo cái điếu về phía mình, hỏi:
- Con cũng chưa hiểu thực chất việc Điền nó bị kỷ luật là thế nào, ông nhỉ?
- Kìa, bà ấy đi chợ về rồi kia. Anh Túc ới em Viên một câu, xem nó ở đâu, về làm cơm cho bà. Còn anh Cải cũng đi rẻo xem vườn tược, ao chuôm một lúc cho khuây khoả. Chuyện còn dài. Anh ở lại đây chơi, tối nay em nó đi học về, anh em chuyện trò mới đã.
Tôi ở bộ đội về giữa vụ gặt chiêm-xuân. - Hai anh em, Cải và Điền, vừa đặt mình xuống giường là Điền vào ngay câu chuyện. - Bấy giờ làng Phương Trà tôi đang khuyết chân đội trưởng sản xuất. Thực ra cũng không phải khuyết, mà chị Khang đến tháng đẻ. Bà con không muốn để người đàn bà bụng mang dạ chửa ngày ngày chạy xong xóc ngoài đồng, nên cho chị nghỉ chờ ngày nằm cữ. Tôi về còn chân ướt chân ráo, nhưng bà con tín nhiệm, cứ bầu, đành phải nhận. Công việc mới mẻ, nhưng với tôi cũng không phải lần đầu. Dạo học xong lớp mười, thi đại học trượt, lại chưa có đợt tuyển quân, tôi ở nhà làm đội trưởng một thời gian, rồi mới nhập ngũ. Nhưng dẫu sao trước kia tôi làm đội trưởng là của hợp tác làng; còn bây giờ là hợp tác toàn xã, quy mô lớn, chỉ một đội sản xuất bây giờ bằng cả một hợp tác xã ngày xưa rồi.
Đội Phương Trà của tôi có hơn hai trăm hộ, ngót một trăm héc ta đất canh tác, tương đương với gần hai trăm bảy mươi mẫu Bắc bộ. Trừ cánh đồng Dâu ruộng cao trồng thuốc lào và hoa màu, còn lại đều cấy năm hai vụ lúa, tuy không vào loại mật điền, nhưng cũng không thuộc loại chó ăn đá gà ăn sỏi. Với điều kiện dân cư, đất đai như thế, lẽ ra là thuận, anh nhỉ. Nhưng không riêng Phương Trà, mà cả hợp tác toàn xã Tiên Trung này, vụ nào cũng buông tay gặt là bỏ bữa tối, chỉ còn ngày hai bữa sáng, trưa, ăn để có sức mà ra đồng, chứ lắm nhà nhiều con cũng phải chia nhau từng bát. Tối đến đi từ đầu làng đến cuối làng chỉ thấy nhà nào nhà ấy im phăng phắc, một tiếng chó sủa cũng không, vì xã này nghiêm lắm, từ khi có chỉ thị của chính phủ cấm nuôi chó, cả xã tuyệt không còn một con chó nào. Có hôm tôi đi học trên thành phố về nhỡ phà, mãi khuya mới về tới làng, rõ ràng đã đi qua cửa chùa, tới quán ông Mận rồi mà tóc gáy vẫn cứ dựng hết cả lên, cảm giác giờn giợn như đi giữa bãi tha ma với những cái bóng ma đói vật vờ lúc ẩn, lúc hiện trước mặt.
Tôi nhận chân đội trưởng giữa vụ gặt tháng năm, nên suốt ngày cứ phải chạy xong xóc ngoài đồng. Thúc bà con gặt nhanh những chân ruộng trũng để nhỡ có mưa lụt cũng không lo lúa má mộng mạ ngoài đồng. Đuổi trẻ đi mót dứt cả bông thóc đút vào giỏ, vào bao. Thuê thêm thuyền, điều thêm người chở lúa về bến, vác lúa lên sân trục đập…Thôi thì cứ rối tinh rối mù, không còn định được việc gì trước, việc gì sau. Thế nhưng công việc nào có chạy. Một cánh ruộng chỉ ngót chục mẫu mà có tới gần trăm người cắt gặt, lượm bó, khuân vác, vận chuyển lúa xuống thuyền, chở về, nhưng vẫn câu dầm hai ngày mới xong. Lúa hôm nay gặt về cứ xếp đống trên sân kho, chờ gặt buổi mai, ngày kia mới trực đập. Vì cả đội mới có một chiếc máy tuốt lúa chạy dầu lậm tịt, sáu bảy người đứng tuốt cả ngày không sao nổi ba mẫu lúa.Trời tháng năm lại cứ sụt sùi khi nắng khi mưa. Lúa gặt ướt xếp đống, chỉ mưa vài ngày là nảy mộng hết. Buổi chiều ở ngoài đồng về, tôi bảo mấy bác tuốt lúa trên sân:
- Tối nay các bác tranh thủ làm đêm một hôm cho xong đống lúa này. Mai trời có mưa cũng không sợ. Còn như không mưa thì lại càng có máy, gặt về đến đâu tuốt luôn đến đấy.
Một ông quay lại, hỏi ngay:
- Đội trưởng khoán chỗ này bao nhiêu công thì nói thẳng ra. Chứ còn vẫn trả điểm như mọi khi thì bọn này nghỉ cho khoẻ, mẹ cháu nó mới mua rượu cho mà uống chứ.
Ông ấy nói xong, những người có mặt trên sân kho cười hơ hớ, có lẽ họ hiểu lý do mẹ cháu mua rượu cho uống là để làm gì. Còn tôi, chỉ lo đêm trời lại đổ mưa, liền hỏi lại ông:
- Vậy bác đinh tuốt xong chỗ này chừng bao nhiêu công?
Ông ấy nói giọng chán ngán:
- Công bao nhiêu là ở cán bộ định đoạt, chứ phó thường dân chúng tôi làm sao dám đưa ra.
- Bác không là cán bộ, nhưng là người trực tiếp làm. Công sức hao tốn bao nhiêu, bác còn rành bằng mấy nhũng cán bộ chạy bờ như cờ lông công ấy chứ.
Nghe tôi nói câu ấy, ông ta bỗng khà khà cười. Không biết ông cười vì cái gì, chỉ biết sau đó cái nhìn của ông với tôi đã có phần dìu dịu, ấm áp hơn ban nãy. Một bà đang cầm trang kéo thóc trên sân, vội đỡ lời:
- Thôi, chú ấy đã nói thế thì cánh ta cứ xin chín công chia cho sáu, mỗi người công rưỡi. Nếu để mai, vẫn phải sáu người tuốt cả ngày chưa chắc xong. Mà trời này, mai chắc gì tuốt được cả ngày. Khéo lúa lại xếp đống, nảy mộng cũng chưa biết chừng.
- Các bác cứ làm đi. Đội trả gọn các bác mười công. Nhưng chỉ nội đêm nay phải xong đấy!
Tôi nói dứt khoát. Mấy người gần như đáp cùng một lúc:
- Được! Đội trưởng cứ yên tâm.
Tôi về nhà ăn cơm tối. Dẫu túng thiếu thì mùa màng vẫn phải ăn ngày ba bữa, mới có sức làm lụng, chứ chưa thể cắt bữa tối, có cắt cũng phải gặt hái, cày cấy xong. Ăn xong, tôi đi hội ý ban đội. Cũng nói để anh biết, ban chỉ huy đội sản xuất có ba người, ngày gặp nhau không biết bao nhiêu lần, nhưng tối nào cũng phải ngồi lại với nhau, nhiều khi chẳng để làm gì, nhưng dường như không ngồi lại với nhau, điểm lại từng công việc trong ngày, nhắc nhau việc này việc kia, bảo nhau mai làm gì, ở đâu, thì dẫu khi lên giường rồi, vẫn thấy như còn thiêu thiếu cái gì chưa làm xong. Có lẽ tôi quen tác phong trong quân ngũ, làm theo điều lệnh, tối nào cũng điểm danh rồi, hay sao ấy. Mọi tối hội ý ban đội không có gì tranh cãi nhiều, chị Kha, đội phó, anh Thế, thư ký, thường tán thành ý kiến của tôi đưa ra. Nhưng tối ấy, anh Thế phản đối việc tôi khoán tuốt lúa rất kịch liệt. Lý do: Nay khoán gọn xã viên tuốt lúa, mai người ta đòi khoán cày bừa, cấy gặt, có khoán không? Tốt nhất là từ trước đến nay làm thế nào, giờ cứ thế mà làm, đừng cầm đèn chạy trước ô tô, làm khác đi, bị trên phê bình thì mình anh chịu, chứ ban đội không chịu chung trách nhiệm đâu. Nói đi nói lại mãi, anh Thế cũng chỉ giữ ý mình. Còn chị Kha thì đúng là rằm cũng ư mười tư cũng gật, bên nào cũng bảo được, được đấy, nhưng không ngả hẳn bên nào. Cuối cùng, tôi phải lấy quyền bí thư kiêm đội trưởng quyết định cứ để bà con làm, rồi rút kinh nghiệm, nếu bà con cho là hay, có lợi cho tập thể, lại có lợi cho cả xã viên thì ngày mai, ngày kia tiếp tục cho làm theo cách khoán tuốt lúa, còn không, lại sửa, cũng chưa chết ai cơ mà.
Đến mãi hơn chín giờ tối, tôi mới ra đến ngoài sân kho. Thấy đống lúa lúc chập tối còn to như đống rơm, nằm chạy dọc cái sân gạch rộng tới bảy sào, giờ đã vợi đi già nửa. Cứ đà này, chỉ khoảng mười một giờ đêm là đống lúa hết bay. Nhìn mọi người tuốt lúa hào hứng, mải miết tôi cũng thấy yên tâm về quyết định của mình. Hai chiếc máy tuốt, mỗi máy ba người đứng dàn hàng dọc, người nào người ấy hai tay cầm lượm lúa chít đẫy, đặt trên máy, còn chân đặt trên bánh đà, cứ thế quay đều. Những hạt thóc rào rào bật ra, trông như những chùm hoa cải vàng, ai đó tung lên thành cầu vồng rơi xuống sân như mưa rào. Phía hai đầu sân, gần chỗ hai chiếc máy tuốt lúa là bốn năm người, phần đông là nữ giới, tới tớp nhặt từng lượm rơm mấy người đứng máy vất ra, rồi lại nhanh tay rũ sạch rờm, chí còn lại toàn rơm, mới vất ra sau lung thành đống cao to như đống núi. Lượn đi lượn lại trên sân là hai bác nam giới đang kéo trang cào gọn thóc vào từng đống nhấp nhô như bát úp. Thấy tôi ra, anh Túc hỏi: “Chú thấy chúng tôi tuốt thế này nhanh hay chậm?”. Tôi chưa trả lời ngay câu hỏi của anh, mà hỏi lại mọi người: “Các bác thấy thế nào, khoán tuốt từ chập tối đến giờ hơn, hay để mai điều người làm ban ngày hơn?”. Ông Thi, một người đã gần sáu mươi, nhà neo người vẫn ham công tiếc việc, nhận tuốt lúa tối với mấy người ở độ tuổi trung niên, vừa quay lại phía sau nhặt lượm lúa cầm tay vừa bảo: “Làm thế này tiện nhiều chứ. Lúa chiêm gặt về trục tuốt được ngay thế này, dẫu gặp mưa đến mấy ngày cũng không lo mộng bủi gì nữa”. Một người khác tiếp lời: “Tranh thủ tuốt đêm để mai tập trung lao động ra đồng gặt nhanh lúa về là phải rồi. Đội trưởng cứ phát huy khoán tuốt lúa thế này cả vụ chúng tôi cũng làm”. Một chị đã đứng tuổi vội bảo: “Mới từ chập tối đến giờ đã thấy mệt bở hơi. Cả vụ thế này khéo lăn kềnh ra mà chết à!”. Một anh đứng cạnh vừa tuốt xong lượm lúa, vứt rơm ra ngoài xong, quay lại bông phèng: “Lăn kềnh ra thì chỉ có sướng, chứ sao mà chết được hả em!”. Chị kia cười ngặt nghẽo: “Khỉ gió cái nhà anh này, người ta nói ngay, lại bẻ ra eo”.
Nhìn mọi người vừa làm vừa chuyện trò vui vẻ, tôi cũng thấy nhẹ cả người. Tôi vào hiên nhà kho, chỉ thấy mỗi cái đèn hoa kỳ, ngọn nhỏ như hạt đỗ, đê bên cái điếu bát. Âm chén, nước nôi không; có cái gì. Dẫu là về đêm, tiết trời đã bớt nóng, nhưng tháng năm thời tiết vẫn oi ả. Thế mà từ chập tối đến giờ, ngần kia người làm quần quật, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, vẫn không có hớp nước uống. Tôi gọi ông Lạc, tổ trưởng bảo vệ vào, hỏi sao bác không nấu cho bà con nồi nước? Không có chè thì nước vối, hoặc nước sôi để nguội cũng được. Chứ ai lại để người ta ra cái bể nước mưa ở đầu nhà bếp, ngay gần chỗ nhà vệ sinh, mà uống thế bao giờ. Nhưng ông tổ trưởng bảo vệ lại nghĩ là tôi chưa nắm được quy định, chẳng biết từ bao giờ, nói ngay: “Xưa nay không có lệ nấu nước cho thợ gặt đập lúa uống đâu, ông đội ạ!”. Dẫu mới về, tôi cũng được nghe nhiều người nói về ông cựu chủ nhiệm hợp tác nửa đằng trong của làng tôi (cái thời làng tôi còn là hai hợp tác xã). Trước ngày sáp nhập các hợp tác xã làng lên quy mô hợp tác xã toàn xã, ông Lạc cùng một số cán bộ chủ chốt quyết định làm ngay một cuộc “tam thanh”. Đầu tiên là thanh lý tài sản, gọi là của “rẻ tiền mau hỏng”, gồm một loạt thứ trang bị ở trụ sở hợp tác như tủ đựng tài liệu, bàn ghế làm việc, tiếp khách, đồ dùng cấp dưỡng mỗi khi hợp tác có hội họp hoặc khách khứa về thì nấu nướng, ăn uống khỏi phải mượn nhà dân…Tiếp đến là thanh lý cái ao nuôi thả cá rộng hàng mẫu ở trước cửa đình, cho bán theo cách đấu thầu, bốc thăm, nhà nào bỏ tiền cao nhà ấy được. Dĩ nhiên, chỉ có nhà có máu mặt mới đủ sức mua, chứ người nghèo túng sao mà mua nổi. Tôi cũng nói luôn để anh biết, xưa kia làng tôi có cái đình to lắm. Theo các cụ kể lại, ngày xưa xã này chỉ có ba làng, không, Phương Lưu xưa chưa thành làng, mới chỉ là cái trại lẻ giữa đồng không mông quạnh, thì cả ba làng đều có đình. Nhưng đình làng tôi vẫn là to nhất, tuy về số dân, làng tôi lại không bằng làng Phương Trì bên kia. Mãi đến những năm tôi cắp sách đi học lớp một, lớp hai vẫn còn được học ở cái dải vũ đình làng, tuy đã bị đại bác bắn sập từ hổi kháng chiến chống Pháp, sau hoà bình mới sửa chữa lại, mà vẫn còn rộng bằng cả hội trường xã bây giờ. Nhưng sau này, khi sáp nhập các hợp tác nhỏ thành hợp tác toàn xã, người ta phá dỡ hết các đình miếu, chứ trước làng tôi cũng có đủ đình to, miếu đẹp, xóm làng sầm uất lắm. Đình làng đã to, trước đình lại có cái ao rộng và đẹp lắm, bốn chung quanh lát gạch, có xây bậc tam cấp lên xuống. Sau này, thời gian mưa nắng bào mòn, và cả con người tàn phá, làm bờ ao nhiều chỗ hư hỏng, hễ mưa to là lụt, cá mú phóng đi vô tội vạ. Nhưng thói đời để thì còn, bán đi thì mất. Cái ao đình to đẹp là thế mà trước ngày sáp nhập hợp tác nhỏ thành hợp tác toàn xã, ông Lạc cho bán cái ao đình, bảo để lấy tiền xây cống Châu giảm bớt úng lụt cho cánh đồng Thom, gọi là thanh tân (cải tạo, làm mới) lại đồng. Nào ngờ mất cả chì lẫn chài. Ao đình thành ao nhà. Còn cống Châu thành cống Cháo. Vì trước chưa có cống nước còn chảy tràn đi các nơi, xuống đầm sâu, ra đồng trũng, vào kênh mương hàng xã, hàng huyện. Nhưng xây xong cống thì như người bị vít cuống họng, ngạt thở, nước chảy chậm rì rì. Thế là trước có bị úng lụt cũng chỉ một, hai ngày là nước rút; nhưng nay thì năm bảy ngày, thậm chí nửa tháng, cánh đồng Thom vẫn còn ngập nước trắng băng. Mấy năm ấy tôi còn ở bộ đội, khi về nghe kể lại cái chuyện “tam thanh” hồi ông Lạc làm chủ nhiệm hợp tác xã nhỏ, nghĩ vừa thương vừa giận ông, người đầu têu ra cái cảnh chợ chiều rã đám, trước khi hợp tác nhỏ sáp nhập thành hợp tác xã có quy mô lớn. Được chứ sao không được. Nhưng thực ra có chấm mút cũng chẳng đáng gì, vì hồi ấy, giá trị tài sản của một hợp tác nhỏ cũng không đáng là bao. Thế mới thương. Ba cái tủ đựng tài liệu và bàn ghế văn phòng hợp tác xã, ông Lạc mang chia cho cán bộ từ chánh phó chủ nhiệm đến đội trưởng, kế toán, tài vụ. Còn ao bán đi, dĩ nhiên là công khai, nhưng mức giá thấp gần như cho, và người trúng thầu cũng không ai khác là ba anh chị em nhà ông ấy. Thế mới lời ra tiếng vào rác tai. Nhưng rác tai nhất là cái cống, đến mấy năm liền xã này bị mất mùa lây vì cái cống ấy, hễ mưa to vài hôm là úng ngập, có vụ tháng năm mưa ngập trắng hàng tuần, lúc nước rút lúa mọc mộng xanh mặt nước.