Bão đồng - Chương 03 - Phần 3

Tôi tránh không nói đến hai tiếng “ăn thề”, chỉ nói là “cùng nhau thề”, vì sợ động đến chuyện thề bồi, ông lại phê phán là mê tín dị đoan thì còn đủ là rách việc. Thế mà ông đã dằn giọng, bảo:

- Lại còn thế nữa!

- Vì mới một đội làm nên phải giữ kín, bác ạ!

- Vậy dễ cả hợp tác xã làm thì không cần giữ kín à? Anh lầm!

Ông nói thế có nghĩa là trong lòng ông cũng xuôi xuôi. Tôi muốn cười thật to cho! Ài những giây phút căng thẳng, nặng nề từ khi bước chân vào nhà ông đến giờ. Nhưng kịp nén, bảo:

- Bác tán thành với đề xuất của tôi rồi đấy nhá!

Bí thư Biền dè dặt:

- Nhưng phải có ý kiến của thường vụ đảng uỷ mới được.

Dĩ nhiên ý kiến chỉ đạo của thường vụ là cần, nhưng thường vụ có ba người, hiện giờ chỉ còn hai, vì sau khi anh Nhạ về tỉnh, tôi lên thay anh làm chủ nhiệm, nhưng huyện uỷ chưa chỉ đạo bầu bổ sung thường vụ, nên vẫn khuyết một. Thế nên tôi đề nghị với ông Biền đưa vấn đề này ra bàn trong cuộc họp các bí thư chi bộ, trưởng ngành giới xã, ban quản lý hợp tác xã và các ban chỉ huy đội, nghĩa là, một cuộc họp mà ở xã lâu nay quen gọi là họp dân chính đảng. Sở dĩ có cuộc họp với thành phân rộng như thế, vì tôi cũng ý thức được việc giao ruộng khoán cho nông dân là một vấn đề lớn và hệ trọng, chứ không phải là việc có tính nhất thời mà bảo bàn qua loa là xong. Vì vậy, trước khi triển khai thực hiện phải được bàn bạc dân chủ, rộng rãi, tạo sự nhất trí cao và tìm ra cách làm có hiệu quả. Tôi cũng nghĩ, việc này thiết thân đến bát cơm manh áo của mỗi người, mỗi gia đình nên đã không đưa ra thì thôi, chứ đưa ra bàn rộng rãi rất có thể được mọi người tán thành làm ngay và sẽ có nhiều cách làm hay. Thực bụng nhiều người, kể cả bí thư Biền, tôi nghĩ là cũng biết khoán như thế là có lợi, nhưng chưa dám nói, chưa dám làm vì còn rụt rè, chờ đợi, ngóng trông nhau, sợ sệt cấp trên. Biết đâu chỉ vì một ý kiến đề xuất giao ruộng khoán cho hộ mà bị trù miệt không biết đến bao giờ. Nhưng khi đã có người khơi mào, thì như hòn than ủ bấy lâu âm ỉ, chỉ chờ ngọn gió thuận chiều thổi đến giữa một ngày đẹp trời là lập tức cháy bùng lên. Việc giao ruộng khoán cho xã viên vừa đưa ra trong hội nghị dân chính đảng liền được mọi người nhất trí, hầu như không có ý kiến nên hay không nên khoán, mà chỉ có bàn cách khoán thế nào cho công bằng, bảo đảm cho xã viên, hợp tác xã và nhà nước đều có lợi, chứ không thiên về lợi ích của một bên nào, nhưng lại khuyến khích được mọi người chăm lo công việc đồng áng.

Nói thì như vậy, nhưng sự thực bao nhiêu việc được đưa ra bàn, không phải một cuộc mà có tới vài ba cuộc họp của đảng uỷ, của chính quyền, của hợp tác xã. Họp chung, lại họp riêng từng bộ phận: kế hoạch để lập định mức khoán mỗi sào ruộng người lao động đảm nhận làm bao nhiêu khâu canh tác, được hưởng bao nhiên cân thóc, còn lại bao nhiêu khâu do tập thể làm, với số thóc được nhận là bao nhiêu. Rồi ruộng giao cho gia đình chính sách, thương binh, liệt sĩ như thế nào đê vừa bảo đảm việc thực hiện chính sách ưu đãi người có công, nhưng hợp tác xã lại không ôm đồm như trước. Lại còn nhà trẻ, lớp mẫu giáo cha mẹ có phải đóng góp nuôi con không, hay vẫn để hợp tác xã nuôi như bấy lâu; còn các cô nuôi dạy trẻ có nhận ruộng khoán, hay hợp tác xã vẫn trả thóc từng vụ như mọi khi. Ôi chao, biết bao nhiêu công việc đi theo cái quyết định hệ trọng ấy. Vậy mà, khi công việc chuẩn bị gần xong, chí còn chờ lên lịch giao ruộng khoán ở từng đội, thì trong một cuộc họp đảng uỷ xã, ông Thuật còn đưa ra câu hỏi: “Cho khoán thế này, huyện mà biết thì trách nhiệm ai chịu đây?”. Bấy giờ đã có ý kiến: “Đảng bộ xã chịu, chứ còn ai!”. “Thì đến cảnh cáo như Phương Trà năm nọ là cùng chứ gì”. Ai nói thế là muốn nhắc đến cái vụ Phương Trà, do bác Lạc làm chủ nhiệm năm nọ đã làm cuộc “tam thanh” trước khi sáp nhập các hợp tác xã nhỏ thành hợp tác xã quy mô toàn xã; nhưng lại quên bản chất của hai việc hoàn toàn khác nhau. Nhưng mà thôi, sa vào chuyện ấy làm gì, tôi đưa mắt nhìn ông Biền, vẫn thấy ông ngồi lặng lẽ, vẻ mặt bần thần. Cũng là lẽ thường tình, bởi ông là bí thư, đứng đầu một đảng bộ xã, huyện mà biết tất ông là người gánh trách nhiệm nặng nhất. Nhưng sự thực lại không do ông. Tôi đứng lên với một thái độ dứt khoát: “Lấy tư cách đảng viên, với cương vị chủ nhiệm hợp tác xã, nếu cấp trên biết mà phê bình việc Tiên Trung giao ruộng khoán cho xã viên, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm”.

Tôi thật không ngờ chỉ chưa đầy sáu tháng sau, tôi phải nhắc lại lần nữa câu nói ấy, chỉ khác là ở cấp cao hơn: thường vụ huyện uỷ.

Vụ chiêm xuân năm ấy là một vụ có rất nhiều khó khăn về thiên tai. Trước tết giá rét kéo dài. Sau tết mưa phùn dầm dề, hơn hai tháng liền không có một ngày thấy bóng mặt trời. Lúa cấy xuống xanh thì có xanh, nhưng cây rảnh rớt bó chặt gốc, không đẻ được nhánh. Rồi khi mưa hảnh, nắng hé lên thì sâu bệnh lại nở như trấu. Thế nhưng vụ chiêm xuân ấy, hợp tác toàn xã Tiên Trung chúng tôi vẫn đạt năng suất lúa cao hơn năm trước, chỉ kém mấy anh lá cờ đầu về năng suất lúa của huyện chút đính. Nhưng ái oăm thay, cũng bởi cái sự “nhảy vọt” về năng suất ấy mà chúng tôi đã bị kiểm điểm gay gắt.

Thu hoạch vụ chiêm xuân xong gần một tháng, theo cái lệ không biết đã có từ bao giờ, tỉnh, rồi sau đó là huyện, mở hội nghị tổng kết sản xuất chiêm xuân và phát động sản xuất vụ mùa. Sát ngày họp, sở nông nghiệp đưa xe con về tận nhà đón tôi lên để chuẩn bị nội dung báo cáo điển hình ở hội nghị. Tôi đi sáng, thì chiều ông Thuật lên gặp anh Trường, chủ tịch huyện, cũng là em rể Thuật, nói hết mọi chuyện ở Tiên Trung và việc tôi đầu têu khoán ruộng, ừ, thì cũng là một kiểu trâu buộc ghét trâu ăn thôi, nhưng kiểu buộc này gây hậu quả thật khó lường. Khi tôi đi họp trên tỉnh về, ông Biền đến nhà thở ngắn than dài: “Bí thư huyện uỷ cho gọi cánh mình lên tường trình trước thường vụ về việc giao ruộng khoán đấy. Biết ăn nói thế nào với các bố ấy đây. Khéo không lại như ông Lạc năm nọ thì công cốc!”. Câu nói của ông làm tôi nhớ lại hôm tôi đến nhà hỏi ý kiến ông về cho khoán ruộng, ông cũng nhắc đến vụ ông Lạc khi còn làm chủ nhiệm hợp tác xã nhỏ. Nhưng không với giọng buồn nẫu ruột gan như vừa nãy. Tôi thầm hiểu là ông Lạc ngày ấy chỉ mới làm bí thư kiêm chủ nhiệm hợp tác xã một làng; còn đằng này, ông đã làm tới chức bí thư đảng uỷ xã hàng chục năm nay, giờ lại vì cái chuyện khoán khiếc vớ vẩn do thằng nhãi nhép là tôi đầu têu, nên ông phải gánh chịu kỷ luật như ông Lạc năm nọ thì đúng là…công cốc thật! Tôi nghĩ vừa thương, lại vừa giận ông bí thư già. Tận tuỵ sớm hôm lo làm tròn trách nhiệm người đứng đầu một xã, nhưng khi có việc hệ trọng thì lại không dám lấy cái uy quyền của một người đứng đầu ra bênh vực cho người khác, gánh lấy trách nhiệm về mình. Nhưng nhớ tới lời nói của mình trước hội nghị dân chính đảng xã hôm họp bàn về khoán ruộng, tôi bảo ông Biền: “Bác cứ yên tâm, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước huyện uỷ, không để phải phiền luỵ đến bác”. Trên đường đạp xe lên huyện, chỉ có ba người: tôi, ông Biền và ông Sa, chủ tịch uy ban xã, tôi giao hẹn: “Tý nữa hai bác cứ để tôi báo cáo. Bao nhiêu

tội tôi nhận hết”. Ông Sa bảo: “ừ, anh báo cáo trước, huyện có hỏi gì nữa chúng tôi bổ sung”. Nhưng còn gì mà bổ sung. Sau khi tôi báo cáo hết những gì hội nghị dân chính đảng xã bàn và quyết định, thì anh Trường, không chỉ phê phán tác hại của việc Tiên Trung giao ruộng khoán là làm sống lại phương thức sản xuất cá thể, đưa nông dân đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa, mà còn nói nhiều về cá nhân tôi từ ngày ở bộ đội về làm đội trưởng Phương Trà đã cho khoán chui theo cách đó, rồi từ khi lên làm chủ nhiệm lại triển khai lối khoán ấy ra toàn xã, đê đi tới kết luận tôi cố tình đi ngược lại chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước, nếu không kịp thời ngăn chặn và có hình thức kỷ luật nghiêm khắc, thì cách khoán ở Tiên Trung trở thành ngòi nổ dây chuyền ra cả huyện, khéo không chính huyện uỷ lại bị kỷ luật tập thể thì còn ra thể thống gì nữa. Cuộc họp kéo dài suốt từ hai giờ chiều đến sẩm tối. Tôi có cảm giác như không còn là cuộc họp giữa cấp trên với cấp dưới bàn về một việc đã rồi để tìm cách tháo gỡ, cũng không đơn thuần là cuộc kiểm điểm sai lầm, khuyết điểm của một cấp uỷ cấp dưới, mà là một cuộc lấy cung kẻ phạm tội chống đối là tôi, hay ít ra cũng gần như thế, vì suốt từ khi tôi báo cáo xong, đến khi cuộc họp giải tán, tôi không được phép nói nửa lời nào nữa. Có, cũng có một lần tôi xin được ý kiến, nhưng anh Trường đập bàn đánh rầm một tiếng, chỉ tay về phía tôi với một vẻ căm tức tột độ: “Khoán cho lao động hay xã viên cũng đều là một cách đưa nông dân trở lại con đường làm ăn cá thể, tư bản chủ nghĩa. Đấy là một cái tội lớn: tội chống lại đường lối hợp tác hoá nông nghiệp của đảng. Kỷ luật đuổi ra khỏi đảng còn là nhẹ!”.

Nửa tháng sau, anh Trường về họp với đảng uỷ xã công bố quyết định kỷ luật tôi: cách chức thường vụ đảng uỷ kiêm chủ nhiệm họp tác xã và lưu đảng mười hai tháng. Quyết định thứ hai: bổ nhiệm ông Thuật vào thường vụ đảng uỷ và phân công làm chủ nhiệm hợp tác xã toàn xã, chứ không cần chờ đại hội đại biểu xã viên bầu, như lâu nay vẫn làm. Rất may là mức kỷ luật của tôi chỉ đến thế, chứ không như anh Trường nói ở cuộc họp huyện uỷ hôm trước: đuổi ra khỏi đảng còn là nhẹ!

Nhưng dẫu sao, đến mấy tuần sau đó, tôi vẫn thấy ngao ngán cả người, chẳng còn thiết học hành, làm lụng gì nữa. Kỳ học tập trung ở trường đại học tại chức tháng ấy tôi bỏ. Thầy tôi khuyên: “Anh (thầy tôi vẫn gọi con cái trong nhà bằng anh, chị chứ không bao giờ xưng hô mày, tao) còn trẻ (năm ấy tôi hai mươi chín tuổi), mới vấp ngã một lần đã nhũn như con chi chi thì hèn lắm. Làm trai phải có dũng khí, thua keo này bày keo khác. Chứ hơi tý đã như gà phải cáo còn làm nên trò trống gì”. Rồi như để tôi khuây nỗi buồn, thầy tôi rủ anh Túc, hai nhà đóng gạch chung. Kể cũng không còn dịp nào thuận lợi hơn. Nhà tôi hổi chống chiến tranh phá hoại của Mỹ anh ở đây biết rồi đấy, ba gian nhà tre mái rạ tường đất. Tôi đi vắng, ở nhà chỉ có hai ông bà già và em Viên còn đi học. Ông cụ cũng mới chuẩn bị được ít bạch đàn, sau khi mang ra lót đường xong cũng bị giập gẫy gần hết. Vả lại, lưng vốn cũng không có, lấy gì mà xây nhà dựng cửa. Khi tôi mới ở bộ đội về, thầy tôi cũng muốn làm lại cái nhà để tôi còn lấy vợ. Nhưng vừa chân ướt chân ráo về tôi đã tham gia công tác ngay, ông cụ cũng không muốn bày ra làm gì nữa. Khi tôi nghỉ công tác cũng đúng vào mùa khô hanh. Đây là dịp cho những nhà có người làm, lại muốn xây cái sân, cái bếp, bể nước, nhà tắm, hoặc trường lưng một chút thì xây gian nhà gian cửa, có thể ra bơn bãi, thùng đấu lấy đất, hoặc lấy đất ngay góc vườn nhà đóng gạch mộc, rồi mua than về đốt lò cải tiến cũng không có gì vất vả lắm. Nhà tôi với bên anh Túc chỉ làm hơn một tháng đã đóng được gần ba vạn viên gạch. Thế nên bây giờ anh về mới có nhà xây thế này, chứ tôi còn làm chủ nhiệm đến bây giờ, có khi vẫn ở nhà tường đất cũng chưa biết chừng. Thật đấy! Tính ông cụ nhà tôi anh biết rồi. Còn tôi thì thà rằng ở túp lều bẹp, chứ xà xẻo của tập thể là tôi chúa ghét. Không phải cứ làm chủ nhiệm, chủ tịch, bí thư xã là muốn lấy gạch, lấy gỗ, cắm đất làm nhà thế nào cũng được đâu. Chẳng qua dân người ta không muốn phiền luỵ đến mình, không muốn mua chuyện, không tiện nói ra, nhưng trong bụng họ cũng khinh. Trước mặt thì bác bác cháu cháu, anh anh em em, một điều báo cáo chủ nhiệm, hai điều thưa chủ tịch, bí thư; nhưng sau lưng thì người ta một điều thằng ấy, hai điều thằng nọ, quân tham ô, đồ ăn cắp, nhục quá chó ấy chứ. Làm việc mà để người ta kính nể, tin cậy mới khó, chứ để người ta khinh nhờn, ngờ vực thì khó gì. Tôi không nói hay, chứ từ khi tôi làm đội trưởng, rồi chủ nhiệm, chưa lần nào bảo thư ký, thủ quỹ đưa một hào cho mình tiêu vào việc gì. Không phải tôi lúc nào cũng có tiền trong túi đâu. Làm cán bộ xã ăn công điểm tính ra bằng thóc, hết vụ hợp tác mới trả, chứ có được lĩnh lương bằng tiền hàng tháng đâu mà bảo lúc nào cũng có tiền trong túi. Nói thật với anh, có lần tôi đi học đạp xe từ nhà lên thành phố gần ba chục cây số, lại ăn ở tại trường suốt một tuần, trong túi chỉ có hai đồng bạc, lúc về vẫn còn năm hào thủ đáy túi, phòng khi đi đường xì xăm, xịt lốp còn có tiền sửa.

Tôi chán nản mất đến ba tuần. Rồi nỗi buồn cũng qua. Từ tháng sau trở đi tôi lại đạp xe lên trường học. Anh Đĩnh ngoài Phương Lưu, ngày ấy cũng làm bí thư kiêm đội trưởng như tôi. Vâng, giờ thì anh ấy làm phó chủ tịch uỷ ban phụ trách công an xã. Hai anh em học cùng lớp. Biết tôi bị kỷ luật còn lẽo đẽo đi học bằng tiền gạo nhà, anh ấy bảo, cũng là cảm thông với hoàn cảnh của tôi thôi: “Học về làm, chứ học về bỏ đấy thì học làm gì. Còn thoát ly thì chú không thể đi được nữa rồi. Đời nào ông Giá, ông Trường lại điều chú lên huyện. Mà dẫu đi đâu cũng không thoát khỏi chứng nhận của đảng uỷ, uỷ ban xã. Mà mơ với mộng thoát ly làm gì nữa, chú ơi!”. Tôi thực cũng chưa nghĩ đi học đê được đi thoát ly, nhưng học đê làm cái anh cán bộ địa phương cho tốt thì đúng là tôi có nguyện vọng. Nhưng từ nay nguyện vọng nhỏ bé ấy, chắc cũng không được nữa rồi. Dẫu sao, đã ngồi trên lưng cọp thì tôi cứ phải đi thôi. Gắng mà theo cho hết khoá, chứ bỏ thì tiếc lắm. Thầy tôi cũng động viên vậy, làm tôi thêm vững tâm.

Còn hợp tác xã, ngay sau khi tôi bị kỷ luật cách chức thường vụ đảng uỷ kiêm chủ nhiệm, thì Tiên Trung cũng không giao ruộng khoán nữa. Nhưng là nói hợp tác xã không khoán, chứ tôi biết tỏng có đội vẫn khoán ruộng cho hộ. Mà không riêng Tiên Trung, tôi còn biết huyện này cũng có mấy anh khoán cho hộ nữa cơ, nhưng có cạy răng bảy ngày họ cũng không nói. Vâng, cái đó thì tôi cũng không dám nói là cấp trên có quan liêu hay không? Nhưng đoàn kết, tối nghĩ là họ phải đoàn kết lắm thì tất cả cán bộ, đảng viên và quần chúng mới đồng thuận kín tiếng được như thế chứ. Đúng rồi, một khi mọi người đều ý thức được quyền lợi thiết thân của mình là ở chính cái cánh tay mình giơ lên và cái mồm mình há ra, thì người ta tự biết cách làm gì và làm như thế nào để bảo vệ quyền lợi ấy. Hay nói như kinh tế chính trị học mà tôi được học qua, thì một khi dân chủ được bảo đảm, tự do cá nhân được phát huy, sẽ trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển, có khi còn tạo bước đột biến khó lường. Nhưng này, anh có nghe thấy gì đấy không?

- Hình như có tiếng người kêu hay sao ấy cậu ạ?

- Đúng rồi, có tiếng người kêu!

- Lại như có cả bước chân đang chạy ngoài đường nữa là thế nào nhỉ?

Điền và Cải bỗng dừng câu chuyện, ngơ ngác hỏi nhau.

Hai người vùng dậy bước ra ngoài.

Trăng cuối tháng đã lên khỏi ngọn tre, toả ánh vàng, ánh bạc mung lung xuống cõi trần.

Đúng là có tiếng người kêu ngoài đầu làng, phía đầm sen, nghe rất rõ “Đánh cho chết! Đánh cho chết!”.

Lúc ấy, dễ chừng bằng người rấm chín nồi cám lợn. Ông Mải ngồi vót nan đan cả ngày cũng mỏi, lên giường nằm. Còn bà vào nửa làng trong, có cô cháu về đằng ngoại đang nằm cữ, gần tuần nay tối nào bá cũng vào ngủ với cháu. Điền đi học tập trung ở trường một tuần về cũng mệt, hai anh em ngồi ngoài bàn uống nước, chuyện trò được một lúc thì Điền rủ Cải vào giường nằm cho đỡ mỏi, nói chuyện được lâu. Nhà ngoài chỉ còn mình Viên với cây đèn hoa kỳ vặn nhỏ đến trong màn. Viên có thói quen trước lúc đi ngủ, buông màn xong thể nào cũng cầm chiếc đèn con vào soi muỗi, ở làng quê vườn tược rộng, bờ bụi nhiều, cây cối loà xoà, rậm rạp nên nhà nào cũng lắm muỗi. Bây giờ có thuốc phun, cũng bớt đi nhiều, chứ ngày xưa, tối đến nhà nào nhà nấy còn phải mang trấu, bẫn vào trong nhà đốt ủ cho khói nghi ngút để muỗi ngạt chết, hoặc táo tác bay ra ngoài, đậu vạ vật ở đâu đó cho người ngủ yên giấc, rồi khi ấy muỗi muốn tìm đến hơi người thì lại bay vào.

Đúng là Viên với Bính, con trai duy nhất của bà Bao, vợ liệt sĩ Phạm Công Bao (đàn bà vùng này thường chịu nước nép, lấy chồng là gọi luôn tên chồng, có người đến lúc chết, cháu con cũng không biết tên cúng cơm của bà, của mẹ là gì nữa), cháu gọi Phạm Công Thuật, chủ tịch xã, bằng chú ruột. Viên và Bính chưa có gì gắn kết với nhau, theo nghi thức đã thành tục lệ bền vững ở làng xã mỗi khi trai khôn lấy vợ, gái ngoan tìm chồng. Nhưng gần năm nay, nhất là từ khi Viên bị ban nông nghiệp huyện cho về giảm biên, sau khi Điền, anh trai Viên, bị kỷ luật, thì tự nhiên Bính lại hay sang Phương Trà, vào nhà Viên chơi. Viên ban đầu cũng chẳng nhận ra điều đó. Bởi khi ấy cô đang buồn. Buồn nẫu ruột nẫu gan. Chứ lại không. Ai đời học xong lớp mười, thi tốt nghiệp, nhưng không đủ điểm thi đại học, đành vào trung cấp nông nghiệp tỉnh vậy. Hai năm học vèo qua, tốt nghiệp loại ưu mà Viên chẳng đi đâu được, trừ một nơi sẵn sàng tiếp nhận bất cứ người nào, miễn là còn sức dài vai rộng, ấy là nông trường cói thuộc sở nông nghiệp nằm mãi tận vùng bãi Đông Hưng cuối sông đầu biển. Viên ở nhà. Cũng là hợp ý nguyện bà mẹ, chỉ muốn con ở nhà, rồi lấy chồng gần, có bát canh cần nó cũng mang cho.

Nhưng được ít lâu, chẳng hiểu sao ông anh trai vừa lên chức chủ nhiệm hợp tác tháng trước, tháng sau đã xin được cho cô em gái lên làm ở ban nông nghiệp huyện. Viên sáng đạp xe đi làm, trưa ăn cơm tập thể, tối lại đạp xe về ăn ngủ ở nhà với mẹ. Cứ tuần tự như thế. Được vài tháng, bà mẹ đã thấy con gái có gì khang khác. Quần áo giặt xong gấp cẩn thận, đặt vào giữa tờ báo khổ rộng, gấp lại, để xuống dưới chiếu đầu giường. Tối nào trước khi đi ngủ cũng đánh răng rất lâu. Trước chỉ đánh răng một lần sáng ngủ dậy, giờ đánh ngày hai lần. Đánh răng xong rửa mặt, chải đầu. Dễ đến một tháng, rồi hai, ba tháng chẳng mấy tối thứ bảy con gái không có bạn trai đến chơi. Anh nào cũng lễ phép, ra thưa vào gửi, một điều cháu, hai điều cháu, có anh còn mẹ mẹ con con ngọt như mía lùi. Vậy mà đời thật không còn biết thế nào, nay nắng mai mưa, thậm chí sớm nắng chiều mưa, khó lường. Viên đang là một cô gái danh giá, bạn trai nườm nượp tới nhà, thì đùng một cái tháng trước anh trai bị kỷ luật cách chức chủ nhiệm, tháng sau em gái cũng ngậm ngùi cầm tờ quyết định giảm biên về địa phương. Viên về ở nhà, với tâm trạng vô cùng chán ngán, dễ cả tháng không bước chân ra đến ngoài. Phần vì buồn bực, xấu hổ, bởi không phải người nào ở quê mỗi khi thấy người làng đi thoát ly, rồi lại quay về, cũng đều nhìn nhận với ý nghĩ cảm thông, chia sẻ mà thường là soi mói, khinh miệt. Phần vì sau khi Viên nhận quyết định giảm biên về nhà, bao nhiêu bạn trai mà hơn năm trời Viên đi công tác quen biết thân, sơ, đều bỗng nhiên xa lánh, không chàng nào bén mảng tới nữa.