Vợ phi công - Chương 05 phần 1

CHƯƠNG 5

 “Cô nên ăn chút gì
đó.”

Ngồi bên kia bàn, Robert Hart đang ăn nốt bát thịt hầm đậu.

“Tôi ăn không nổi,” cô đáp. Cô nhìn bát thịt đã hết sạch của
anh ta. “Nhưng anh hẳn phải đói lắm.”

Anh đẩy chiếc bát sang một bên.

Trời đã tối, nhưng Kathryn không biết chính xác là mấy giờ.
Trên lầu, Mattie và Julia vẫn đang ngủ. Trước mặt Kathryn, ngoài bát thịt hầm
còn có một ổ bánh mì tỏi, một đĩa salad và một tách trà ấm. Trước đó, cô đã
gắng gượng chấm bánh mì với thịt hầm rồi nếm thử, nhưng cổ họng cô không chịu
nuốt xuống. Cô mặc quần áo sạch – quần jean và một chiếc áo len màu xanh dương,
tất len, bốt da. Tóc cô vẫn còn ướt. Cô biết mắt mũi miệng của mình đang sưng
húp. Cô nghĩ mình hẳn đã khóc trên sàn nhà tắm nhiều hơn bất kỳ thời điểm nào
khác trong ngày. Có lẽ là trong cả cuộc đời. Cô cảm thấy sức cùng lực kiệt,
trống rỗng, chỉ vì khóc.

“Tôi rất tiếc,” anh ta

“Vì chuyện gì?” cô hỏi. “Vì đã ăn à?”

Anh nhún vai. “Vì tất cả.”

“Công việc của anh thật không thể hình dung nổi,” cô đột ngột
nói. “Sao anh làm nghề này?”

Anh có vẻ giật mình trước câu hỏi này.

“Cô có phiền không nếu tôi hút thuốc? Tôi có thể ra ngoài,
nếu cô muốn.”

Jack vốn rất ghét những người hút thuốc, anh không thể chịu
nổi khi ở chung phòng với họ.

“Ngoài trời đang âm chín độ đấy. Tất nhiên anh có thể hút
thuốc trong này.”

Cô nhìn anh xoay lưng, cho tay vào túi áo khoác ở lưng ghế
để lấy ra một gói thuốc lá.

Anh ngồi tựa cùi chỏ lên bàn, hai tay đan lại chống cằm.
Khói thuốc cuộn tròn trước mặt.

Anh dùng điếu thuốc để ra dấu.

“AA,” anh nói.

Cô gật đầu.

“Tại sao tôi làm nghề này?” anh hỏi, hắng giọng vẻ căng
thẳng. “Vì tiền, có lẽ thế.”

“Tôi không tin anh,” cô nói

“Nói thật à?”

“Thật.”

“Có lẽ là do tôi thích những khoảnh khắc căng thẳng.” Anh
nói. “Trong phạm vi của trải nghiệm con người.”

Cô im lặng. Lần đầu tiên nhận ra đang có tiếng nhạc. Art
Tatum. Hẳn Robert đã mở đĩa nhạc này trong lúc cô tắm.

“Vậy cũng phải,” cô nói.

“Tôi thích nhìn người khác chữa lành,” anh nói thêm.

“Họ có chữa lành được không?”

“Nếu có đủ thời gian, phụ nữ thường làm được điều đó. Không
may là...” Anh dừng lại. “Tôi rất tiếc...”

“Tôi đã quá ngán nghe người khác nói họ rất tiếc rồi. Thật
đấy.”

“Trẻ con cũng không chữa lành được,” anh nói chậm rãi.
“Người ta nói trẻ em hồi phục rất nhanh, nhưng sự thật không phải thế. Chúng
thay đổi... chúng chuyển biến cùng với thảm họa và tìm cách thích nghi. Tôi
hiếm khi thấy nam giới đau khổ vì không có nhiều phụ nữ làm phi công. Nếu có
nam giới, thì họ là những ông bố, và họ thường phát rồ, nhưng đó lại là một câu
chuyện khác.”

“Tôi cá là họ sẽ phát rồ,” Kathryn nói.

Cô nghĩ đến Jack, là một ông bố, anh sẽ phát điên vì phẫn nộ
và đau đớn nếu người trên máy bay là Mattie. Jack và Mattie rất thân thiết. Với
Jack, hiếm khi có chuyện cằn nhằn hay nổi đóa, trong khi đó đôi khi lại là điểm
đặc trưng trong những cu nói chuyện giữa Kathryn và Mattie. Với Jack, những quy
định, những tham số, đã khác ngay từ đầu: Chúng không nhiều như thế.

Không lâu sau khi họ dọn đến Ely, lúc Mattie còn đi nhà trẻ,
Jack đã “thuê” nó làm trợ lý mỗi lần sửa sang nhà cửa – sơn phết, cạo vôi, sửa
cửa sổ. Anh nói chuyện huyên thuyên với nó. Anh dạy nó trượt tuyết, rồi đưa nó
đi những chuyến trượt tuyết chỉ có bố-và-con-gái vào mỗi mùa đông, lúc đầu là
đi phía Bắc New Hampshire và Maine, sau đó về hướng Tây, đến Colorado. Ở nhà,
hai bố con xem đội Red Sox hoặc Celtics thi đấu, hoặc cùng nhau ngồi trước máy
tính hàng giờ đồng hồ. Mỗi khi Jack trở về sau một chuyến bay, anh luôn đi tìm
Mattie trước tiên, hoặc nó đón anh trước, và cả hai dường như có một mối quan
hệ bố-con hiếm thấy: Họ luôn thoải mái khi ở cạnh nhau.

Chỉ có một lần duy nhất Jack nổi trận lôi đình với Mattie.
Đến nay Kathryn vẫn còn mường tượng được cơn giận dữ trên mặt Jack khi anh phát
hiện Mattie xô đẩy một bạn chơi ở dưới nhà. Mattie và bạn nó được mấy tuổi? Bốn
tuổi? Năm tuổi? Jack đã nắm chặt cánh tay Mattie, đét một phát thật mạnh vào
mông nó, rồi sau đó gần như là lôi con bé về phòng và đóng sầm cửa với thái độ
giận dữ đến nỗi ngay cả Kathryn cũng phải giật bắn mình. Phản ứng của anh quá
bộc phát, quá đột ngột, đến nỗi Kathryn nghĩ anh hẳn đã bị phạt như thế lúc còn
bé và, trong một khoảnh khắc ngắn ngủi đã mất tự chủ. Sau đó, cô thử tìm cách
nói chuyện với anh về sự cố này, nhưng Jack, mặt vẫn còn đỏ phừng phừng, nhất
định không hé răng nửa lời, chỉ nói rằng anh không biết vì sao mình phản ứng
như vậy.

“Anh chuyên làm việc này à,” Kathryn nói với Robert.

Anh ta đưa mắt nhìn qua quầy bếp, tìm gạt tàn thuốc. Cô lấy
chiếc đĩa trắng dưới tách trà của mình rồi đẩy qua bên kia mặt bàn gỗ thông.
Anh gác điếu thuốc lên đĩa rồi bắt đầu dọn dẹp bát đĩa của mình.

“Không hẳn vậy,” anh đáp.

“Để tôi rửa cho. Anh làm nhiều rồi.”

Anh

“Làm ơn đi mà,” cô nói. “Tôi có thể rửa bát được.”

Anh ngồi xuống, cầm điếu thuốc lên. Cô đi đến bồn rửa, mở
máy rửa bát ra. Sau đó cô mở nước.

“Tôi thích hình dung mình là người kéo một chiếc kén xung
quanh gia đình phi công tử nạn,” anh nói, “cách ly họ khỏi thế giới bên ngoài.”

“Thế giới ấy đã xộc thẳng vào đời tư họ một cách thô bạo,”
cô nhận xét.

“Thế giới đã xộc thẳng vào đời tư họ một cách thô bạo.”

“Ngăn chặn. Việc anh làm là ngăn chặn.”

“Kể cho tôi nghe về công việc của cô đi. Cô dạy môn gì?”

“Âm nhạc và lịch sử. Tôi phụ trách ban nhạc.”

“Thật chứ?”

“Thật. Chỉ có bảy mươi hai học sinh ở trường phổ thông của
tôi.”

“Cô thích nghề giáo không?”

Cô nghĩ ngợi một lát.

“Có. Tôi rất thích. Tôi đã có một, hai học sinh thật sự xuất
sắc. Năm ngoái, chúng tôi gửi một nữ sinh đến Nhạc viện New England đấy. Tôi
rất thích bọn trẻ.

“Kết hôn với phi công thì cuộc sống cũng thay đổi nhỉ,” anh
nói.

Cô gật đầu. Cô nhớ đến giờ giấc thất thường, các dịp lễ tết
không bao giờ ăn mừng vào đúng ngày. Những khi Jack muốn ăn sáng lúc bảy giờ
tối, hoặc muốn bữa tối và một ly rượu vào lúc bảy giờ sáng. Cuộc sống của họ
không giống như những gia đình khác. Jack có thể đi ba ngày, về nhà hai ngày,
và lịch trình đó cứ tiếp diễn trong hai hoặc ba tháng. Rồi đến tháng tiếp theo,
anh có thể nghỉ bốn ngày, đi làm sáu ngày, và mẹ con Kathryn lại thích nghi với
nhịp điệu đó. Họ không sống theo nề nếp, như những gia đình khác – họ sống theo
từng phân đoạn. Những đoạn thời gian khi Jack ở nhà, những đoạn dài hơn khi
Jack đi làm. Khi anh đi, ngôi nhà dường như xẹp đi một chút, lặng lẽ tư lự một
mình. Và cho dù Kathryn có quan tâm đến Mattie bao nhiêu đi nữa, hoặc dù cho
hai mẹ con họ thích ở bên nhau bao nhiêu đi nữa, Kathryn luôn cảm thấy như họ
đang trì hoãn - chờ đợi cuộc đời thật bắt đầu trở lại, chờ đợi Jack bước vào
qua khung cửa.

Kathryn tự hỏi, trong lúc ngồi đối diện với Robert, liệu cô
có cảm thấy thế vào lúc này - trì hoãn cuộc sống, chờ đợi Jack bước vào lần nữa
qua khung cửa.

“Anh ấy có đi đi về về mỗi ngày không?” Robert hỏi.

“Từ đây à? Khoảng sáu lần một tuần.”

“Cũng không tệ lắm nhỉ. Mất bao lâu? Năm mươi phút không?”

“Vâng. Anh có để vali chứa sẵn đồ trong phòng làm việc
không?” cô hỏi. “Với đầy đủ quần áo và sẵn sàng đem đi bất cứ lúc nào?”

Anh ngập ngừng.

“Một vali nhỏ,” anh đáp.

“Tối nay anh sẽ đến khách sạn”

“Đúng, nhưng nếu cô muốn, tôi có thể ngủ trên sofa ở đây
cũng được.”

“Không, tôi sẽ ổn thôi. Tôi có bà Julia và Mattie rồi. Kể
cho tôi nghe chuyện khác đi.”

“Ý cô là sao?”

Cô đặt chiếc đĩa cuối cùng vào máy rửa bát rồi đóng nắp lại.
Cô lấy khăn lau tay, rồi vắt khăn lên tay nắm ngăn kéo.

“Về cảm giác khi anh đến được nhà của phi công.”

Anh gãi gáy. Anh không cao, nhưng tạo ấn tượng có chiều cao,
ngay cả khi đang ngồi. Cô hình dung anh là người thích chạy bộ.

“Kathryn, việc này thật...”

“Cứ nói đi.”

“Không.”

“Nó cũng có ích đấy.”

“Không, chẳng ích gì.”

“Làm sao anh biết?” cô hỏi, giọng đanh lại. “Chúng tôi có
giống nhau cả không, các bà vợ ấy? Chúng tôi có phản ứng giống nhau cả không?”

Cô nghe được sự tức giận trong giọng nói của mình, cơn tức
giận đã hiện diện một cách rời rạc suốt ngày hôm đó. Những bọt bong bóng giận
dữ nổi lên trên bề mặt chất lỏng rồi vỡ tan. Cô ngồi xuống bàn, đối diện với

“Tất nhiên là không.”

“Nếu chuyện đó không đúng thì sao? Nếu anh nhận được tin,
báo cho người vợ, sau đó phát hiện ra nó không đúng thì sao?”

“Việc đấy không xảy ra.”

“Sao lại không?”

“Tôi đứng rất lâu cuối đường mòn vào nhà, cầm điện thoại
trong tay, chờ xác nhận tuyệt đối. Cô có thể thấy chuyện này khó tin, nhưng tôi
không hề muốn nói với một người vợ rằng chồng cô ấy đã chết nếu thực tế anh ta
chưa chết.”

“Tôi xin lỗi.”

“Tôi nghĩ việc đó bị cấm.”

Cô mỉm cười.

“Anh có phiền không khi bị hỏi những câu như thế?”

“Tôi lo lắng lý do tại sao cô hỏi những câu đó, nhưng không,
tôi không phiền.”

“Vậy để tôi hỏi câu này: Anh sợ tôi sẽ nói gì với báo chí?”

Anh nới lỏng cà vạt, cởi nút áo trên cùng.

“Vợ của phi công thường trở nên quẫn trí. Nếu cô ấy nói một
điều gì đó mà báo chí có mặt và nghe thấy, thì nó sẽ trở thành thông tin chính
thống. Chẳng hạn như, một người vừa trở nên góa bụa có thể nói chồng cô ấy gần
đây hay than phiền về vấn đề máy móc. Hoặc cô ấy có thể buột miệng, Tôi biết ngay
chuyện này sẽ xảy ra mà. Anh ấy nói hãng hàng không sắp cắt giảm kinh phí đào
tạo tổ bay.”

“Chẳng lẽ như thế không được sao? Nếu chuyện đó đúng thì
sao?”

“Khi quẫn trí người ta nói những điều mà họ sẽ không nói sau
này. Những điều mà đôi khi họ hoàn toàn không có ý như vậy. Nhưng nếu điều đó
trở thành một phần của tin tức chính thống, thì sẽ không thể nói lại được nữa.”

“Anh bao nhiêu tuổi?”

“Ba mươi tám.”

“Jack bốn mươi chín tuổi.”

“Tôi biết.”

“Trong khi chờ đợi một vụ rơi máy bay, anh thường làm gì?”

“Tôi sẽ không nói theo cách như vậy,” anh nói, đổi tư thế
ngồi. “Tôi không ngồi một chỗ đợi máy bay rơi. Tôi còn có những trách nhiệm
khác.”

“Chẳng hạn như?”

“Tôi nghiên cứu các báo cáo điều tra tai nạn khá kỹ. Tôi
liên lạc rất nhiều lần với gia đình các phi công để nắm tình hình. Nhà này xây
lâu chưa?”

“Anh đang đánh trống lảng.”

“Đúng vậy.”

“Nhà xây từ thập niên 1860. Lúc đầu là tu viện. Giống như
một nơi ẩn dật.”

“Nhà đẹp lắm.”

“Cám ơn anh. Cần sửa chữa nhiều đấy. Lúc nào cũng cần sửa
chữa cả. Nó xuống cấp nhanh đến nỗi chúng tôi sửa không kịp.”

Cô nghe thấy từ chúng tôi.

Chẳng có điểm nào ở ngôi nhà khiến cô không thích, dường như
nó biến đổi liên tục, tùy vào ánh nắng, mùa, màu nước biển, nhiệt độ không khí.
Ngay cả những đặc điểm thất thường của nó, Kathryn cũng đã quen: sàn phòng ngủ
bị dốc; những chiếc tủ quần áo cạn thiết kế theo thói quen của các nữ tu sĩ;
những cánh cửa sổ kiểu truyền thống phải khổ sở lắp vào mỗi mùa thu và tháo ra
mỗi mùa xuân (Jack phát hiện rằng, cũng như bông tuyết, chẳng có bông nào giống
bông nào, vì vậy, trước khi anh biết cách dán nhãn để đánh dấu mỗi cửa sổ, việc
lắp cánh cửa giống như vừa đứng trên thang vừa chơi ghép hình), nhưng sau khi
được lau chùi sạch sẽ lại trở thành những vật rất đẹp đẽ, đáng yêu. Thực ra,
đôi khi phải khó khăn lắm mới dứt mình ra khỏi những phút ngắm cảnh qua các
khung cửa ấy khi việc nhà còn dang dở. Kathryn thường ngồi ở phòng khách dài và
thả hồn mơ mộng. Cô thường ngẫm nghĩ, trong một ngôi nhà như vậy, ở một vùng
địa hình như vậy, thật dễ dàng trốn khỏi thế giới bên ngoài, sống một cuộc đời
cô quạnh và trầm tư, chẳng khác gì những cư dân đầu tiên của ngôi nhà này:
những nữ tu sĩ của dòng Thánh Jean de Baptiste de Bienfaisance, hai mươi nữ tu
sĩ từ mười chín đến tám mươi hai tuổi, dâng đời mình cho Chúa Jesus và nghèo
đói. Thường khi ở phòng khách, cô hay tưởng tượng đến một chiếc bàn gỗ dài
trong phòng ăn với một băng ghế một bên để các nữ tu sĩ có thể ngắm biển trong
lúc ăn. Vì tuy đã tuyên thệ chấp nhận cuộc sống đạm bạc, nhưng họ vẫn sống ở
một nơi có khung cảnh đẹp đến nao lòng.

Trong nhiều năm trời, Kathryn đã cố gắng tìm xem các nữ tu
sĩ xây nhà nguyện ở đâu. Cô đã tìm kiếm trên bãi cỏ và vườn cây cạnh bên, nhưng
không hề thấy một nền nhà nào. Cô tự hỏi liệu nhà nguyện có nằm ở bên trong
ngôi nhà hay không, trong căn phòng mà họ đang dùng làm phòng ăn? Các nữ tu sĩ
có tháo dỡ bệ thờ đơn sơ của họ trước khi rời khỏi tu viện này, đem theo tượng
Đức mẹ Maria và cây thánh giá? Họ có băng qua vùng đầm lầy nước mặn mênh mông
nằm giữa Fortune’s Rocks và thị trấn Ely Falls để dự lễ ở nhà thờ Thánh Joseph
với những người nhập cư Canada gốc Pháp?

“Cô ở đây được mười một năm rồi à?”

“Vâng.”

Điện thoại reo khiến cả hai cùng giật mình. Dường như hai
mươi phút đã qua, có thể là ba mươi phút, kể từ lần điện thoại reo cuối cùng,
khoảng lặng dài nhất kể từ những cuộc gọi đầu tiên vào buổi sáng. Cô nhìn
Robert trả lời điện thoại.

Khi cô và Jack chuyển về vùng Ely, cô chỉ mới hai mươi ba
tuổi. Kathryn lo sẽ làm dân cư trong thị trấn phật lòng. Cô sắp có một ngôi nhà
trên bãi biển và một ông chồng làm phi công ở hãng Vision. Cô sẽ không còn sống
ở đất liền của Ely nữa, mà chuyển đến Fortune’s Rocks, một thế giới phù du của
những du khách đến nghỉ hè, những người cho dù thường xuyên lui tới mua sắm ở
cửa hiệu của bà nội cô và quan tâm tìm hiểu về thị trấn bé nhỏ mà duyên dáng lạ
lùng này nhưng mãi mãi vẫn là những người ẩn danh xa lạ. Những thân hình bóng
mượt, rám nắng với túi tiền dường như không bao giờ cạn. Dù bà Martha, chủ tiệm
Ingerbretson, cửa hàng thực phẩm duy nhất ở Fortune’s Rocks, có thể kể vanh
vách về những người đàn ông mặc quần soọc kaki và áo thun trắng trả hàng đống
tiền – để mua vodka, tôm hùm, khoai tây chiên, và bánh chocolate konfetkakke do
Martha tự làm – rồi biến mất sau những vụ phá sản, chỉ để lại duy nhất tấm biển
Bán Nhà cắm trên cát trước ngôi nhà ven biển trị giá 400.000 USD của họ.

Tuy nhiên, người dân địa phương lại rất có thiện chí với bà
Julia Hull và tình cảm ấy lây sang cả Jack và Kathryn. Cô nhớ lại mình và Jack
đã hòa nhập với cuộc sống ở Ely ra sao, đã ở cạnh bên Mattie trong chuyện học
hành như thế nào. Công việc của Jack buộc anh đi làm bên ngoài thị trấn, nhưng
anh vẫn tìm cách chơi tennis trong một đội của thị trấn với Huge Reney, hiệu
phó trường trung học, và Arthur Kahler, ông chủ trạm xăng Mobil nằm ở cuối
làng. Điều ngạc nhiên là, dù Jack và Kathryn thụ thai Mattie rất dễ dàng, nhưng
hình như họ không thể có thêm con nữa. Họ tự bảo nhau rằng cuộc sống đã đủ hạnh
phúc với Mattie nên không cần thử thêm các biện pháp khác để thụ thai lần nữa.

Kathryn nhìn Robert nghe điện thoại. Anh có xoay lại một lần
rất nhanh và nhìn cô, sau đó.

“Không bình luận,” anh nói.

“Tôi không nghĩ vậy.

“Không bình luận.

“Không bình luận.”

Anh gác máy rồi đứng nhìn chiếc tủ phía trên điện thoại. Anh
cầm một cây bút trên bàn lên rồi bắt đầu quay nó trong tay.

“Chuyện gì?” cô hỏi.

Anh quay lưng lại.

“À, chúng tôi biết chuyện này sẽ xảy ra.”

“Chuyện gì?”

“Chuyện này sẽ chỉ có thể được giữ kín trong tối đa là hai
mươi tư giờ. Sau đó thì nó chỉ còn là quá khứ.”

“Chuyện gì?”

Anh nhìn cô chăm chú, hít một hơi sâu.

“Họ nói đó là lỗi phi công.”

Cô nhắm mắt lại.

“Đó chỉ là giả định,” anh nói nhanh. “Họ nghĩ rằng đã tìm
thấy một số dữ liệu bay không hợp lý. Nhưng hãy tin tôi, họ cũng không biết
chắc chắn đâu.”

“Ôi.”

“Thêm nữa,” anh hạ giọng. “Họ đã tìm thấy một số thi thể.”

Cô nghĩ rằng nếu cứ hít thở chậm rãi, cô sẽ không sao.

“Chưa nhận diện được.”

“Bao nhiêu?”

“Tám.”

Cô cố gắng hình dung. Tám thi thể. Nguyên vẹn? Từng phần? Cô
muốn hỏi, nhưng lại thôi.

“Sẽ còn nhiều hơn,” anh nói. “Người ta đang đưa lên nhiều
thi thể hơn.”

Cô tự nhủ, người Anh? Hay người Mỹ? Đàn bà hay đàn ông?

“Người đó là ai? Người gọi điện thoại ấy?”

“Reuters.”

Cô đứng dậy, đi đến phòng tắm ở cuối hành lang. Trong tích
tắc, cô sợ mình sẽ nôn. Đó là một phản ứng tự nhiên, cô nghĩ, không thể chấp
nhận sự thật và chỉ muốn ho tống nó ra. Cô tạt nước lên mặt rồi lau khô. Cô gần
như không thể nhận ra khuôn mặt mình trong gương.

Khi cô quay lại nhà bếp, Robert lại đang nghe điện thoại.
Một tay anh để ngang trước ngực, bàn tay kẹp dưới cánh tay kia. Anh nói chuyện
rất nhỏ, chỉ trả lời Có và Được rồi, nhìn theo cô khi cô bước vào phòng. “Nói
sau nhé.” anh nói rồi gác máy.

Một sự im lặng kéo dài.

“Lỗi phi công chiếm bao nhiêu?” cô hỏi.

“Bảy mươi phần trăm.”

“Lỗi gì? Chuyện gì đã xảy ra?”

“Đó là một loạt sự cố dẫn đến cái cuối cùng, và cái cuối
cùng thường được gọi là lỗi phi công vì đến lúc đó thì phi công đã có liên quan
rất nhiều.”

“Tôi hiểu rồi.”

“Tôi hỏi cô câu này được không?”

“Vâng.”

“Jack có...?”

Anh ngập ngừng.

“Jack có sao?” cô hỏi.

“Jack có bị kích động hay trầm cảm không?”

Robert ngập ngừng.

“Ý anh là gần đây?” cô hỏi.

“Tôi biết đó là một câu hỏi quá đáng, nhưng sớm muộn gì cô
cũng sẽ phải trả lời. Nếu có chuyện gì, nếu có bất kỳ chuyện gì cô biết hoặc
nhớ lại được, thì tốt hơn là cô và tôi nên nói về nó trước.

Cô cân nhắc câu hỏi. Kỳ lạ thật, cô thầm nghĩ, cứ tưởng ta biết tường tận một ai đó, hoặc ngỡ như mình biết, khi ta đang yêu - chìm đắm, ngập tràn trong tình yêu - chỉ để nhận ra sau đó rằng có thể ta không biết rõ về người ấy như ta tưởng tượng. Hoặc không rõ như ta kỳ vọng. Thuở ban đầu, kẻ đang yêu luôn nuốt lấy từng lời nói, cử chỉ, và cố gắng duy trì sự nồng nhiệt ấy càng lâu càng tốt. Nhưng một điều không thể tránh khỏi là, nếu hai người ở cạnh nhau đủ lâu thì sự nồng nhiệt ấy phải phai nhạt dần. Đó là cách người ta sống trên cõi đời này, Kathryn tự nhủ, với nhu cầu phát triển từ giai đoạn yêu đương nồng thắm sang xây dựng cuộc sống với một ai đó, người đó cũng thay đổi, điều chỉnh bản thân, để hai người có thể cùng nhau nuôi dạy con cái.

Một số đôi tình nhân không thể làm được điều đó, cô biết từ ví dụ của bố mẹ cô. Kathryn không nhớ có lúc nào mà bố mẹ cô lại không có cảm giác muốn nhau, cần nhau, và căng thẳng với nhau. Dù bố cô là người có lỗi vì thói trăng hoa của ông và đương nhiên đã gây đau khổ cho mẹ cô, nhưng Kathryn biết chắc rằng chính mẹ cô mới là người đập tan từ đầu bất kỳ cơ hội mong manh nào để họ tìm lại hạnh phúc. Vì ông trời đã an bài khiến mẹ cô suốt đời không quên được khoảng thời gian gặp Bobby Hull năm bà hai mươi hai tuổi, ông đã yêu bà và khiến bà ngây ngất. Trong một năm - khoảng thời gian mà bố mẹ Kathryn lấy nhau và thụ thai cô - Bobby Hull không hề rời mắt khỏi người vợ mới cưới hoặc xa bà nửa bước, vì thế mẹ cô cảm thấy, lần đầu tiên trong đời, mình vừa được yêu chiều vừa xinh đẹp tuyệt trần, liều thuốc gây nghiện mạnh hơn cả loại rượu bourbon mà Bobby Hull đã mời bà uống khi họ gặp nhau. Năm đó, năm mà Kathryn tin là khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong cuộc đời mẹ cô - và là năm mà Kathryn biết tường tận hơn cả, vì, từ khi còn bé, cô đã được nghe kể hết sức chi tiết mỗi khi bố mẹ cãi nhau - có ý nghĩa quan trọng đến mức gần như thiêng liêng khi năm tháng trôi qua. Còn bố của Kathryn, sau khi đã tu thân tích đức và thực tâm cố gắng làm vui lòng vợ, vẫn không thể nào đem lại cảm giác đó một lần nữa. Kathryn luôn nghĩ rằng bi kịch của cuộc đời mẹ cô chính là khi Bobby Hull giảm dần cường độ quan tâm dành cho bà. Chuyện này bắt đầu rất tự nhiên, cũng như hai người yêu nhau đắm đuối cuối cùng vẫn có thể tiếp tục cuộc sống, đi làm và chăm sóc con cái, nhưng dần dà nó đã trở thành một cách sống, ngay khi mẹ cô nhận ra sự nguội lạnh và gọi tên nó - nói đúng hơn là gán cho nó một cái tên. Kathryn thường nghe mẹ cô cất lên từ phòng ngủ trên lầu, bằng một giọng đau đớn, lặp đi lặp lại, hai tiếng Tại sao? Đôi khi (nhớ đến điều này khiến Kathryn cau mày), mẹ cô lại van nài Bobby Hull khen bà đẹp, và lời van nài đó ngay lập tức khiến bố Kathryn, một người cứng đầu , càng kiệm lời hơn, dù ông thực sự rất yêu vợ và hẳn sẽ khen bà đẹp nếu bà không đòi hỏi trước.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3