Vợ phi công - Chương 05 phần 2

Về cuộc hôn nhân của riêng mình, sau khi cân nhắc mọi thứ, Kathryn nghĩ cô gặp khó khăn hơn Jack khi phải chuyển từ tình nhân sang vợ chồng. Kathryn ngờ rằng sự chuyển đổi này xảy ra với cô và Jack muộn hơn với những đôi vợ chồng khác, và đó là điều may mắn cho họ. Có phải đó là năm Mattie mười một tuổi? Mười hai tuổi? Jack có vẻ như giữ một chút khoảng cách với Kathryn. Cô không thể chỉ ra hoặc giải thích chính xác đó là gì. Cô luôn nghĩ rằng, trong mọi cuộc hôn nhân, hai vợ chồng tự tạo ra vở kịch tình ái, diễn nó trong phòng ngủ hoặc ở chốn công cộng trong im lặng, hoặc ngay cả qua điện thoại, một vở kịch thường được lặp đi lặp lại với câu thoại giống nhau, biên đạo sân khấu như nhau, những phần cơ thể làm đạo cụ như nhau. Nhưng nếu một người sau đó thay đổi một chút vai diễn của mình hoặc tìm cách bỏ bớt vài lời thoại, thì vở kịch sẽ không còn diễn ra suôn sẻ như trước nữa. Diễn viên còn lại, chưa nhận ra vở kịch đã bị thay đổi, đôi khi quên lửng lời thoại, hoặc nuốt mất chúng, hoặc trở nên lúng túng vì biên kịch đã đổi khác.

Vậy là nó đã xảy ra, với Jack và cô. Anh bắt đầu ít quay sang cô hơn khi nằm trên giường. Và rồi, những khi anh quay sang cô, dường như sự nhiệt tình đã biến mất. Đó chỉ là một sự trượt nhẹ ra xa, chậm đến nỗi đôi khi không thể nhận ra được, cho đến một ngày Kathryn chợt nhận ra hơn hai tuần rồi cô và Jack đã không ân ái. Vào lúc ấy, cô nghĩ rằng nhu cầu được ngủ của Jack quá lớn; lịch làm việc của anh rất khó khăn, và anh thường có vẻ mệt mỏi. Nhưng thỉnh thoảng cô lo lắng rằng có thể chính cô là người chịu trách nhiệm cho bước chuyển mới này, rằng cô đã trở nên quá thụ động. Và thế là có một lần, cô đã cố gắng nồng nhiệt hơn, sáng tạo hơn, nhưng nỗ lực ấy không mấy thành công.

Kathryn đã hứa với lòng sẽ không than phiền. Cô sẽ không bấn loạn. Cô thậm chí sẽ không nhắc đến chuyện đó. Nhưng cái giá cho sự ngậm tăm ấy, Kathryn sớm nhận ra, là một màn sương vô hình bao bọc quanh cô, một tấm màng khiến cô và Jack không thể dễ dàng chạm đến nhau được nữa. Sau một khoảng thời gian, màn sương ấy khiến cô căng thẳng.

Và rồi họ đã cãi nhau. Cuộc cãi vã kinh khủng duy nhất trong cuộc sống của vợ chồng họ.

Nhưng cô không muốn nghĩ đến nó lúc này.

“Chẳng có gì cả,” cô nói với Robert. “Chắc là tôi về phòng đây.”

Robert gật đầu, đồng tình với ý kiến đó.

“Cuộc hôn nhân của chúng tôi rất tốt đẹp,” Kathryn nói.

Cô lướt tay trên bàn.

“Tốt lắm,” cô lặp lại.

Nhưng thật tình cô nghĩ cuộc hôn nhân nào cũng giống như sóng phát thanh: lúc có lúc không. Thỉnh thoảng, nó - cuộc hôn nhân, Jack - trở nên rất rõ ràng với cô. Lúc khác lại bị nhiễu sóng, một âm thanh rè rè giữa họ. Vào những lúc đó, cô cảm thấy như mình nghe không rõ Jack, như điều anh muốn nói với cô đã trôi tuột sang hướng khác trong tầng bình lưu.

“Chúng ta có cần báo tin cho người nhà nào khác của anh ấy không?” Robert hỏi.

Kathryn lắc đầu.

“Anh ấy là con một. Chín tuổi đã mồ côi mẹ. Bố mất khi anh ấy học cao đẳng.”

Cô tự hỏi liệu Robert Hart đã biết hết những điều này chưa.

“Jack không bao giờ kể về tuổi thơ,” cô nói. “Thực tình, tôi không biết gì nhiều về tuổi thơ của anh ấy cả. Tôi luôn có ấn tượng đó là một tuổi thơ không hạnh phúc cho lắm.” Tuổi thơ của Jack là một trong những chủ đề mà Kathryn từng nghĩ còn cả đời để hỏi anh.

“Nói thật, tôi sẵn lòng ở lại

“Không, anh nên đi đi. Nếu tôi cần gì thì có bà Julia của tôi ở đây rồi. Vợ cũ của anh làm gì?”

“Cô ấy làm việc cho Thượng nghị sĩ Hanson. Ở Virginia.”

“Khi anh hỏi tôi về Jack, về việc anh ấy có bị trầm cảm hay không ấy?”

“Vâng.”

“Ừm, có một lần, tôi không nghĩ anh ấy bị trầm cảm, mà chắc chắn là không vui.”

“Kể cho tôi nghe đi,” Robert nói.

“Liên quan đến công việc của anh ấy. Chuyện này xảy ra khoảng năm năm trước. Anh ấy cảm thấy chán hãng hàng không. Suốt một thời gian ngắn, gần như là chán phát điên. Anh ấy bắt đầu mơ tưởng đến chuyện nghỉ việc, tìm một công việc khác - anh ấy gọi là máy bay nhào lộn. Trong một chiếc YAK 27 của Nga, tôi còn nhớ như vậy. Hoặc là mở công ty riêng. Anh biết đấy, trường dạy bay, công ty cho thuê máy bay, bán vài chiếc máy bay.”

“Tôi cũng từng nghĩ đến chuyện đó,” Robert nói. “Tôi nghĩ đến lúc nào đó mọi phi công đều nghĩ đến nó.”

“Jack nói công ty phát triển nhanh quá. Nó đã trở nên quá xa lạ, anh ấy hầu như chẳng còn biết ai trong tổ bay cùng mình nữa. Rất nhiều phi công là người Anh sống ở London. Ngoài ra, anh ấy nhớ những giờ bay thực hành trước đó. Anh ấy muốn tìm lại cảm giác khi bay. Một thời gian hòm thư chúng tôi chứa đầy tờ rơi giới thiệu về máy bay nhào lộn, thậm chí có một buổi sáng, anh ấy còn hỏi tôi muốn đi với anh đến Boulder hay không, ở đó có một phụ nữ đang bán lại trường học. Và tất nhiên tôi phải trả lời là có, vì anh ấy đã từng làm thế vì tôi, tôi nhớ mình đã rất lo lắng vì trông anh rất không vui, tôi nghĩ có lẽ anh thực sự cần phải thay đổi. Mặc dù tôi cảm thấy thật nhẹ nhõm khi chủ đề này cuối cùng cũng trôi vào quên lãng. Sau đó thì không còn nói gì đến chuyện rời khỏi hãng hàng không

“Chuyện này xảy ra năm năm trước à?”

“Tầm đấy. Tôi không giỏi nhớ về thời gian lắm. Tôi biết rằng đường bay Boston-Heathrow đã thật sự giải cứu chúng tôi. Tôi nghĩ mình đã vô cùng vui sướng khi cơn khủng hoảng qua đi, tôi không dám hỏi han gì vì sợ nhắc lại chủ đề này. Giờ thì tôi ước gì mình đã hỏi.”

“Sau đó anh ấy không còn vẻ trầm cảm nữa à?” Robert hỏi.

“Đúng, có vẻ vậy.”

Cô nghĩ mình không thể kết luận một cách chắc chắn Jack đã điều chỉnh gì bên trong con người anh. Dường như anh đã chôn cất sự bất mãn của mình vào cùng nơi mà anh đã chôn cất tuổi thơ - một chiếc hầm đóng kín.

“Trông anh mệt rồi đấy,” cô nói với Robert.

“Tôi mệt thật.”

“Có lẽ anh nên đi đi.”

Anh ta im lặng, không nhúc nhích.

“Cô ấy trông như thế nào? Ý tôi là, vợ của anh ấy. Vợ cũ.”

“Cô ấy bằng tuổi cô. Cao. Tóc ngắn màu đen. Rất đẹp.”

“Tôi đã tin anh ấy sẽ không chết,” Kathryn nói. “Tôi có cảm giác như mình bị lừa. Điều đó nghe có kinh khủng quá không? Cuối cùng thì anh ấy đã chết, tôi thì không. Có thể anh ấy đã đau đớn lắm. Tôi biết anh ấy đã rất đau đớn, dù chỉ vài giây.”

“Giờ cô là người đang đau đớn đấy.”

“Không giống nhau.”

“Cô đã bị lừa,” anh ta nói. “Cả cô và con gái của cô.”

Nghe nhắc đến con gái, Kathryn thấy cổ họng mình thắt lại. Cô đưa tay ra ôm mặt, như muốn bảo anh ta đừng nói gì nữa.

“Cô phải để chuyện này xảy ra với cô,” anh nói khẽ. “Nó có nhịp điệu riêng.”

“Giống như một chuyến tàu đang chạy qua người tôi vậy. Một chuyến tàu không dừng lại.”

“Tôi muốn giúp cô, nhưng tôi chẳng thể làm gì nhiều, chỉ biết đứng nhìn mà thôi. Đau đớn vì mất người thân là điều khó kiểm soát. Nó chẳng hay ho gì cả.”

Cô úp mặt xuống bàn rồi nhắm mắt lại.

“Chúng ta phải tổ chức tang lễ, đúng không?” cô hỏi.

“Ta có thể nói chuyện đó vào ngày mai.”

“Nhưng nếu không tìm thấy xác thì sao?”

“Cô theo tôn giáo nào?”

“Tôi vô thần. Tôi từng theo Hội Giám lý. Bà Julia là tín đồ Hội Giám lý.”

“Còn J thì sao?”

“Công giáo. Nhưng anh ấy cũng chẳng tin gì. Chúng tôi không có tên ở nhà thờ nào cả. Cũng không làm lễ cưới trong nhà thờ.”

Cô cảm thấy ngón tay Robert chạm lên tóc mình. Nhẹ nhàng. Thoáng chốc.

“Tôi đi đây,” anh nói.

***

Sau khi Robert ra về, Kathryn ngồi nán lại một phút, sau đó đứng dậy, đi vào từng phòng ở tầng trệt để tắt đèn. Cô tự hỏi chính xác thì lỗi phi công nghĩa là gì. Rẽ trái trong khi được lệnh rẽ phải? Tính toán nhầm số liệu nhiên liệu? Không bay đúng hướng? Vô tình bật mở một công tắc? Có nghề nào khác mà một người có thể phạm sai lầm khiến 103 người thiệt mạng không? Kỹ sư tàu hỏa? Tài xế xe buýt? Người làm việc với hóa chất, với chất thải nguyên tử?

Đó không thể là lỗi phi công, cô tự nhủ. Vì Mattie, đó không thể là lỗi phi công.

Cô đứng một lúc lâu tại bậc trên cùng của cầu thang, sau đó quay qua hành lang.

Phòng ngủ rất lạnh. Cửa đóng cả ngày. Cô để mắt làm quen với bóng tối. Giường ngủ bừa bộn, giống như lúc cô thức dậy vào ba giờ hai mươi bốn phút sáng.

Cô đi quanh giường và nhìn nó, như một con thú rình mồi - cảnh giác và thận trọng. Cô kéo lại chăn, ga giường, và ngắm nghía tấm ga bọc đệm trong ánh trăng. Nó có màu kem, vải sọc ca rô dành cho mùa đông. Jack và cô đã làm tình bao nhiêu lần trên chiếc giường ấy? cô tự hỏi. Trong mười sáu năm chung sống? Cô chạm lên ga giường. Nó đã sờn và êm ái. Mềm mại. Cô ngập ngừng ngồi lên mép giường, xem mình có thể chịu đựng nổi chuyện này không. Cô không còn tin vào bản thân nữa, không còn biết chắc chắn cơ thể cô sẽ phản ứng thế nào với bất kỳ tin tức gì nữa. Nhưng khi ngồi đó, cô chẳng cảm thấy gì cả. Cô thầm nghĩ, có lẽ, sau một ngày dài, cuối cùng cô cũng đã trở nên tê dại. Các gian không thể chịu đựng hơn được nữa.

“Lỗi phi công,” cô nói lớn, thử cảm giác của mình.

Nhưng đó không thể là lỗi phi công, cô nghĩ nhanh. Cuối cùng, đó sẽ không phải là lỗi phi công.

Cô nằm xuống giường, mặc nguyên quần áo. Cô nghĩ, bây giờ nó sẽ là giường của cô. Giường của một mình cô. Cả căn phòng dành cho một mình cô.

Cô nhìn qua chiếc đồng hồ đầu giường: chín giờ hai mươi bảy.

Thận trọng - theo dõi những chuyển động địa chấn của bản thân - cô duỗi chân và kéo chăn đắp lên người. Cô tưởng tượng mình có thể ngửi thấy mùi của Jack trong lớp vải sọc ca rô. Có thể được - cô chưa giặt ga giường kể từ khi anh đi vào hôm thứ ba. Nhưng cô không thể tin tưởng vào giác quan của mình, không biết cái gì là thật hay là tưởng tượng. Cô nhìn sang chiếc áo sơ mi của Jack vắt trên ghế. Kathryn đã có thói quen, từ khi mới cưới, không bận tâm dọn dẹp nhà cửa cho đến khi Jack sắp về. Bây giờ, cô biết, cô sẽ không muốn tháo chiếc áo ra khỏi ghế. Có thể còn nhiều ngày nữa cô mới chạm đến nó, mới dám áp nó vào mặt, mới đánh liều tìm lại mùi của anh trong từng sớ vải. Khi mọi dấu vết của Jack đã được giặt sạch và cất đi, khi đó cô còn lại gì?

Cô lăn qua một bên, nhìn căn phòng trong ánh trăng. Qua khoảng trống nhỏ trên cửa sổ, cô nghe tiếng nước chảy.

Cô nhớ rõ mồn một hình ảnh Jack dưới biển, bập bềnh trên lớp cát ở đáy biển.

Cô kéo lớp ga sọc ca rô qua mũi và miệng rồi hít thở chậm, nghĩ rằng làm vậy có thể giúp mình không bấn loạn. Cô nghĩ đến chuyện bò sang phòng của Mattie rồi nằm trên sàn nhà cạnh Mattie và bà Julia. Có thật cô đã tưởng tượng mình có thể ngủ đêm đầu tiên một mình trên chiếc giường hôn nhân này?

Cô ngồi bật dậy và đi vào nhà tắm để lại một lọ Valium trong đó. Cô uống một viên, rồi thêm một viên nữa để phòng hờ. Cô nghĩ đến việc uống viên thứ ba. Cô ngồi trên mép bồn tắm cho đến khi cảm thấy choáng váng.

Cô nghĩ có lẽ mình sẽ nằm nghỉ trên chiếc giường nhỏ trong phòng ngủ dành cho khách. Nhưng khi đi ngang phòng làm việc của Jack, cô thấy đèn còn mở. Cô mở cửa.

Phòng làm việc sáng trưng và không màu - trắng, kim loại, nhựa, xám. Cô hiếm khi vào phòng này, nó là khoảng không gian chẳng có gì hấp dẫn, cửa sổ không có rèm, tủ hồ sơ kim loại dựa vào tường thành hàng. Một căn phòng đàn ông.

Cô cho rằng nó có trật tự riêng - một trật tự chỉ mình Jack biết. Trên chiếc bàn kim loại khổng lồ có hai máy tính, một bàn phím, một máy fax, hai điện thoại, một máy scan, nhiều cốc cà phê, mô hình máy bay bám bụi, một tách nước ép hoa quả màu đỏ (cô đoán đó là tách của Mattie), và một đồ cắm bút chì bằng sáp màu xanh Mattie làm tặng Jack năm nó học lớp hai.

Cô nhìn chiếc máy fax đang nhấp nháy đèn.

Cô đi đến bàn làm việc và ngồi xuống. Robert đã ở đây lúc tối, dùng điện thoại và máy fax. Kathryn mở ngăn kéo bên trái. Bên trong là sổ lịch trình của Jack, những quyển sổ nặng, màu tối, gáy bằng nhựa vinyl và những quyển nhỏ hơn, bỏ vừa túi áo. Cô thấy một chiếc đèn pin nhỏ, một đồ mở thư bằng ngà mà anh đem về từ châu Phi nhiều năm trước, những quyển cẩm nang về các loại máy bay mà anh không còn lái nữa, một quyển sách về radar dự báo thời tiết. Một cuốn phim tập huấn về gió nghịch chiều. Cầu vai từ thời ở Santa Fe. Những miếng lót cốc trông như thiết bị bay.

Cô đóng tủ lại rồi mở ngăn kéo dài ở giữa. Cô chạm phải một bộ chìa khóa, có thể là chìa khóa căn hộ trước đây ở Santa Fe. Cô cầm lên một cặp kính đọc sách gọng đồi mồi cũ bị chiếc Caravan của Jack cán qua. Anh quả quyết nó vẫn còn dùng được. Có những hộp kẹp giấy, bút mực, bút chì, dây thun, đinh bấm, hai cục pin, một bugi đánh lửa. Cô cầm lên một tập giấy ghi chú và thấy bên dưới là một bộ kim chỉ của khách sạn Marriott. Cô mỉm cười nhìn bộ kim chỉ và hôn lên nó. Cô mở một ngăn kéo đựng hồ sơ lớn hơn ở bên phải. Nó được thiết kế để đựng hồ sơ cỡ giấy A4, nhưng trong đó chỉ có một chồng giấy tờ cao khoảng ba tấc. Cô lôi chồng giấy ra đặt lên đùi. Đó là một bộ hồ sơ ngẫu nhiên không có thứ tự gì. Có một tấm thiệp sinh nhật từ Mattie, báo cáo từ hãng hàng không, một quyển danh bạ điện thoại, một loạt mẫu bảo hiểm y tế, một bản nháp bài văn mà Mattie viết ở trường, một catalog những quyển sách về lái máy bay, một tấm thiệp valentine mà Kathryn tự làm tặng anh năm ngoái. Cô nhìn bìa trước của tấm thiệp. Bìa thiệp có dòng chữ Valentine, em thích điều anh làm cho ký ức em... Cô mở thiệp ra.Và những gì anh làm cho cơ thể em. Cô nhắm mắt lại.

Sau một lúc, cô áp những tài liệu đã xem qua lên ngực, và tiếp tục xem những tài liệu còn lại. Cô phát hiện ra vài tờ sao kê ngân hàng của Jack được kẹp chung với nhau. Cô và Jack có tài khoản riêng. Cô trả tiền quần áo cho Mattie và mình, tiền thức ăn và các món khác trong nhà. Jack trả tất cả những khoản còn lại. Anh đã nói dành dụm được bao nhiêu sẽ dùng khi về hưu.

Mắt cô ríu lại đến không mở nổi nữa. Cô cố gắng xếp các tài liệu còn lại ngay ngắn trên đùi rồi đặt lại vào ngăn kéo. Trong ngăn kéo, mắc kẹt vào khe, là một bì thư chưa mở, thư rác, một thư mời mở thẻ Visa nữa. Ngân hàng Bay, 9,9 phần trăm. Cũ rồi, cô nghĩ.

Cô cầm bì thư lên và định ném nó vào thùng rác thì chợt nhìn thấy dòng chữ ở mặt sau. Chữ của Jack. Một danh sách cần làm khác: Gọi điện Nhà thuốc Ely Falls, Gọi Alex, Gửi tiền ngân hàng, Chi phí tháng ba, Gọi Larry Johnson về thuế, Gọi Finn về Caravan. Cô nhớ Finn là người môi giới xe Dodge-Plymouth ở Ely Falls. Họ mua chiếc Caravan bốn năm trước và theo cô biết thì không hề mua bán gì với Tommy Finn nữa.

Cô xoay bì thư lại. Ở cuối mặt trắng của bì thư là một ghi chú, cũng bằng chữ của Jack. Muire 3:30.

Muire là ai? Kathryn thắc mắc. Randall Muir ở ngân hàng? Chẳng lẽ Jack có thương lượng một khoản vay?

Kathryn nhìn lại mặt trước bì thư. Cô kiểm tra dấu bưu điện. Chắc chắn là bốn năm trước

Cô đặt chồng giấy tờ vào ngăn kéo rồi lấy chân đóng tủ lại.

Lúc này cô chỉ muốn nằm xuống. Cô đi ra khỏi phòng làm việc của Jack, sang phòng nghỉ dành cho khách, nơi nghỉ dưỡng của cô. Cô nằm lên ga giường in hoa, và chỉ vài giây sau đã ngủ thiếp đi.

Cô bị những giọng nói đánh thức - một tiếng hét, gần như điên loạn, và một giọng khác, bình tĩnh hơn, như đang cố gắng để được nghe thấy giữa cơn náo loạn.

Kathryn ngồi dậy, mở cửa, và giọng nói to hơn. Mattie và Julia đang ở phòng khách bên dưới.

Họ đang quỳ gối khi Kathryn đi xuống, Julia mặc áo ngủ sọc ca rô, Mattie mặc áo thun và quần đùi. Xung quanh họ là một bãi chiến trường giấy gói quà - những đống giấy vò nát và nhăn nhúm màu đỏ, vàng, ca rô, xanh, bạc, nằm giữa hàng nghìn mét dây ruy băng màu.

Julia ngước lên.

“Nó thức dậy rồi đi xuống dưới đây,” bà giải thích. “Nó định gói quà.”

Mattie khụy xuống sàn, nằm cuộn tròn tư thế bào thai trên thảm.

Kathryn nằm xuống cạnh con.

“Con không chấp nhận nổi, mẹ ơi,” Mattie nói. “Nhìn đâu con cũng thấy bố. Bố ở trong mọi căn phòng, trên mọi chiếc ghế, ở cửa sổ, ở giấy dán tường. Con thật không chịu nổi, mẹ ơi.”

“Con đang định gói quà cho bố à?” Kathryn hỏi, vén tóc trên mặt con gái.

Mattie gậtvà khóc nấc lên.

“Bà sẽ đưa nó về nhà bà,” Julia nói.

“Mấy giờ rồi ạ?”

“Mới qua nửa đêm thôi. Bà sẽ đưa nó về nhà cho nó đi ngủ.”

“Cháu cũng đi,” Kathryn nói.

“Không. Cháu kiệt sức rồi đấy. Cháu ở lại và đi ngủ đi. Mattie ở với bà sẽ ổn thôi. Nó cần thay đổi hoàn cảnh, một khu vực trung tính, một phòng ngủ trung tính.”

Và Kathryn nghĩ hình ảnh đó thật phù hợp, vì cô có cảm giác mơ hồ rằng họ đang dính vào một cuộc chiến, rằng tất cả họ đều có nguy cơ trở thành nạn nhân của cuộc chiến.

Khi Julia soạn đồ để đem theo cho Mattie, Kathryn nằm xuống cạnh con và xoa lưng nó. Thỉnh thoảng Mattie lại rùng mình thật mạnh. Kathryn hát bài hát mà cô đã tự nghĩ ra khi Mattie còn bé: M là viết tắt của Matigan..., đó là câu đầu của bài hát.

Sau khi Julia và Mattie đi rồi, Kathryn quay lại phòng ngủ của mình. Lần này, cảm thấy dũng cảm hơn, cô bò vào nằm giữa những tấm ga sọc ca rô.

Cô ngủ không mộng mị.

***

Buổi sáng, cô nghe tiếng chó sủa.

Có điều gì đó quen thuộc một cách phi lý trong tiếng chó sủa ấy.

Và cô g lên chuẩn bị, như cách cô phản ứng khi dừng xe chờ đèn đỏ và tình cờ nhìn vào kính chiếu hậu, thấy người lái xe ở phía sau đang chạy quá tốc độ.

***

Tóc Robert ướt và mới chải. Cô nhìn thấy đường chải bằng lược ở gần đường rẽ ngôi. Anh mặc một chiếc áo khác, màu xanh gần giống như vải jean, thắt cà vạt màu đỏ sậm. Áo ngày thứ hai, cô nghĩ vẩn vơ.

Trên quầy bếp có một cốc cà phê. Anh đang cho tay vào túi quần, đi đi lại lại.

Cô nhìn lên đồng hồ. Sáu giờ bốn mươi. Sao anh ta đến sớm thế nhỉ?, cô tự hỏi.

Khi trông thấy cô ở cuối cầu thang, anh rút tay ra khỏi túi quần và tiến đến cô.

Anh đặt hai tay lên vai cô.

“Chuyện gì?” cô lo lắng hỏi.

“Cô có biết CVR là gì không?”

“Có. Máy ghi âm giọng nói buồng lái.”

“Ừm, họ tìm thấy nó rồi.”

“Rồi sao?”

Anh ngập ngừng. Chỉ một chốc.

“Họ nói là tự sát.”