Vợ phi công - Chương 01 phần 2
Người phỏng vấn, một phụ nữ tóc đen che ô đen, bảo ông lão mô tả lại cảnh tượng ông đã chứng kiến.
Có ánh trăng trên mặt nước tối đen, ông lão nói đứt quãng.
Giọng ông lão khàn khàn, phát âm nặng đến nỗi họ phải in phụ đề những gì ông nói ở phía dưới màn hình.
Có những mảnh màu bạc rơi từ trên trời xuống khắp con tàu, ông lão kể.
Những mảnh đó phấp phới giống như
Chim.
Những con chim bị thương.
Rơi xuống.
Xoắn ốc, giống như vậy, và xoay vòng vòng.
Cô bước đến tivi rồi quỳ gối xuống thảm, mặt cô ngang với mặt ông lão trên màn hình. Lão ngư đang vẫy tay loạn xạ để minh họa lời nói của mình. Ông tạo một hình chóp rồi di chuyển ngón tay lên xuống, sau đó vẽ một cạnh răng cưa. Ông kể với người phỏng vấn rằng thực chất không có mảnh vỡ kỳ lạ nào rơi xuống tàu của ông. Khi ông điều khiển con tàu đến những nơi mà các vật ấy đã rơi xuống, thì chúng đã biến mất hoặc chìm xuống biển, ông không vớt kịp, kể cả dùng đến lưới cũng không được.
Nhìn vào ống kính, nữ phóng viên nói tên của ông lão là Eamon Gilley. Ông đã tám mươi ba tuổi, và là nhân chứng đầu tiên lên tiếng. Hình như không có ai khác chứng kiến những gì lão ngư đã thấy, và chưa có điều gì được xác thực. Kathryn có cảm tưởng như cô phóng viên rất muốn chuyện lão Gilley kể là thật nhưng buộc phải nói rằng nó có thể không chính xác.
Nhưng Kathryn biết chuyện đó là thật. Cô có thể nhìn thấy ánh trăng trên biển, rúm ró và lóng lánh, những tia sáng bạc rơi xuống từ trên trời, rơi rơi, rơi rơi, như những thiên thần tí hon giáng trần. Cô có thể nhìn thấy con tàu nhỏ trên biển và ông lão đánh cá đứng ở mũi tàu – mặt hướng về phía trăng, hai tay vươn ra trước. Cô có thể nhìn thấy ông lão loạng choạng, liều lĩnh bắt lấy những mảnh phấp phới, chọc tay vào không khí như một đứa trẻ đuổi bắt đom đóm trong đêm mùa hè. Và lúc ấy cô nghĩ thật kỳ lạ làm sao, thảm họa này – loại thảm họa rút cạn máu trong cơ thể, hút sạch không khí trong phổi và đấm túi bụi vào mặt ta – lại có thể là một điều rất đẹp.
***
Robert chồm người về trước để tắt tivi.
“Cô không sao chứ?” anh ta hỏi.
“Anh nói nó xảy ra khi nào?”
Anh chống cùi chỏ lên đầu gối và nắm tay lại.
“Một giờ năm mươi bảy. Giờ ở đây. Bên đấy là sáu giờ năm mươi bảy.”
Có một vết sẹo phía trên lông mày phải của anh ta. Cô nghĩ anh khoảng gần bốn mươi tuổi, gần tuổi của cô hơn là của Jack. Anh có làn da trắng của người tóc vàng và mắt nâu, đồng tử có những vân màu đỏ nhạt. Mắt của Jack màu xanh dương, hai màu xanh khác nhau – một mắt màu xanh bạc, gần như trong suốt, như màu xanh da trời; mắt kia rất sáng, màu xanh dương đậm. Màu mắt khác lạ thu hút mọi ánh nhìn về phía Jack, khiến người ta săm soi gương mặt anh, tựa như tính không đối xứng này gợi đến sự mất cân bằng, hoặc một điều gì đó bất ổn.
Cô thầm hỏi: Đây là nghề của người này sao?
“Đó là thời điểm của lần phát tín hiệu cuối cùng,” nhân viên của Liên đoàn nói với giọng nhỏ đến nỗi cô không nghe rõ.
“Lần phát tín hiệu cuối cùng là gì?” cô hỏi.
“Đó là quy trình.”
Cô không tin nổi anh ta. Có quy trình gì gọi là lần phát tín hiệu cuối cùng chứ?
“Anh có biết,” cô hỏi, “những từ cuối cùng mà phi công thường hay nói nhất khi biết máy bay sắp rơi không? À mà tất nhiên là anh biết rồi.”
“Cô Lyons,” anh ta nói, quay sang cô.
“Gọi tôi là Kathryn được rồi.”
“Cô vẫn còn đang sốc. Cô nên uống thứ gì đó có chất đường. Ở nhà có nước hoa quả không?”
“Trong tủ lạnh ấy. Là bom, phải không?”
“Giá mà tôi biết nhiều hơn để nói với cô.”
Anh ta đứng dậy đi vào nhà bếp. Cô nhận ra mình không muốn ở lại một mình trong phòng, vì vậy cô đi theo anh. Cô nhìn đồng hồ ở bồn rửa. 3 giờ 38 phút. Có lẽ nào kể từ lúc cô nhìn đồng hồ ở chiếc tủ đầu giường trên lầu đến giờ, chỉ mới mười bốn phút trôi qua?
“Anh đến đây nhanh thật đấy,” cô nói, ngồi lên chiếc ghế trong nhà bếp.
Anh ta rót nước cam vào cốc.
“Anh làm sao làm được như vậy?” cô hỏi
“Chúng tôi có máy bay,” anh ta khẽ đáp.
“Không. Ý tôi là, hãy cho tôi biết. Anh làm việc này thế nào? Anh có một chiếc máy bay đợi sẵn à? Anh cứ ngồi nhởn nhơ để đợi một vụ rơi máy bay xảy ra à?”
Anh ta đưa cốc nước cam cho cô. Anh tựa vào bồn rửa rồi dùng ngón giữa bàn tay phải vuốt dọc trán, từ sống mũi đến đường chân tóc. Trông như lúc ấy anh đang ra quyết định, đang phán xét.
“Không, tôi không ngồi nhởn nhơ chờ đợi một vụ rơi máy bay. Nhưng nếu có một vụ xảy ra, chúng tôi đã có sẵn một quy trình. Chúng tôi có một chiếc máy bay phản lực Lear ở sân bay Washington National. Nó chở tôi đến sân bay lớn gần nhất. Lần này là Portsmouth.”
“Rồi sau đó?”
“Rồi sau đó có một chiếc xe đợi sẵn.”
“Và anh làm thế trong...”
Cô tính toán thời gian cần để anh ta bay từ Washington, nơi đặt trụ sở Liên đoàn, đến Ely, New Hampshire, vừa qua khỏi vùng giáp với Massachusetts.
“Chừng hơn một giờ đồng hồ,” anh ta đáp.
“Nhưng tại sao?” cô hỏi.
“Để đến đây trước tiên,” anh đáp. “Để báo tin cho cô. Để giúp cô vượt qua chuyện này.”
“Đó không phải là lý do,” cô nói nhanh.
Anh ta nghĩ ngợi một lúc.
“Nó là một phần lý do,” anh nói.
Cô vuốt tay lên mặt bàn gỗ thông nứt nẻ. Vào những đêm Jack ở nhà, Jack cùng cô và Mattie dường như chỉ sống trong phạm vi bán kính ba mét quanh chiếc bàn đó – đọc báo, nghe tin tức, nấu nướng, ăn uống, dọn dẹp, làm bài tập, và rồi, sau khi Mattie đi ngủ, họ nói chuyện hoặc không, và thỉnh thoảng, nếu Jack không phải đi làm, thì uống một chai rượu vang. Lúc đầu, khi Mattie còn nhỏ và đi ngủ sớm, họ thỉnh thoảng lại thắp nến và làm tình trong nhà bếp, do cô hoặc anh bất chợt thấy rạo rực.
Cô nghiêng đầu về sau và nhắm mắt lại. Cơn đau như đang kéo dài từ bụng lên đến cuống họng. Cô cảm thấy bấn loạn, như đang đứng quá gần bờ vực. Cô hít vào thật mạnh, đến nỗi Robert phải nhìn sang cô.
Và rồi cô chuyển từ sốc sang đau đớn, như chuyển từ phòng này sang phòng khác.
Những hình ảnh tấn công cô. Cảm giác hơi thở của Jack trên đốt sống cổ, như anh đang thì thầm với những khúc xương của cô. Nụ hôn phớt lên môi khi anh chuẩn bị rời khỏi nhà. Vòng tay ôm Mattie sau trận khúc côn cầu trên cỏ cuối cùng của con bé, khi Mattie nhễ nhại mồ hôi và khóc nức nở vì đội của nó thua 8-0. Làn da trắng nhợt ở mặt trong cánh tay của Jack. Lớp da bị sẹo rỗ nhẹ giữa hai bả vai, di chứng của tuổi dậy thì. Sự mềm mại khác người của bàn chân anh, cả chuyện anh không thể đi bộ trên bãi biển mà không mang giày. Sự ấm áp của anh, cả trong những đêm lạnh nhất, như lò sưởi trong người anh lúc nào cũng bừng bừng rực cháy. Những hình ảnh ấy xô đẩy, chen lấn nhau, giành giật chỗ đứng với nhau một cách thô bạo. Cô cố gắng ngưng chúng lại, nhưng không thể.
Người đàn ông từ Liên đoàn đứng ở bồn rửa quan sát cô. Anh ta đứng bất động.
“Tôi yêu anh ấy,” cô lên tiếng khi đã có thể mở lời
Cô đứng dậy, rút một tờ khăn giấy từ hộp. Cô hỉ mũi. Cô cảm thấy một cơn căng thẳng bộc phát. Cô tự hỏi liệu thời gian có đang mở ra và bao bọc rồi nuốt chửng lấy cô – trong một ngày hoặc một tuần hoặc một tháng, hoặc có thể là vĩnh viễn.
“Tôi biết,” Robert nói.
“Anh lập gia đình chưa?” cô hỏi và lại ngồi xuống.
Anh ta đút tay vào túi quần rồi xóc những đồng xu trong túi. Anh đang mặc quần tây màu xám. Jack hiếm khi mặc quần tây. Như nhiều nam giới mặc đồng phục đi làm, anh chưa bao giờ ăn mặc chải chuốt.
“Tôi li dị rồi.”
“Anh có con không?”
“Hai cháu trai. Chín và sáu tuổi.”
“Chúng có sống với anh không?”
“Với vợ tôi ở Alexandria. Vợ cũ.”
“Anh có thường gặp chúng không?”
“Tôi cũng cố gắng.”
“Sao anh lại li dị?”
“Tôi không còn uống rượu nữa.”
Anh ta nói ra điều này như đó là sự thật hiển nhiên, không giải thích gì thêm. Cô không biết liệu mình có hiểu hay cô lại hỉ mũi.
“Tôi phải gọi điện đến trường,” cô nói. “Tôi là giáo viên.”
“Việc đó làm sau cũng được. Mà cũng chẳng có ai ở đó đâu. Giờ này chưa ai dậy cả.” Anh ta nhìn đồng hồ.
“Kể cho tôi nghe về công việc của anh đi.”
“Cũng chẳng có gì nhiều để kể. Chủ yếu là làm quan hệ công chúng thôi.”
“Anh đã phải làm những việc này bao nhiêu lần rồi?”
“Việc gì?”
“Tai nạn. Tai nạn máy bay.”
Anh ta im lặng một lúc.
“Năm,” cuối cùng anh nói. “Năm vụ nghiêm trọng.”
“Năm à?”
“Và bốn vụ nhỏ hơn.”
“Hãy kể cho tôi nghe xem nào.”
Anh liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. Ba mươi giây trôi qua. Có lẽ là một phút. Một lần nữa cô lại cảm thấy anh đang đưa ra những phán quyết, quyết định.
“Có một lần tôi đến nhà của một góa phụ, và phát hiện cô ta đang ngủ với người đàn ông khác.
“Ở đâu?”
“Westport. Connecticut.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
“Người vợ mặc áo choàng ngủ ra mở cửa, và tôi báo tin cho cô ấy, sau đó người đàn ông mặc quần áo vào và đi xuống. Ông ta là hàng xóm. Sau đó ông ta và tôi đứng trong nhà bếp của người vợ và nhìn cô ấy ngất xỉu. Vụ đó phức tạp lắm.”
“Anh có biết anh ấy không?” Kathryn hỏi. “Chồng tôi ấy?”
“Không. Tôi rất tiếc.”
“Anh ấy lớn tuổi hơn anh.”
“Tôi biết.”
“Họ còn kể gì với anh nữa?”
“Làm ở Vision mười một năm. Trước đó làm ở Santa Fe năm năm. Trước đó nữa thì ở Teterboro hai năm. Hai năm ở Việt Nam, máy bay chiến đấu DC-3. Quê quán ở Boston. Cao đẳng Holy Cross. Một con gái, mười lăm tuổi. Một vợ.”
Anh ta nghĩ ngợi một lúc.
“Cao. Một mét chín mươi lăm? Khỏe mạnh.”
Cô gật đầu.
“Thành tích tốt. Thật ra là xuất sắc.
Anh ta gãi mu bàn tay bằng tay kia.
“Tôi rất tiếc. Tôi rất tiếc vì tôi biết tất cả những thông tin này về chồng cô nhưng lại không biết gì về anh ấy.”
“Họ có nói gì với anh về tôi không?”
“Chỉ nói là cô trẻ hơn chồng mười lăm tuổi. Và cô sẽ có mặt ở đây với con gái.”
Cô săm soi bàn chân mình, đôi chân nhỏ nhắn và trắng trẻo, như không còn giọt máu nào. Gót chân không sạch.
“Có bao nhiêu người trên máy bay?” cô hỏi.
“Một trăm lẻ bốn.”
“Không đầy.”
“Phải, không đầy.”
“Có người sống sót không?”
“Họ đang tìm kiếm...”
Đến lượt những hình ảnh khác xâm nhập. Khoảnh khắc biết trước – biết trước điều gì – trong buồng lái? Tay của Jack đặt trên cần điều khiển. Một thân người xoay vòng trong không trung. Không. Đấy không phải là một thân người. Cô lắc mạnh đầu.
“Tôi phải đích thân báo cho con bé,” cô nói.
Anh ta gật đầu rất nhanh, như điều đó đã được nhất trí từ trước.
“Không. Ý tôi là anh phải rời khỏi đây. Tôi không muốn ai chứng kiến hoặc nghe thấy chuyện này.”
“Tôi sẽ ngồi trong xe.”
Cô cởi áo khoác mà anh ta cho mượn. Điện thoại lại reo, nhưng không ai di chuyển. Từ xa, họ nghe tiếng máy trả lời tự động bật lên.
Cô chưa chuẩn bị tâm lý để nghe tiếng của Jack, trầm ấm và thân thương, âm hưởng Boston trong các nguyên âm, với lời chào quen thuộc. Cô úp mặt vào hai tay và đợi lời chào kết thúc.
Khi ngước lên, cô thấy Robert đang nhìn cô chăm chú. Anh ta nhìn lảng đi nơi khác.
“Mục đích là để ngăn tôi nói chuyện với báo chí, phải không?” cô hỏi. “Vì vậy mà anh mới đến đây.”
Một chiếc xe rẽ vào đường mòn và phanh lại trên nền sỏi. Người đàn ông từ Liên đoàn nhìn ra cửa sổ, cầm lấy áo khoác, rồi mặc lên.
“Là để tôi không phát ngôn gì khiến họ nghĩ đến lỗi của phi công,” cô nói tiếp. “Các anh không muốn họ nghĩ đến lỗi của phi công.”
Anh ta nhấc ống nghe điện thoại lên và đặt nó xuống quầy bếp.
Gần đây, Jack và cô ít khi làm tình trong nhà bếp. Họ bảo nhau rằng bây giờ Mattie đã lớn và có thể xuống nhà bếp tìm thức ăn vặt. Nhiều đêm, sau khi Mattie đã đi lên phòng để nghe nhạc hoặc buôn điện thoại với bạn bè, họ chỉ ngồi ở bàn để đọc tạp chí, quá mệt đến nỗi chẳng buồn dọn dẹp bát đĩa hay thậm chí nói chuyện với nhau.
“Tôi đi nói với con đây
Anh ta ngập ngừng:
“Cô cũng hiểu là chúng tôi không thể ở ngoài đấy quá lâu.”
“Họ là người của hãng hàng không, phải không?” cô nhìn qua cửa sổ nhà bếp. Ở đường mòn vào nhà, cô chỉ nhận ra hai bóng người rời khỏi một chiếc xe. Cô đi đến chân cầu thang.
Cô nhìn lên cầu thang. Có năm trăm bậc, ít nhất là năm trăm bậc. Chúng kéo dài đến vô tận. Cô nhận ra một điều gì đó đã chuyển động và giờ đây đang bắt đầu. Cô không chắc mình có đủ sức để đi lên đến đỉnh cầu thang.
Cô nhìn người đàn ông từ Liên đoàn, bấy giờ đang đi từ nhà bếp ra mở cửa.
“Mẹ,” cô nói, khi anh ta quay lại. “Từ mà họ thường nói là Mẹ.”