Bão đồng - Chương 13 - Phần 1
- 13 -
Anh cháu vội vàng kéo đầu này, vuốt đầu kia cái chiếu hoa đã sờn nhiều sợi cói ở ngoài mép. Ông em chồng đặt bà chị dâu nằm xuống giường, trong tư thế nằm ngửa cho thoải mái. Xong, lại kéo thẳng hai tay cho xuôi dọc người, rồi cầm nhẹ hai chân vuốt vuốt cho thẳng. Bà Bao có lẽ từ sau ngày nhận giấy báo tử của chồng cũng chưa lần nào xúc động như lần này, nên đã đặt nằm xuống giường trong tư thế ấy mà vẫn thở gấp gáp như người hụt hơi. Ông Thuật vội bảo Bính đi rấp nước khăn tay mang vào đây, chú đắp lên trán cho mẹ cháu, nhanh lên. Khi thằng cháu tất tưởi đi ra bể nước đầu nhà, ông Thuật mới bỗng nghĩ ra, phải cởi bớt xống áo cho người ngất dễ thở. Nhưng khi vừa đặt tay lên chiếc cúc áo ngực bà chị dâu, ông em chồng ngập ngừng dừng lại nửa giây, chiếc cúc đã bật mở, để lộ ra làn da trắng mơn mởn và khuôn ngực của người đàn bà ngoài năm mươi nhưng ít sinh nở, ít va chạm với đàn ông, vẫn còn lùm lùm, ngồn ngộn. Đã thế cũng chẳng còn gì phải ý tứ giữ gìn, vả đây là việc cứu người có gì là xấu. Ông em chồng, như có đà, cởi luôn hàng cúc áo, để phơi ra giữa thanh thiên bạch nhật cái bụng bà chị dâu mỡ màng với phần trên đầy đặn, hai bầu vú vẫn còn căng cứng như vú con gái. Nhưng đúng vào lúc ông Thuật cởi xong hàng cúc áo, để phơi ra giữa thanh thiên bạch nhật cái bụng bà chị dâu mỡ màng, thì bất thần như có phép lạ, bà Bao ngồi bật dậy, hai tay kéo nhanh hai vạt áo, rồi lần lần hai hàng khuya đóng cúc, mắt lướt nhanh nhìn ông Thuật đang luống cuống tụt xuống khỏi giường, miệng ông lúng búng: “Bác ngất làm tôi lo quá!”. Nhưng bà Bao đã bước xuống giường, nhìn thằng con đang cầm cái khăn tay ướt vào đến cửa, bảo:
- Con vào mở hòm lấy cái túi con gói mảnh vải nhựa mang ra đây cho mẹ. - Nhưng mẹ phải bình tĩnh, không lại phát bệnh huyết áp thì gay.
- Mẹ bất ngờ quá đấy mà. Con cứ mang cái túi ra đây. Trong ấy mẹ để tấm ảnh bố và mẹ chụp chung trước ngày ông ấy đi B. Nếu đúng với tấm ảnh con vừa đưa mẹ xem thì chắc là bố con có người chôn cất cho ở đâu, mới lấy được tấm ảnh ấy. Chứ không, lúc nào ông ấy cũng cất kỹ tấm ảnh trong lần túi áo phụ cơ mà.
Bính từ trong buồng vừa đi nhanh ra, vừa giở mảnh vải nhựa gói cái túi con. Bà Bao và ông Thuật đã ngồi vào cái chõng con giữa nhà, thấy Bính ra, cả hai cùng đứng lên. Bà Bao nhìn con, bảo:
- Con biết đâu mà lấy. Đưa mẹ lấy cho nhanh nào.
Nhưng Bính vẫn vạch vạch cái túi con, nghiêng ngó. Cái túi bằng bàn tay, khâu làm mấy ngăn, không phải đê cất tiền vàng, tiền vàng làm gì có cất kỹ thế, mà toàn những thứ trông vào chẳng đáng gì. Tấm ảnh chụp riêng từng người của vợ chồng bà, ảnh thằng con không biết là chụp lúc được ba tháng, sáu tháng hay một năm, mà buổi dái còn ngỗn nghện cả ra. Thằng con vừa rút từng thứ để trong túi ra, giơ đến trước mặt mẹ, vừa hỏi:
- Dạo trước có lần mẹ lấy ra cho con xem, mẹ có để lại vào đây không?
- Bao giờ xem xong mẹ cũng cất kỹ vào đấy mà lại.
Ông Thuật bảo Bính:
- Cứ tìm kỹ xem, cháu ạ!
Bính vạch vạch cái túi ra, dán mắt vào một lần nữa, bỗng reo lên:
- A, đây rồi!
Khi tấm ảnh con, cũng vừa bằng hai ngón tay, rút ra khỏi túi, cả bà Bao và ông Thuật như cùng đưa tay ra cầm. Nhưng thằng Bính đã nhanh tay đưa cho mẹ:
- Đúng là giống tấm ảnh bác Thàng trên Bắc Cạn cho con mang về rồi, mẹ với chứ ạ!
Bà Bao hai tay cầm hai tấm ảnh, đưa ra trước mặt. Hai tấm ảnh đúng là cùng một kiểu, chụp nửa người, hai vợ chồng bà ngồi hơi nghiêng đầu vào nhau, tay phải của ông đặt hờ lên vai trái của bà, âu yếm, kín đáo. Lật phía sau hai tấm ảnh đều còn rõ nét chữ của bà viết nắn nót: “Kỷ niệm ngày anh về phép để đi B 15/9/67”. Bà Bao vừa định ấp tấm ảnh vào ngực, thì thằng con như sợ mẹ lại ngất lần nữa, vội nói:
- Kìa mẹ! Đưa ảnh cho chú Thuật xem với chứ.
Bấy giờ, có lẽ bà Bao mới chợt nhớ còn có chú em chồng ở đây, vội đưa cả hai tấm ảnh cho ông Thuật, bảo:
- Thế là nhà mình vẫn còn phúc, chú ạ!
Ông Thuật hai tay run run đón hai tấm ảnh bà chị dâu đưa cho, mới thoạt nhìn nước mắt đã lã chã lăn trên đôi má nhăn nheo. Ông cứ đứng ngây ra ngắm nhìn hai tấm ảnh. Không còn nghi ngờ gì nữa, hai tấm ảnh giống nhau như đúc. Người đàn ông ngồi bên trái đang quàng vai, ghé đầu vào người đàn bà còn rất trẻ, chính là người anh liền ruột với ông. Ngày thơ ấu dường như cả nhà chỉ có mỗi anh Bao là hay đe nẹt em nhất, vì tính em hay tắt mắt, lại nhát gan, nhát đòn, mỗi khi làm sai, làm vỡ cái gì cấm bao giờ dám nhận. Thế lại càng hay bị đòn đau. Có lần giữa vụ tháng mười, cả nhà ra đồng, chỉ còn mình em ở nhà trông nhà và trưa đến thì luộc nồi khoai lang, nấu ấm nước vối mang ra cho thợ gặt. Nhưng em mải chơi, chạy tót theo mấy đứa trẻ hàng xóm ra đổng hun chuột. Hun mải hun mê, đến nỗi để lửa bén vào, cháy cả đống lúa người ta gặt còn để đầu bờ chờ chuyển về nhà. Đận ấy, anh bực không để đâu hết bực, về đến nhà liền gọi em vào, buộc tay em vào gốc cau, rồi cứ thế lấy roi mây vụt đến nỗi gẫy tới chiếc thứ ba mà em cũng không chịu nhận có ra đồng hun chuột. May có em Ngấn đi đâu về, thấy thế vội chạy đến ôm chặt hai chân anh cả van xin, anh cả có đánh thì đánh em đây này, chứ đừng đánh anh Thuật đến toé máu ra thế kia nữa. Bấy giờ anh Bao mới chịu buông roi. Cái trận đòn nhớ đời ấy tưởng giúp Thuật bỏ được cái tính tắt mắt, dối trá thì giờ Thuật thảnh thơi, thanh nhàn lòng dạ biết chừng nào. Nhưng… Ối anh ơi là anh ơi! Sao cái lòng dạ em nó lại tối tăm ngu muội lâu đến thế, hở anh! Hờ anh ơi là anh ơi ơi ơ ơ ơ! Giờ thì quả báo nhỡn tiền, thằng con chú Lận… ơ hơ ơ hơ hơ hơ…! Ông Thuật cứ thế mà gào lên như người nhập đồng, rồi lăn ra nhà, làm hai mẹ con bà Bao sợ chết khiếp. Bính vội ngồi bệt xuống nền nhà, gỡ mãi mới lấy được hai tấm ảnh trong bàn tay nắm chặt của ông chú, chạy đi cất vào cái hòm trong buồng, xong lại chạy ra. Bà Bao luống cuống bảo con:
- Đưa chú lên giường, nhanh đi con!
Nhưng thằng con lại bảo:
- Chú bị choáng. Cứ để chú nằm yên một tý.
Thế nhưng ông chú không nằm yên, lại cứ gào thốc bộ lên:
- Ới anh ơi là anh ơi! Hôm nay anh về đến cửa đến nhà rồi, thì đón em đi với, anh ơi là anh ơi ời ời ờ ờ ơ ơ…! Anh để em sống làm gì mà không vụt cho em mấy chục cái roi mây nữa, cho em chết đi từ ngày ấy, lại để em sống đến bây giờ có khổ, có nhục cái thân em không, anh ơi ờ ờ ơ ơ…!
Mẹ con bà Bao nhìn ông Thuật như bị giời đày, bò lê bò toài ra nhà khóc lóc, kể lể dây cà dây muống, nghe không còn ra câu nào vào câu nào. Cả hai mẹ con lòng đau như muối xát, lại sợ đến mặt xanh da vàng. Không biết làm thế nào cho ông ấy tỉnh lại được. Mà chạy đi gọi bà vợ ông ấy, hay vợ chồng chú Lận lúc này chỉ tổ vạch áo cho người xem lưng, ầm làng lên. Rồi người ta lại chẳng biết cho, có khi còn đặt lời, không biết thế nào, chỉ thấy ông em chồng đến nhà bà chị dâu, chẳng rõ có ăn uống, rượu chè bùa mê thuốc lú gì không lại sinh ra thế, thì ê mặt với bàn dân thiên hạ. Thế là mẹ con bà Bao đành lấy hết sức bình sinh đưa ông Thuật lên giường, rồi bao nhiêu động tác ông em chồng làm cho bà chị dâu khi nãy thế nào, giờ bà chị dâu lại làm đúng như thế. Sau khi nghe mẹ giục đi rấp nước cái khăn tay mang vào đây, nhanh lên, Bính luống cuống không những chỉ rấp nước khăn tay, còn bê cả cái chậu men hoa đầy nước vào đặt xuống giường, cạnh chỗ ông chú đang nằm thở khò khè như kéo bễ lò rèn. Bà Bao vừa cởi xong hàng cúc trên áo ông em chồng, thì đứa con gái của Lận hộc tốc đâm xe đạp thẳng vào sân. Tưởng ai mang tin ra ngoài ấy mà nhanh thế, bà Bao vội nói như để dẹp chuyện:
- Bác cả chỉ bị cảm gió tý thôi. Cháu cứ về nước nôi khách khứa đi.
Nhưng con bé lại có vẻ bất ngờ, khi nghe tin ông bác bị cảm gió:
- Bác cả bị cảm lâu chưa, hả bác? Thế mà chẳng ai biết gì sất. Bố cháu lại bảo cháu đi tìm bác cả về, có ông Cải và mấy người trên huyện xuống thăm.
Ông Thuật không biết có nghe đứa cháu gái nói câu ấy không, liền bật ngồi dậy, cứ như có thần dược đổ vào, làm cả hai mẹ con bà Bao và đứa con gái Lận mắt đều trố ra như cái ốc nhồi. Không còn hiểu thế này là thế nào. Có đúng ông Thuật bằng xương bằng thịt đang ngồi trên giường, thọc thọc tay vào cánh tay áo, mặc áo vào, còn hai chân khua khua xuống đất như tìm đôi dép cao su của mình hay không. Nhưng chỉ chưa đầy nửa giây, ông Thuật đã đứng hẳn người xuống đất, vừa đóng cúc áo, vừa săn đón hỏi đứa cháu gái, với một giọng tỉnh như sáo, cứ như ông chưa hề bị cảm mạo đến nghẹt thở khi nào:
- Bí thư huyện uỷ xuống thật, hả cháu?
Nhưng đứa con gái mười lăm tuổi của vợ chồng Lận chừng như lại không biết bí thư huyện uỷ là ai, chỉ thấy sao nói vậy:
- Cháu cũng không biết có phải bí thư huyện uỷ thật hay không, chỉ thấy bố cháu bảo đi tìm bác về có ông Cải và mấy ông trên huyện xuống thăm.
Thế là ông Thuật tất tưởi ra sân, thấy chiếc xe đạp của đứa cháu gái dựng ở thềm, ông vừa bước đến dắt luôn xe ra, vừa nói vỏng vào trong nhà:
- Bác lấy xe đạp của mày về cho nhanh đấy.
***
Trong khi đó, ở ngoài xã, Điền và ông Liểu cùng mấy người cửa hàng mua bán đang sấp ngửa cân sắn cho xã viên.
Bấy giờ, những người mau chân đi nhận sắn cũng đã vào tới sân cửa hàng mua bán xã. Thấy đèn măng xông sáng bừng, ai nấy reo lên sáng quá, sáng quá, phải sáng thế này nhìn những củ sắn mới đã mắt. Ông Hoạt, bà Vang, rồi anh Hiển nhân viên cửa hàng mua bán, kẻ đạp xe, người chạy bộ cũng tất tưởi ra đến nơi. Đúng là gặp lúc đói kém, củ sắn, củ khoai cũng quý như vàng. Người nào người nấy vừa í ới gọi nhau, vừa rảo cẳng chạy bán sống bán chết ra cửa hàng.
Điền, với tư cách trưởng đoàn đi miền ngược mua sắn theo nhiệm vụ của xã giao, liền mời ông Hoạt và ông Liểu vào trong nhà hội ý thống nhất cách chia sắn, căn cứ danh sách những hộ đăng ký mua, trước khi đi Bắc Cạn xã đã giao cả cho Điền. Ông Liểu tính cẩn thận, vả lại cũng có ý ngài ngại anh em ông chủ tịch sau này lại trách cầm đèn chạy trước ô tô, vô nguyên tắc, đi mua sắn về chưa báo cáo lãnh đạo đã tự ý chia cho dân, thật là công chả thấy lại thấy tội, liền đưa ra ý kiến cho người đi báo cáo với đồng chí quyền bí thư đảng uỷ, kiêm chủ tịch uỷ ban xã và đồng chí chủ nhiệm hợp tác đã. Nhưng ông Hoạt, cửa hàng trưởng mua bán, lại bảo, thằng con ông Lận mất, hai ông ấy giờ đang tang gia bối rối, còn đầu óc đâu sắn với sằn mà báo cáo. Thôi, cứ chia cho dân người ta mang về, nhà nào luộc thì luộc, nhà nào nấu thì nấu, cốt có cái vào bụng đã. Một miếng khi đói bằng cả gói khi no, các ông ấy có khằn khò đã có tôi với anh Điền đây đứng ra chịu, chứ không để đến ông chịu đâu mà lo. Ông Liểu vội bảo, ấy, tôi lo là lo cho anh Điền, chứ riêng tôi, đã là phó thường dân còn sợ gì mấy ông lãnh đạo ấy khằn khò. Vả lại, còn có dân chúng đây cơ mà, muốn cho khách quan, công bằng, cứ mời bà con cử ra cho một, hai người giám sát cân. Có ai trong đám dân làng Phương La mới đến vội bảo, thế thì cử chị Miền. Đúng rồi, cử chị Miền. Cán bộ tài chính xã mà giám sát cân thì chỉ đúng quá, bác Liểu nhỉ! Mọi người nói cười, trêu trọc, ồn lên một chập. Tưởng Miền biết có ai vừa trêu mình với Liểu, lại tự ái không nhận. Nhưng Miền cũng đê cái thúng từ nãy vẫn khoác trên vai xuống dưới hiên, đi đến chỗ Điền, bảo đâu giấy bút đâu, chú đưa chị ghi mã cân cho. Thế là việc chia sắn chưa bắt đầu đã gặp thuận lợi.
Điền đọc danh sách những nhà đăng ký số lượng sắn mua, ông Hoạt cầm cân, có Miền đứng bên giám sát. Ông Liểu, anh Hiển, bà Vang và mấy người nam giới nữa nhặt từng củ sắn để vào thúng, vào rổ, vào sảo, rồi chuyển lên cân theo tiếng Điền gọi tên từng nhà. Đám chia sắn ồn ã, náo nhiệt, người nghe đọc đến tên thì hớn hở đưa thúng, đưa rổ, sảo vào nhận sắn; người chưa đến lượt nhận sắn thì chen vai thích cánh lại gần đống sắn, nghiêng nghiêng, ngó ngó từng củ sắn sần sùi làn da xám. Người này khen mấy củ sắn kia ngon, trông vỏ sần sùi thế mới bùi, mới bở. Người kia bảo, sắn không nên tham củ to, trông sần sùi thế chứ luộc ăn sậm sật, nước mẹ gì. Ai đó gọi đích danh chú Hiển ơi chú Hiển, bỏ hộ chị cái củ ấy ra đi, trông cái củ nó to thế kia là trồng lâu năm rồi, luộc ăn như củ chuối, chứ chẳng có tý bột nào đâu. ơ, cái nhà bà này, cái gì to thì thích, củ sắn to lại chê. Phải gió cái nhà chú, bảo bỏ ra là bỏ ra, lại còn cho cái củ sứt mẻ khác vào làm gì. Không bỏ củ khác vào thì thiếu cân. Thôi, thiếu tý cũng được. Mau mau còn đến nhà khác. Ấy ấy, phải cân đủ, dù nửa lạng cũng không được để thiếu. Điền đứng cạnh cây đèn măng xông vội quay ra bảo Miền, cô nhìn cân cho tinh, đánh nhau chia gạo chào nhau ăn cơm, không được cân thiếu, dù chỉ nửa lạng cho nhà nào đấy nhá. Ông Liểu đang nhặt sắn cũng quay vào chỗ cân nói trống không, một miếng khi đói bằng một gói khi no, cứ là phải cho công bằng. Điền vừa gọi đến tên một nhà, thì nghe tiếng chị ta kêu giẫy lên, tay chỉ vào đống sắn, ấy ấy, chú đừng cho củ sắn vỡ đôi vỡ ba kia vào thúng chị nữa, sắn vỡ ra thế là ăn vào say chết đấy. Mọi người cũng nhao lên, vất ra, vất ra, cứ củ nào vỡ to là vất ra, chứ đưa vào cân cho người ta, nhỡ ra là oan gia đấy. Sau những lời nhao nhao ấy là sự trầm lắng đến rợn người. Không ai nói ra, nhưng dường như ai cũng nghĩ đến cái chết thê thảm của vợ chồng, con cái nhà Nhương bên Phương La, cái đận đói giáp hạt tháng ba năm nọ. Xã cũng đứng ra đi miền ngược mua sắn về cho dân cứu đói. Mỗi nhà chỉ được mươi cân chứ có nhiều nhặn gì. Thế mà ai đời, chỉ có mỗi mẻ sắn luộc chưa đầy cái nồi nấu ba bơ gạo, mà hai vợ chồng với đứa con nhà Nhương ăn vào, bị ngộ độc không tài nào cứu nổi nữa. Từ đấy ai cũng kinh. Hễ năm nào đói kém phải hò nhau đi miền ngược mua sắn là y như rằng, lúc về chia sắn thể nào cũng diễn ra cảnh tranh giành củ lành củ vỡ, cứ rối tinh rối mù cả lên.
Điền đang dán mắt vào tờ danh sách, nghe chị kia kêu giẫy lên về tội củ sắn vỡ đôi vỡ ba Hiển vừa vất vào thúng, liền quay ra bảo, anh Hiển đừng tiếc củ vỡ ấy nữa. Những củ vỡ nhiều cứ vất hẳn ra ngoài kia cơ. Ông Hoạt, chị Miền vội bảo, vỡ thì chịu khó gọt chỗ vỡ đi, chứ hễ củ nào vỡ là vất ra, nhỡ thiếu sắn chia thì sao. Ông Liểu cũng bảo, phiên phiến thôi bà con ơi, vỡ to thì trả, vỡ bé cố gắng lấy, chứ không, thiếu nhiều quá rồi lấy đâu mà chia cho những nhà lấy sau. Bấy giờ mọi người mới chín bỏ làm mười, không kén cá chọn canh quá thể như lúc mới cân nữa. Mấy người đến sau còn giục mọi người đứng xa ra, để cho mấy người đi mua sắn về, với mấy vị ngoài cửa hàng nhặt sắn cho các hộ, rồi cân cho nó khách quan. Các cụ xưa đã dạy, đánh nhau chia gạo chào nhau ăn cơm, cứ phải cho công bằng, không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng các ông, các bà ạ! Điền quay nhìn mấy ông bà mới xách thúng ra, đang đứng bên đống sắn nói cười hơ hớ. Cái sân trước cửa hàng mua bán nằm sát đường trục xã, rộng đến cả sào, lát gạch chỉ, xây tường bao hai bên, giữa để cái cổng rộng xe tải năm tấn ra vào dễ dàng, sát gần hiên nhà chỉ đổ mỗi đống sắn với mắc bàn treo cân và Điền, ông Hoạt, chị Miền cùng mấy người đứng nhặt sắn, cân sắn, còn lại cái sân chật những người là người.
Điền đứng cân sắn, nhìn người này vất củ bé ra nhặt củ to vào thúng nhà mình, nghe người nọ ca cẩm với người kia rằng thúng sắn của mình đã nhiều củ nhỏ, lại còn bị cả những củ sắn vỡ, mà cổ họng anh chỉ thấy nóng rát ràn ràn như có muối sát. Không biết đến khi nào cái cảnh chia sắn háo hức, cập rập, nhốn nháo, giành giật, quát mắng, gằn hắt, ca cẩm lẫn nhau mới khỏi diễn ra mỗi kỳ giáp hạt thế này? Điền vừa cầm chiếc bút máy đánh dấu chữ thập ra cạnh họ tên từng hộ, trong danh sách những nhà mua sắn, để khỏi nhầm lẫn nhà cân rồi với nhà chưa cân, vừa miên man nghĩ đến những người ngày ngày gần gũi với mình, có thể nói từ sáng tinh mơ đến tận chiều tà, không đi ra đến ngoài thì thôi, chứ đã đi, dù chỉ là một bước, nửa bước cũng gặp những con người chân chất, cần mẫn, thật thà, giản dị này. Vậy mà cả đời họ, không, từ đời ông, đời cha họ, có ước mơ gì cao xa đâu, chỉ là mảnh ruộng cày cuốc, cấy trồng để có cái cho vào bụng no ngày hai bữa. Có cái cho vào bụng no ngày hai bữa mới nói đến chuyện mái nhà, cây mít, mảnh sân gạch phơi phong. Ôi chao, càng nghĩ càng rối.
Tối hôm nằm nói chuyện với Cải, Điền định kể xong toàn bộ cái án kỷ luật đảng thì hỏi Cải một câu, chỉ một câu thôi, rằng theo anh, ý kiến riêng của anh, cái việc tôi và chi bộ Phương Trà giao ruộng cho xã viên chủ động làm, có thật là sai đến mức tôi phải bị kỷ luật lưu đảng đến tận bày giờ không? Nhưng Điền chưa kịp hỏi, thì cái đám đuổi trộm ngoài đầm sen đầu làng đã làm đút mạch câu chuyện của hai người. Rồi bao nhiêu việc giời ơi ập đến, vừa thoát khỏi cái góc nhà hội trường không khác trại giam, sau vụ trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết ở đầu làng Phương Lưu, lại sa ngay vào bát quái trận đồ của anh em ông Thuật, mà Điền phải nuốt bồ hòn làm ngọt để nhất cử lưỡng tiện, cánh ông Tinh và tổ cờ đỏ Phương Lưu thì được trắng án, sau vụ ném vỡ cửa kính xe của huyện, chứ không, công bằng ra người ta vẫn có thể đưa ra toà về tội chống lại người thi hành công vụ. Còn Điền, chuyến đi Bắc Cạn bất ngờ lại gặp người đồng đội, người thủ trưởng cũ, mà dẫu chỉ ở với nhau thời gian ngắn cũng để lại kỷ niệm không thể quên trong cuộc đời binh nghiệp của anh. Vậy là từ hôm ấy đến nay cũng chưa gặp lại Cải. Lúc xe sắn về đổ xuống cửa hàng, Điền vội tạt qua nhà, ông bố, bà mẹ, rồi cô em gái đều bảo, anh Cải xuống chơi, có ý lo cho anh đi Bắc Cạn mua sắn không biết thế nào. Điền cũng thấy xúc động. Hai người biết nhau chưa lâu, hiểu nhau chưa nhiều, nhưng Điền ham hiểu biết, thích mày mò, học hỏi, nghe ngóng người này, người khác nên cũng dễ mến, dễ gần những người cởi mở, lại có hiểu biết như anh Cải. Nhưng dẫu sao Điền vẫn thấy phấp phỏng về câu chuyện mình nói với anh đêm ấy mà chưa được biết, chưa được thấy tý ty gì về thái độ của anh từ sau hôm ấy.
Thế, Điền lại càng nóng lòng muốn biết. Mà người cho Điền biết tin tức đầy đủ nhất ở xã này, không ai khác là Dậm, em vợ Đĩnh ngoài Phương Lưu.
Cũng từ hôm xảy ra xô xát ở đầu làng Phương Lưu, giữa tổ cờ đỏ với mấy người ở huyện xuống chở lợn ngoài trại chăn nuôi, Điền chưa ra đến ngoài đó, chưa gặp lại Dậm lần nào.
Điền hăm hở đạp xe ra ngoài Phương Lưu. Qua đầu làng, chỗ hôm lâu xảy ra xô xát, cây tre bắc ngang đường làm ba-ri-e chắn xe cộ qua lại vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Chỉ khác, cái chỗ che cho mấy người trong tổ cờ đỏ ngồi gác đường, trước chỉ tùm hum cái nia bằng bàn tay bắc trên bốn cái cọc tre bờ ở rìa đường, thì nay thấy làm cẩn thận như cái chòi của người coi đồng. Không chỉ che mưa che nắng, bên trong còn thấy kê cái giường một, đóng bằng gỗ bạch đàn, là loại gỗ được trồng nhan nhản trên đường làng ngõ xóm. Dáng chừng có tổ viên tổ cờ đỏ trông coi ba-ri-e cả đêm lẫn ngày hay sao thế này. Vậy thì sự thể không còn bưng bọc sau cái ba-ri-e và luỹ tre làng được nữa rồi hay sao, mà phải canh gác cẩn trọng đến thế. Điền vừa dừng xe, bước xuống, vừa chờn vờn nghĩ. Một cậu cờ đỏ không những biết Điền, còn tỏ ra biết khá kỹ, từ trong chòi bước nhanh ra, hỏi:
- Anh đã chia sắn xong rồi hay sao, mà ra ngoài nhà chị Dậm đấy?
Điền định nói chối, mình ra ngoài anh Đĩnh, nhưng nghĩ thế nào lại nói:
- Chia xong hồi đêm cả rồi. Ngoài nhà cậu vụ giáp hạt này đủ ăn hay sao, không thấy đăng ký mua sắn?
- Nhà em tằn tiện bữa no bữa đói cũng đủ đến khi có lúa, anh ạ.
Một cậu cờ đỏ từ trong chòi đi ra, cười:
- Bữa no bữa đói gì nhà nó, thóc còn có cho vạy lãi đấy, anh ạ.
- Nó bốc lửa bỏ tay người, anh đừng có nghe. Nhà em còn thóc cho vay thì chẳng những không lấy lãi, mà còn giảm gốc cho người vay nữa ấy chứ.
Điền nhìn cả hai cậu cờ đỏ, hỏi:
- Ngoài này có nhà nào phải đi vay lãi thóc gạo, hay tiền bạc chưa?
Cái cậu vừa bảo nhà còn thóc cho vay thì chẳng những không lấy lãi, còn giảm cả gốc nữa, liền nói:
- Ngoài chúng em chưa có nhà nào. Nhưng trong Phương La, quê ngoại mẹ em, thấy nói có nhà đi vay thóc lãi những hai mươi nhăm, hai mươi bảy phân rồi đấy, anh ạ.
Cậu ban nãy bảo bữa no bữa đói gì nhà nó, mới nghe bạn nói đến đấy, liền nói bâng quơ:
- Sao cùng một hợp tác mà bên Phương La không khoán ruộng cho dân làm như bên Phương Lưu, lại để nhiều nhà hết ăn thế nhỉ?
- Suỵt! Be bé cái mồm chứ. May đây là anh Điền, bị mất chức chủ nhiệm vì cho khoán ruộng, nên mày, và tao nữa, mới còn được đứng đây. Chứ không, đã bị tra tay vào còng số tám rồi, em ạ!