Bão đồng - Chương 02 - Phần 3
Giờ tôi nghe ông Lạc nói câu ấy không hiểu có ý gì, nhưng chắc không phải ông không muốn kiếm ấm nước, ít ra là đun sôi để nguội, cho đám tuốt lúa uống đêm nay, không nỡ để họ uống nước mưa trong bể của bếp bảo vệ, vì những người làm kia có cả con rể, con gái ông chứ đâu chỉ có người dưng. Vậy có thể ông nhắc khéo tôi làm đúng cương vị người lãnh đạo, Cần gì có quy định thì làm, không có thì thôi, chớ đi quá đà kẻo lại như ông, roạch một cái từ chủ nhiệm xuống phó thường dân chưa biết chừng. Nhưng ông khác, tôi khác. Ông làm cuộc “tam thanh” để đục nước béo cò, ít nhiều chính ông hay những người trong gia đình, họ tộc, bạn hữu cũng được phần lợi lộc. Còn tôi, trong số gần hai mươi người đứng máy tuốt, giũ rơm, cào thóc kia, có ai là người nhà tôi đâu. Mà dẫu có, cũng phải làm cật lực cùng mọi người, lát nữa mới được tính công, chứ đâu chỉ ngồi chơi xơi nước được. Mãi mấy năm sau, khi tôi bị kỷ luật, hằng đêm nằm vắt tay lên trán suy nghĩ và nhớ lại những việc mình làm từ ngày xuất ngũ về địa phương, tôi luôn nghĩ tới câu nói của ông Lạc với tôi cái đêm đầu tiên tôi cho khoán tuốt lúa ở sân kho vụ chiêm năm ấy. Tôi là người có học, ít ra cũng hết lớp mười, lại có hàng chục năm trong quân ngũ, chưa bao giờ tin vào một cái gì mang màu sắc duy tâm thần bí. Thế mà mỗi khi nghĩ lại những việc đã qua, những người đã gặp, trong trí tôi lại hiện về cái dáng vóc thấp bé, nước da ngăm đen rắn chắc và giọng nói như chắt ra từng lời của ông Lạc, khi tôi hỏi đến nước nôi cho đám thợ tuốt lúa đêm ấy: “Không có lệ nấu nước cho thợ tuốt lúa uống đâu, đội trưởng ạ!”. Đúng là: “Nhân bảo như thần bảo”, phải chăng với sự từng trải của mình, ông chủ nhiệm hợp tác nhỏ ngày nào đã nhắc khéo tôi chớ làm cái gì vượt ra ngoài quy củ được định sẩn, kẻo lại rơi vào vết xe của chính ông đấy. Nhưng con người ta khi đã quá ham mê cũng dễ trở lên mù quáng, hay ít ra cũng như người quáng gà, chỉ nhìn rõ cái mình ham mê, còn mọi thứ đều mờ mờ nhân ảnh. Thế nên, khi ấy tôi nói với ông Lạc có phần hơi sẵng: “Không có lệ thì từ nay thành lệ, ôn? chạy vào bà Quý mua lạng chè, rồi về nấu nước pha trà cho bà con uống. Tiền, bảo bà ấy ghi sổ nợ. Đội trả thì trả chứ sao”. Thực, khi ấy tôi không thể ngờ, chỉ mỗi lạng chè tôi bảo ông Lạc đi mua mà sau này trở lên rắc rối, nào là tôi không có ý thức tôn trọng tổ chức, kỷ luật, từ khi mới làm đội trưởng đã tự ý phá bỏ quy định, lập quỹ đội chi dùng vô tội vạ, chỉ riêng ký sổ nợ tiền mua chè thời gian làm đội trưởng đã lên tới mấy trăm đồng. Nhưng đấy là chuyện về sau. Còn giờ tôi đang nói với anh về cái đêm đầu tiên tôi cho khoán tuốt lúa.
Khi mọi người nghỉ tay uống nước, hút thuốc xong, bà con lại ra sân, người tuốt lúa, người giũ rơm, cào rờm, trang thóc. Ông Lạc xách chiếc đèn bóng làm bằng cái vỏ chai cưa đầu cưa đít, lững thững đi vào gian đẩu nhà kho, nơi dành cho tổ bảo vệ nghi ngơi. Còn tôi ngồi một tý đã thấy mỏi lưng, ngả ngay xuống chiếc chiếu trải trên cửa nhà kho ngủ đi mất. Không biết tôi nằm như thế được bao lâu, vì đồng hồ tay tôi không mang, còn cái loa của đài truyền thanh xã mắc trên nóc nhà kho thì tuần chỉ kêu có hai tối thứ bảy, chủ nhật, hôm ấy tôi nhớ là một ngày giữa tuần. Tôi chi biết mình ngủ say lắm, say đến mức nghe láng máng như có người gọi đúng tên mình, lại không phải là mình, nhưng rồi vẫn ú ở như là thưa, như là nói với ai câu gì đấy, lại chẳng nói gì cả. Mãi đến khi có ai đó vào lay lay đầu tôi, hỏi: “Có xúc thóc vào, hay để ngoài sân mai phơi luôn, hả anh Điền ơi?”. Bấy giờ, tôi mới choàng dậy, mở bừng mắt, không còn biết mình tỉnh hay mơ. Mới chập tối đống lúa còn cao là thế, giờ đã không còn một lượm. Hai chiếc đèn soi cá của nhà ai mang ra, hắt ánh sáng vàng xuộm xuống cái sân đầy thóc. Khi mọi người cầm đèn lục tục ra về, tôi vẫn còn như mơ ngủ.
Mọi khi đống lúa ấy, gì chứ hai chục người tuốt đập, giũ rơm, cào rờm, trang thóc cả ngày là cái chắc. Có khi kẻng tan buổi làm, đống lúa chỉ còn mươi gánh người ta cũng đóng máy nghỉ, buổi sau làm tiếp, chứ chẳng tội gì lại cố tý nữa cho xong. Nhưng tối nay chỉ chừng năm tiếng đồng hồ đã xong. Máy lại không trục trặc một tý nào. Mà sao mọi ngày máy hay trục trặc thế, nào tuột xích, trật bi, sang bánh đà, có hôm đang chạy máy khựng lại, tưởng làm sao, vội gọi thợ đến tháo tung ra, thì chỉ là hết dầu. Thôi thôi, khéo không đêm tối các bố, các mẹ tuốt cho nhanh cho chóng rồi về, chứ làm sao lại nhanh thế được cơ chứ. Tôi hốt hoảng đến góc sân ngổn ngang những lượm rơm vừa tuốt xong, vơ vội một nắm lên sờ sờ nắn nắn từng bông, rồi lại từ ngang cây lên tận chúp cây rơm. Tuyệt nhiên không thấy một hạt, một gié thóc nào còn sót lại trong rơm. Tôi vất nắm rơm ấy xuống, rồi lại đầu kia vơ một nắm khác lên. vẫn như lần trước, sờ sờ nắn nắn từng bông, từng gié lúa. Không thấy một bông, một hạt thóc nào còn sót lại. Nhưng để chắc chắn, tôi vẫn sục tay vào đống rơm vơ một nắm ôm vào trong nhà, gọi ông Lạc dậy. Ngọn đèn soi cá được thắp lên. Tôi và ông mỗi người cầm một nắm rơm soi ra ánh đèn. Lượm nào lượm ấy chỉ còn trơ ra những thân cây tướp hết lá. Ông Lạc, với giọng tùng trải, bảo: “Cái giống tuốt lúa bằng máy, lăn giở đều tay, đến hạt lép cũng phải rụng, chứ đừng nói hạt chắc. Tuốt máy hơn đập tay là thế, chứ không chỉ nhanh thôi đâu, chú ạ”. Nhưng bao nhiêu vụ nay đã tuốt lúa bằng máy mà có nhanh đâu. Vụ nào lúa gặt ngoài đồng về cũng phải ủ trên sân kho qua đêm, chứ không hôm nào tuốt ngay được hôm ấy, là lẽ làm sao?
Đêm ấy, tôi không sao ngủ được. Cái câu hỏi kia cứ như ma chơi quay đảo trong đầu. Rõ ràng chỉ mấy tiếng đồng hồ buổi tối, họ đã làm nhanh gọn cả sân lúa, mà nếu để đến mai, vẫn những con người ấy, làm cả ngày chưa chắc đã xong. Cái gì tạo ra sự cách biệt trong cách làm việc của chính những con người ấy. Con người ta kể cũng lạ, ở chỗ nào lâu, làm việc gì nhiều, thường tự cho mình am hiểu kỹ về nơi ấy, việc ấy, khi làm cứ thế làm, được hỏng không cần đúc rút nguyên nhân. Đấy cũng là một thói quen tệ hại, một cách giẫm chân tại chỗ, chứ chẳng phải là sự từng trải, dầy dạn gì đâu. Tôi không thích làm theo thói quen, lặp đi lặp lại dễ thành nhàm chán, nhưng tôi muốn tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến hệ quả. Nên cứ trằn trọc nghĩ ngợi cả đêm. Gần sáng tôi lay ông Lạc dậy. Tay vừa dụi mắt, ông vừa hỏi giọng rất tỉnh, như cũng cả đêm không ngủ: “Đội trưởng không ngủ được, chắc muốn uống trà, để tôi đi đun siêu nước nhá”. Tôi bảo: “Không cần bác ạ, nước trong tích kia vẫn còn. Cháu thấy bác cứ trằn trọc thì gọi bác dậy nói chuyện cho vui thôi”. Ông Lạc nhìn tôi, hỏi: “Anh biết tôi trằn trọc là do cái gì không?”. Tôi bảo: “Dạ, cháu làm sao biết được trong đầu bác nghĩ gì!”. Ông Lạc cười: “Thế mà anh biết đấy!”. Ông chủ nhiệm hợp tác xã nhỏ nửa làng trong, như cách người làng tôi đến nay vẫn gọi thế, là ai cũng hiểu nói đến thời nào rồi. Ông chủ nhiệm hợp tác xã nhỏ nửa làng trong dường như vẫn còn cái máu của người đứng mũi chịu sào, dù việc to việc nhỏ vẫn để mắt tới, chứ không vì cái chức quyền đã tuột khỏi tay rồi thì cũng buông xuôi luôn. Tôi cười, nhìn ông Lạc hỏi theo kiểu người ta đánh bài ngửa: “Vậy thì bác nói xem, bác biết cái gì cháu nghĩ trong đầu? Rồi cháu sẽ nói vì sao bác trằn trọc khó ngủ”. Ông Lạc móc chiếc bật lửa trong túi áo, bật lửa, châm vào ngọn đèn hoa kỳ nhỏ như hạt đỗ xanh, rồi quay ra tắt cây đèn soi cá treo ngoài hiên. Trời tháng năm, hừng đông đã rực một màu đỏ ối. Ông Lạc quay vào, ngồi xuống chiếc bàn uống nước đặt bên chỗ nằm, bảo: “Trời này chỉ một hai ngày nữa là mưa lụt đấy, anh ạ. Muốn gặt nhanh gọn thì cứ phải cho khoán như tuốt lúa tối qua thôi. Đã khoán tuốt được thì sao không cho khoán gặt?”. Thì ra, điều làm ông mất ngủ cũng là điều tôi nghĩ mung lung cả đêm. Nhưng với một người từng lo toan công việc xóm làng bao năm trời, ông Lạc có phần còn nghĩ xa hơn tôi tưởng. Tôi vội hỏi: “Sao bác lại nghĩ đến việc cho khoán gặt?”. Ồng Lạc nói như từ lâu đã nung nấu lắm: “Khoán tuốt lúa trong sân, khoán gặt ngoài đồng, hay gì gì chăng nữa, cái chính vẫn là người ta phải thực lòng, phải tự giác mới được. Chứ cứ bắt phải thế này, phải thế kia, nhưng người ta không thực lòng, không tự giác, thì một cán bộ, chứ đến mười cán bộ cũng chả có sức đâu theo xã viên mà thúc như thúc tà được mãi”. Được lời như cởi tấm lòng, tôi quay sang nói với ông: “Bác ủng hộ cháu nhá!”. Ông Lạc nói chắc như đinh đóng cột: “Không riêng tôi, nhiều người ủng hộ. Cứ yên tâm làm đi!”.
Thế là hôm sau tôi giao toàn bộ cánh đồng Bùn, hơn ba mươi mẫu, cho bà con gặt khoán. Lao động chính gặt một sào, phụ mười thước, tính bằng một công. Lấy lao động làm chuẩn, nhưng trên thực tế tất cả những người trong gia đình có khả năng cắt, lượm, bó, khuân vác lúa đều được ra đồng làm, chứ không nhất thiết chỉ có người lớn mới được ra đồng như mọi khi. Có một thực tế là lâu nay cứ đến mùa gặt, các trường lại cho học sinh nghỉ, ít là một tuần, nhiều đến chục ngày. Nói rằng cho nghỉ học đê các cháu giúp bố mẹ gặt hái, nhưng cơ chế ngặt nghèo của hợp tác xã có cho trẻ con dưới mười sáu tuổi ra đồng làm lụng giúp bố mẹ đâu. Thậm chí có vụ còn cấm trẻ con bén mảng ra đồng, ngoại trừ một việc là dong trâu ra và đón trâu về cho thợ cày. Cứ như thể chúng là lũ phá hoại, hễ ra đến đồng là tuốt lúa, bẻ ngô, phải kiên quyết ngăn chặn. Thế nhưng, chẳng mấy vụ cấm đoán, ngăn chặn được. Bởi không ai nỡ để con ở nhà chơi bời lêu lổng, mà ngoài đồng thóc rơi vãi từng đống, lúa gặt sót ê hề. Vậy là những nhà có con cái chạy nhảy được bố mẹ bày cho đủ mọi cách để ra đồng, mẹ gặt đi trước con mót theo sau. Hễ thấy bóng bảo vệ là chúng chạy toá hoả như vịt tháng sáu, có đứa láu cá ngồi thụp xuống giữa hai ống quần mẹ, còn bà mẹ thì đứng đực ra, tay hua hua cái liềm như thể chí đường cho bảo vệ đuổi đứa mót. Nhiều lần tận mắt thấy những cảnh ấy trên cánh đồng, tôi không sao diễn tả được tâm trạng của mình khi ấy, vừa ngao ngán, tiếc nuối, lại vừa cảm thông, chia sẻ. Nhưng điều buồn nhất, là lâu nay chúng ta vẫn hô hào đến khản cổ “hợp tác xã là nhà, xã viên là chủ”, nhưng ba tháng trông cây đến ngày lấy quả thì chỉ vì muốn được nhiều công điểm, mà người ta cắt gặt vội vàng để sót, để rơi rụng không biết bao nhiêu là thóc ở ngoài đồng. Rồi lại tự lập luận rằng lọt sàng xuống nia đi đâu mà thiệt, bố mẹ cắt không hết thì đã có con cái theo sau nhặt, chứ có mất đi đâu đâu(!). Quả như lời ông Lạc, cái chính là người ta có thực lòng, có tự giác hay không. Chứ một khi lòng người đã không thuận, thì mọi sự ràng buộc đều trở nên mỏng manh, chắp vá, tạm bợ kiểu chân không chằng, đầu không chốc, không thể bền vững được.
Thế nhưng, khi khoán gặt cho xã viên thì ngay ngày đầu tiên đồng Bùn đã đông nghịt người gặt từ sáng sớm. Thôi thì chồng nào vợ ấy, mẹ nào con ấy, từ mờ đất đã í ới gọi nhau dậy cơm nước, rơm đai, liềm hái, xe cải tiến kéo ra đồng nhận ruộng gặt. Đội cử ra một tổ bốn người khoẻ, nhanh nhẹn, dậy sớm đi đo lúa, giao cho từng gia đình cắt gặt, chiều lại ra kiểm tra xem cắt gặt có sót lúa, rụng thóc không? Được hai ngày, chính xác là một ngày rưỡi, thì chiều anh Thế đi họp xã về bảo tôi: “Đội mình bị phê bình là dong công phóng điểm đấy. Cả bí thư đảng uỷ, chủ tịch uỷ ban xã và chủ nhiệm hợp tác đều yêu cầu đội Phương Trà thực hiện đúng quy định: Chỉ xã viên mới được ra đồng, nghiêm cấm cảnh mẹ gặt đi trước, con mót theo sau. Nhất thiết phải gặt tập trung, ra đồng, về nhà theo hiệu kẻng”. Không hiểu sao mấy ông trên xã lại sợ “dong công phóng điểm”, hay sợ người khác làm trái với cái việc lâu nay họ vẫn làm là “phạm thượng”, mà chưa tiện nói ra chăng. Dẫu sao, tôi vẫn bảo anh Thế: “Dù có phải chi thêm vài trăm công, nhưng lúa được đưa về nhà nhanh, ít rơi rụng, nhỡ có mưa to gió lớn cũng không để lúa nảy mộng ngoài đồng là lợi to rồi. Anh cứ động viên bà con làm, xã có phê bình tôi xin chịu trách nhiệm, chứ không để ảnh hưởng đến ban đội đâu”. Thật may cho chúng tôi, hay nói như ai đó, làm việc gì mà có trời phù ắt là thành, đội tôi vừa buông tay liềm gặt xong hơn năm chục héc ta lúa, sớm nhất hợp tác, thì cơn bão số 3 ập đến tàn phá không biết bao nhiêu mà kể. Ông Thuật, hồi ấy làm phó chủ tịch uỷ ban xã, thay mặt đảng uỷ xuống lệnh cho tôi điều người ở Phương Trà sang hỗ trợ bên Phương Trì gặt chạy lụt cánh đồng cửa chùa Đôi. Tôi vừa bị phê bình về tội xé lẻ cho xã viên khoán gặt, trái quy định tập trung quy mô lớn, giờ lại phải điều người sang gặt chạy lụt cho một đội lâu nay vẫn làm ăn rất đúng quy cách. Kể cũng trái khoáy. Nhưng sót ruột vì lúa đang ngâm nước ngoài đồng, tôi vẫn đưa bà con làng này sang gặt cho Phương Trì.
Nhưng thật ngược đời, xong vụ gặt, một hôm tôi lên xã họp, ông Thuật gọi tôi vào phòng làm việc của ông, nói vẻ thân tình, nhưng nghe ra lại đượm ý răn đe: “Chú mới ở bộ đội về, lại mới làm đội trưởng, kinh nghiệm còn ít, chúng tôi cũng bỏ qua. Nhưng nếu vụ sau còn khoán thế nữa là kỷ luật đấy!”. Cái lợi đã nhỡn tiền, còn đe kỷ luật. Kể cũng đáng sợ. Nhưng tôi nghe vậy, biết vậy, không nói lại với ông ấy nửa lời, vì biết có nói cũng chẳng lại, bởi những người như ông Thuật đâu dám đi ngược lại ý kiến của tập thể, của cấp trên, chỉ biết răm rắp làm theo, bất kể đúng hay sai mà thôi. Thế nhưng, có người trong đội biết tin, lại khích lệ: “Các ông ấy nói thế nào, mặc. Cái gì lợi cho bà con xóm láng, cứ làm!”.