Vợ phi công - Chương 13 phần 2

Cô ngửa đầu lên, ngẫm nghĩ về đoạn hội thoại cuối cuộn băng.

“Anh ấy có một quả bom trong túi bay,” cô khẽ nói. “Một quả bom vũ trang. Vì thế mà họ nghĩ đến khả năng tự sát.”

Robert đứng dậy. Anh cho tay vào túi quần.

“Thậm chí chỉ một câu khác đi là cả cuộn băng sẽ có ý nghĩa khác. Thậm chí với những từ đúng như tôi vừa kể, đoạn băng không nhất thiết phải có một ý nghĩa gì đó. Cô biết như thế mà. Chúng ta đã nói về chuyện đó rồi.”

“Họ có biết chắc chắn rằng Jack có mặt trong buồng lái vào lúc đó không?”

“Họ nghe tiếng cửa buồng lái mở ra rồi đóng lại. Sau đó Sullivan gọi đích danh anh ấy.”

“Điều tôi không hiểu là làm sao Jack lại có thể cất một thứ nguy hiểm như thế trong túi bay của anh ấy.”

“Thật ra thì,” Robert nói, “chuyện đó lại rất dễ.” Anh quay ra nhìn trời tuyết. “Nó vô hại. Tuyệt đối vô hại. Mọi người đều làm thế.”

“Làm gì?”

“Rất nhiều phi công quốc tế làm thế, hầu như mọi tiếp viên hàng không mà tôi biết,” Robert nói. “Thường là trang sức. Vàng và bạc, đôi khi có cả đá quý.”

Cô không chắc mình có hiểu hay không. Cô nghĩ đến số nữ trang mà cô đã nhận từ Jack trong nhiều năm qua: một chiếc lắc tay mỏng bằng vàng vào một dịp kỷ niệm, một chiếc dây chuyền chữ S trong dịp sinh nhật, hoa tai cẩn kim cương vào Lễ Giáng sinh.

“Sau khi ra vào sân bay hàng trăm lần thì cô sẽ quen các nhân viên an ninh,” Robert nói. “Họ kể chuyện về gia đình mình và vẫy tay cho cô qua. Đó là phép lịch sự. Khi tôi còn bay, cứ năm mươi lần qua hải quan tôi mới phải trình hộ chiếu một lần. Và hải quan hầu như không bao giờ khám xét túi của tôi.”

Kathryn lắc đầu. “Tôi chẳng biết gì hết,” cô nói. “Jack không bao giờ kể với tôi.”

“Một số phi công giữ kín chuyện này. Tôi nghĩ nếu đó là một món quà thì người vợ sẽ không vui nếu biết nó được tuồn lậu qua hải quan. Tôi cũng chẳng biết nữa.”

“Anh có làm thế không?” cô hỏi.

“Luôn luôn vào dịp Giáng sinh. Đó sẽ là câu hỏi khi gặp nhau ở sảnh đợi xe trung chuyển ra sân bay: Anh mua gì cho vợ?”

Cô đút tay vào túi quần jean; đứng thõng vai xuống.

“Tại sao Jack không nói gì trong đoạn băng?” Kathryn hỏi. “Nếu anh ấy không biết đó là bom, thì anh ấy hẳn đã ngạc nhiên như Trevor Sullivan rồi. Anh ấy đã nói gì đó rồi. Anh ấy sẽ hỏi, Cậu nói cái gì vậy? Anh ấy sẽ kêu trời hoặc quát lên.”

“Không hẳn.”

“Jack đã nói dối về mẹ anh ấy,” Kathryn nói.

“Thì sao?”

“Anh ấy không ngủ ở căn hộ phi hành đoàn.”

“ thế chưa đủ.”

“Ai đó đã đem bom lên máy bay.”

“Nếu đó là bom, thì ai đó đã đặt nó ở đó. Tôi đảm bảo với cô như thế.”

“Và Jack hẳn đã biết điều đó,” cô nói. “Đó là túi bay của anh ấy mà.”

“Tôi không đảm bảo chuyện đó.”

“Viên phi công người Maroc đã tự sát,” cô nói.

“Chuyện đó hoàn toàn khác.”

“Sao ta biết nó khác hay không?”

“Cô đang đứng về phe ác,” Robert nói với cô bằng giọng gấp gáp. “Cô không thực lòng tin rằng Jack đã làm điều đó.” Robert thở dài vẻ thất vọng và quay lưng về phía cô.

“Cô muốn biết về đoạn băng, nên tôi đã kể cho cô nghe.”

***

Cô mở tờ fax mà cô nhét dưới cánh tay. Trong đó có rất nhiều cái tên, chín hoặc mười trang toàn là tên, bắt đầu bằng phi hành đoàn gần đây nhất của Jack và xa dần đến năm 1986, năm anh bắt đầu làm với hãng hàng không. Cô nhìn vào danh sách: Christopher Haverstraw, Paul Kennedy, Michael DiSantis, Richard Goldthwaite... Thỉnh thoảng, một khuôn mặt hiện lên, một người nam hoặc nữ mà cô và Jack từng ăn tối cùng, hoặc một người cô đã gặp ở một buổi tiệc, dù hầu hết những cái tên đều xa lạ với cô, và một nửa trong số đó sống ở Anh. Theo cách này, cô nghĩ, cuộc đời của một phi công hãng Vision thật kỳ lạ, một nghề nghiệp gần như xa lánh đồng loại. Những thành viên của phi hành đoàn mà Jack bay cùng có thể sống cách anh tám mươi cây số hoặc cả một đại d

Và rồi, trong một danh sách năm 1992, cô nhìn thấy một cái tên mà cô thậm chí còn không nhận ra là mình đang tìm, cái tên không bình thường hiện lên ngay trên trang giấy và chui thẳng vào xương cô.

Muire Boland.

Tiếp viên hàng không.

Kathryn đọc lớn tên này.

Muire Boland.

Cô khá chắn chắn đó là tên phụ nữ. Cô thắc mắc liệu đó có phải là tên tiếng Pháp và cô phát âm có đúng không. Kathryn cúi xuống trước mặt và mở ngăn kéo lớn dưới bàn của Jack ra. Phong bì thư rác có tên viết bằng bút chì ở góc không còn nằm đó, nhưng cô có thể thấy nó rõ ràng hệt như cô đang nhìn thấy cái tên được đánh máy trên danh sách mà cô đang cầm trong tay. Muire 3:30, dòng chữ viết tay rất vội đã viết như vậy. Trên một phong bì, gửi từ Ngân hàng Bay.

Biết ngay rằng nếu cô chần chừ, cô sẽ bị tê liệt trước sự thiếu quyết đoán, Kathryn lấy tấm vé số ra khỏi túi quần rồi đặt nó lên bàn làm việc của Jack. Cô nhấc điện thoại lên và một lần nữa bấm con số viết trên đó. Một người trả lời, chính là giọng nói khi nãy.

“Xin chào,” Kathryn nói nhanh. “Muire có ở đó không?”

“Ai?”

Kathryn nhắc lại cái tên.

“Ô, chị muốn nói là Mui à,” giọng nói ở đầu dây bên kia đáp, và Kathryn nghe thấy phát âm chính xác của tên này: Meur-ah, hơi uốn lưỡi ở chữ R. “Không,” người phụ nữ đáp.

“Ồ, xin lỗi,” Kathryn nói, cảm thấy một sự nhẹ nhõm tột độ. Lúc này cô chỉ muốn gác ống nghe xuống.

“Muire từng ở đây,” giọng tiếng Anh nói, “nhưng cô ấy đã dọn về chỗ cũ rồi. Cô là bạn của cô ấy à?”

Kathryn không thể trả lời. Cô ngồi phịch xuống ghế.

“Cô là ai?” người phụ nữ ở London hỏi.

Kathryn mở miệng ra nhưng không thể nói tên mình. Cô ấn ống nghe lên ngực.

M ở A, dòng chữ viết trên tờ vé số trước mặt cô. Muire 3:30, dòng chữ viết trên phong bì thư rác. Hai ghi chú, bằng chữ viết tay của Jack, viết cách nhau bốn năm và có liên hệ với một số điện thoại.

Robert cầm lấy ống nghe từ tay cô rồi gác lên giá điện thoại.

“Tại sao cô lại hỏi tên Muire?” Robert hỏi nhanh. “Trông cô trắng bệch ra rồi.”

“Tôi chỉ đoán thôi,” cô đáp.

Người phụ nữ tên Muire là ai? Và Jack có mối liên hệ gì với cô ta? Có phải anh đã trải qua đêm cuối với người phụ nữ này không? Có phải Jack đã ngoại tình bấy lâu nay? Các câu hỏi đè lên ngực cô, chực làm cô ngạt thở. Cô nghĩ đến những câu nói đùa người ta hay nói về phi công và tiếp viên hàng không. Trước đây cô luôn phớt lờ những lời đùa đó, như thể ngoài đời thật, phi công sẽ không là

“Robert, anh có thể tìm thêm thông tin gì khác về một cái tên cụ thể không?” cô hỏi. “Chẳng hạn như người đó sống ở đâu?”

“Nếu cô chắc chắn đó là điều cô muốn,” anh đáp.

“Chuyện này thật kinh khủng.”

“Vậy thì đừng bận tâm đến nó.”

Cô nghĩ đến khả năng không bận tâm đến nó.

“Anh có thể làm thế không?” cô hỏi.

***

“Con bé muốn xem tivi,” bà Julia nói. “Bà phải nghĩ ra cái gì khác. Trước đây có người tặng bà phim Nhân chứng vào dịp Giáng sinh.”

Robert đã rời khỏi phòng làm việc của Jack. Kathryn nghĩ có thể anh đang rửa bát.

“Chính là Jack đấy.”

“Ừ, con bé có vẻ thích lắm. Nó dậy lúc hai giờ. Nó ăn rồi.”

“Bà đừng cho cháu nó xem tivi nhé,” Kathryn dặn dò. “Cháu nói nghiêm túc đấy. Nếu cần thì bà cắt dây cáp cũng được.”

Kathryn xoay vòng trong chiếc ghế văn phòng và nhìn ra lớp tuyết đang đọng ngày một dày ngoài bậu cửa sổ. Trông nó như nước trong bể cá. Muire từng ở đây, đầu dây bên kia đã nó

“Cậu Robert đang ở đấy với cháu à?” Julia hỏi.

“Vâng.”

“Cậu ấy đã đến đây, cháu biết chứ?”

“Cháu biết ạ.”

“Vậy cháu đã biết về...”

“Căn hộ phi hành đoàn ạ? Vâng.” Kathryn gác một chân lên, quàng một cánh tay quanh gối. Hai ghi chú, cách nhau bốn năm, liên hệ với nhau bằng một ký tự viết tắt. Kathryn cảm thấy một cơn bồn chồn lo lắng xâm chiếm, nó lập tức khiến mồ hôi tuôn lấm tấm trên trán cô.

“Cháu đừng đánh mất niềm tin,” bà Julia nói.

“Chính xác thì đó là niềm tin gì ạ?”

“Cháu hiểu ý bà mà.”

“Cháu đang cố để không hiểu đây.”

“Họ mới điều chỉnh dự báo thời tiết đấy,” bà Julia nói. “Âm mười hai lên âm mười một độ.”

“Bây giờ cháu nên về nhà bà,” Kathryn dùng tay áo lau trán.

“Cháu đừng ngốc nghếch thế. Nếu không có việc thì cháu không cần đi ra ngoài. Cháu ăn gì chưa?”

Đúng là bà Julia, luôn lo lắng chuyện ăn.

“Cháu ăn rồi ạ. Cháu nói chuyện với Mattie được không?”

Đầu dây bên kia im lặng.

“Cháu biết không,” Julia thận trọng nói, “Mattie đang bận. Nó vẫn ổn. Nếu cháu nói chuyện với nó, nó sẽ lại buồn rầu và xa cách. Nó cần nghỉ ngơi vài ngày, chỉ xem phim, ăn bỏng ngô thôi. Giống như thuốc phiện ấy, và con bé cần nó càng lâu càng tốt. Nó cần được chữa lành, Kathryn à.”

“Nhưng cháu muốn được ở cạnh nó,” Kathryn phản kháng.

“Kathryn à, cháu đã ở cạnh nó từng phút từng giây suốt mười ngày rồi. Cháu cũng hiểu là chỉ với sự có mặt của cháu thôi, hai mẹ con cháu đã xé toạc trái tim nhau rồi. Cháu không chịu đựng nổi nỗi buồn của nó, còn nó thì không chịu nổi khi nghĩ đến việc cháu đang đau khổ nhường nào. Bình thường cháu không dành thời gian ở bên nó như thế.”

“Việc này không phải là bình thường.”

“Thế thì lúc này chúng ta có thể dùng đến một chút bình thường vậy,” bà Julia nói.

Kathryn đi đến cửa sổ và lau lớp hơi nước phủ trên kính. Tuyết rơi dày đặc, con đường mòn vào nhà chưa được cào tuyết. Lớp tuyết đóng trên xe cộ dày phải đến hai tấc.

Cô thở dài. Thật khó để phản đối sự thông thái của bà Julia, nhất là khi hóa ra bà thường là người nói đúng.

“Đừng rời khỏi nhà,” bà Julia lặp lại.

Tuyết rơi đều suốt buổi chiều, mỗi lúc một dày đặc. Thỉnh thoảng, gió gào từng cơn nhưng sau đó dường như lại lập tức lắng dịu, như thể cơn bão đang từ bỏ nỗ lực trở thành một trận bão tuyết. Trong lúc Robert gọi điện thoại từ phòng của Jack, Kathryn đi thơ thẩn từ phòng này sang phòng khác, nhìn lên tường và ngoài cửa sổ, khoanh tay trước ngực, thả tay ra, rồi lững thững đi vào một căn phòng khác, đứng trong đó và tiếp tục nhìn lên tường hoặc ngoài cửa sổ. Dạo này, chỉ đứng yên và nghĩ ngợi đôi khi là tất cả những gì cô có thể làm.

Một lúc sau, cô thấy mình ở trong nhà tắm. Cô cởi bỏ áo quần rồi mở vòi hoa sen, để nước ấm lên từ từ đến mức nóng hổi. Khi bước vào, cô cúi cổ xuống dưới làn nước và đứng như thế một lúc lâu. Cảm giác thật dễ chịu khi đứng ở đấy đến khi bình nước nóng cạn hết và nước chuyển sang lạnh.

Khi tắt nước, cô nghe tiếng nhạc. Không phải nhạc từ đĩa, dù đó là tiếng piano.

Cô chỉnh lại cổ áo chiếc áo choàng tắm dài màu xám, loại áo bằng vải cotton dài đến mắt cá chân. Một người phụ nữ già nua nhìn cô trong gương, một khuôn mặt mệt mỏi với hai hố mắt trũng sâu.

Vừa đi vừa vuốt tóc, cô theo tiếng nhạc xuống cầu thang, vào phòng khách, ở đó Robert đang chơi piano.

Cô biết bản nhạc này: Chopin. Cô nằm xuống sofa, kéo áo choàng che lại đùi và chân.

Cô nhắm mắt lại. Fantasie Impromptu là một bản nhạc phù hoa, đẹp đẽ đầy kiêu hãnh, với cơ man nốt nhạc. Cô hiếm khi nghe bản nhạc này được chơi theo cách của Robert, không cảm xúc, song lại chứa đựng sức nặng khôn nguôi của những ký ức bị khuấy động và bí mật bị lãng quên. Khi nghe đến những cú vuốt, cô hình dung đến những mảnh kim cương vỡ.

Cây đàn piano nằm ở góc phòng, cạnh cửa sổ. Robert đã xăn tay áo lên, cô nhìn bàn tay anh trước, sau đó đến cánh tay. Sự khẽ khàng của tuyết càng làm tiếng nhạc mộc trong trở nên ấn tượng, hoặc có lẽ vì không có sự cạnh tranh từ bất kỳ âm thanh nào khác; tiếng piano nghe hay hơn so với cô nhớ, dù nhiều tháng rồi chưa được căn dây lại.

Cuộc sống nhiều năm trước hẳn giống như thế này, Kathryn nghĩ ngợi trong lúc lắng nghe Robert chơi đàn. Không tivi, không đài phát thanh, không phim ảnh, chỉ có không gian của một buổi chiều dài trắng xóa để tạo ra thời gian của riêng mình, âm thanh của riêng mình. Và thế này thật an toàn. Cô có thể thả tâm trí đi hoang, không nghĩ gì về vụ tai nạn hoặc Jack hoặc Mattie. Cây đàn piano không phải là món mà cô và Jack cùng sử dụng. Trước giờ nó chỉ thuộc về một mình cô, một sự theo đuổi lẻ loi, dù có một mối liên hệ đến bà Julia, mà bà thì cũng an toàn.

“Tôi không ngờ đấy,” cô nói khi anh đàn xong.

“Cũng lâu rồi,” anh đáp, quay sang cô.

“Anh đúng là lãng tử,” cô mỉm cười nói. “Một lãng tử khéo ẩn mình. Anh chơi hay tuyệt.”

“Cám ơn cô.”

“Chơi bản nào khác không?”

Khi đó cô nhận ra, theo cách mà trước đây cô không hề nhận thấy, rằng Robert là người có quá khứ - đương nhiên anh ta có quá khứ. Anh ta có cả một cuộc đời mà cô gần như chẳng biết gì, một cuộc đời trong đó anh chơi piano điệu nghệ, học lái máy bay, trở thành một anh chàng nghiện ngập, cưới vợ, sinh con đẻ cái, li dị vợ, rồi bằng cách nào đó lại dính đến công việc đặc biệt này.

Cô nhận ra giai điệu: “The shadow of your smile”. Thay đổi tâm trạng trong tích tắc.

Khi chơi xong, anh gãi gãi sau gáy rồi nhìn ra tuyết bên ngoài. “Bên ngoài tuyết dày phải ba tấc rồi đấy,” anh nói.

“Đường mòn vào nhà chưa được cào tuyết,” cô đáp. “Mấy giờ rồi nhỉ?”

Anh nhìn đồng hồ. “Ba giờ,” anh đáp. “Chắc tôi đi dạo một chút đây.”

“Trong thời tiết này ư?”

“Chỉ đi đến cuối đường mòn rồi quay lại thôi. Tôi cần chút không khí.”

“Tôi hi vọng anh biết rằng tối nay anh không phải ra khách sạn. Có rất nhiều giường trong căn nhà này. Rất nhiều phòng. Anh có thể ngủ trong phòng nghỉ dành cho khách,” cô nói thêm. “Ở đấy thoải mái lắm. Mục đích của nó là vậy mà.”

“Để ẩn nấp, như cô đã nói.”

“Phải.”

“Thông tin mà cô hỏi tôi được đặt trên bàn của Jack,” anh nói.

Cô mở miệng định nói, nhưng anh lắc đầu.

“Chuyện xảy ra với cô thật là họa vô đơn chí,” anh nói.

***

Kathryn chợp mắt vài phút trên sofa rồi lảo đảo bò lên phòng ngủ với ý nghĩ chui vào giường và ngủ một giấc thật dài. Cô đem theo quyển sách thơ.

Cô nằm sấp trên giường và bắt đầu lật từng trang, hờ hững tìm các câu thơ. Cô đọc những đoạn thơ ngắn của Gerard Manley Hopkins, Wordsworth, và Keats. Đến khoảng giữa cuốn sách, từ phản bội đột nhiên đập vào mắt cô, và cô nhận ra mình đã tìm được đúng bài thơ đó. Nhưng rồi gần như ngay lập tức, trước khi cô kịp đọc các câu thơ trong bài, cô thấy một g chú mờ dọc mép trong của trang giấy.

M!

Viết bằng bút chì, nét mảnh, với một dấu chấm than.

Và nằm ở đó. Không thể nhầm lẫn được.

Cô ngồi bật dậy và đọc kỹ bài thơ. Bài thơ có tựa đề “Antrim” của tác giả Robinson Jeffers. Có vẻ như nó nói về những cuộc chiến thời cổ đại để giành một mảnh đất, có vẻ mảnh đất tên là Antrim. Về máu đổ vì nhiều mục đích, hàng loạt những cuộc tập kích và phản bội, chủ nghĩa yêu nước và những thân người hy sinh, tất cả giờ hóa thành tro bụi, tro bụi chờ ngày phục sinh.

Nó có nghĩa là gì?

Cô để quyển sách rơi từ cạnh giường xuống đất. Cô nằm xuống và úp mặt vào gối. Cô cảm thấy như vừa vượt qua hàng nghìn dặm.

***

Khi tỉnh dậy, theo bản năng, cô đưa mắt nhìn đồng hồ trên tủ đầu giường. Lúc đó là ba giờ rưỡi sáng. Cô đã ngủ chín giờ. Hôm đó là ngày mấy nhỉ? Hai mươi tám? Hay hai mươi chín?

Cô vặn người ngồi dậy và lờ đờ đi ra hành lang. Cửa phòng nghỉ của khách đang đóng. Robert hẳn đã quay lại sau khi đi dạo và vào ngủ trong đấy, cô tự nhủ. Hay là anh ấy đã ăn tối? Xem tivi? Đọc sách?

Trong nhà bếp, không có dấu hiệu nào cho thấy có người đã nấu ăn. Kathryn pha một ấm cà phê và rót một tách. Qua cửa sổ trên bồn rửa, cô thấy tuyết đã ngừng rơi. Cô đi ra cửa sau, mở cửa ra và lập tức bị một làn bột mịn lạnh buốt rơi ập từ mái hiên xuống. Cô chớp mắt và lắc đầu. Điều chỉnh để quen với bóng tối, cô nhìn thấy bốn bề đã được bao phủ dưới một tấm chăn dày trắng toát, một tấm chăn chần vải bông xù có đường may cạn, cây cối, bụi rậm và xe cộ chỉ là những ụ nhô lên. Kỳ thực, tuyết nhiều đến nỗi cô tự hỏi phải chăng lời dự báo tuyết dày ba tấc không phải là quá lạc quan. Cô đóng cửa lại rồi tựa lưng vào đó.

M ở A.

Muire 3:30

M!

Siết chặt áo choàng lại, Kathryn nhanh chóng đi lên cầu thang đến phòng của Jack. Cô vẫn chưa thôi bất ngờ trước sự trống trải đầy bụi bặm của nó. Cô nhìn thấy tờ giấy mà Robert nhắc đến trên bàn của Jack.

Trên giấy viết rằng Muire Boland đã rời hãng hàng không vào tháng giêng năm 1993. Được đào tạo với Vision ở London, cô ta làm tiếp viên hàng không của hãng được ba năm. Có một địa chỉ, một số điện thoại, và một ngày sinh. Muire Boland năm nay ba mươi mốt tuổi.

Robert đã viết ghi chú cạnh số điện thoại. Thử cái này xem. Khi tôi gọi, không ai biết cô ta. Dưới thông tin này là một danh sách các số điện thoại. Có bảy M. Boland trong danh bạ điện thoại London.

Kathryn cố gắng định hình một câu hỏi, một yêu cầu hợp lý. Người nghe điện thoại có biết đến Jack Lyons không? Nếu có, liệu Kathryn có thể hỏi một, hai câu không? Hỏi như vậy có bất bình thường quá không?

Kathryn nhìn quanh quất trong phòng, sự đơn điệu kim loại của nó, chất đàn ông của nó. Cô sẽ không cho phép mình tin rằng Jack đã ngoại tình. Làm sao cô có thể làm thế, khi chính cô đã chứng kiến điều xảy ra khi người ta thêu dệt nên cả một câu chuyện đầy kịch tính chỉ từ một vài sự thật, như đã xảy ra với báo chí khi đoạn băng CVR bị tiết lộ?

Cô nhấc điện thoại lên và gọi đến số đầu tiên. Một người đàn ông trả lời, và giọng ông ta nghe như mới bị cô đánh thức. Cô tính nhanh thời gian ở London – chín giờ bốn mươi sáng. Cô hỏi Muire có ở đ

“Cô muốn kiếm ai?” ông ta vặn lại, như chưa nghe rõ câu hỏi lắm.

“Muire Boland,” cô đáp.

“Ở đây không có ai là Muire Boland cả,” ông ta tự tin đáp.

“Xin lỗi,” Kathryn nói rồi gác máy.

Cô gạch bỏ số đầu tiên rồi gọi số thứ hai. Không ai trả lời. Cô thử số thứ ba. Một người đàn ông trả lời bằng giọng ngắn gọn, nghiêm nghị.

“Michael Boland nghe đây,” ông ta nói, như đang chờ đợi một cuộc điện thoại tìm mình.

“Xin lỗi, nhầm số.”

Cô gạch bỏ số thứ ba. Cô gọi tiếp số thứ tư. Một phụ nữ trả lời. “Xin chào?”

“Xin chào. Tôi muốn gặp Muire Boland.”

Sự im lặng ở đầu dây bên kia tuyệt đối đến nỗi Kathryn có thể nghe thấy tiếng vọng mơ hồ từ một cuộc nói chuyện xuyên đại dương của ai đó.

“Xin chào?” Kathryn hỏi lại lần nữa.

Người phụ nữ gác máy. Kathryn ngồi áp ống nghe chết lặng vào tai. Cô cầm bút chì lên và gạch bỏ số thứ tư, nhưng rồi cô do dự.

Cô gọi số thứ năm. Rồi số thứ sáu. Rồi số thứ bảy. Khi gọi xong, cô nhìn lại danh sách. Trên đó, có một người đàn ông không biết Muire là ai; một số không có người trả một Michael Boland, doanh nhân; một người phụ nữ không tiếp chuyện; một số khác không trả lời; một lời nhắn trên máy ghi âm bằng phát âm khó nghe nói rằng Kate và Murray hy vọng cô để lại lời nhắn; một cô bé không biết Muire là ai nhưng nói mẹ của mình tên là Mary.

Cô thử gọi lại số thứ tư.

“Xin chào?” người phụ nữ khi nãy nói.

“Tôi xin lỗi đã làm phiền chị,” Kathryn nói nhanh, trước khi người phụ nữ gác máy. “Nhưng tôi đang muốn tìm người tên Muire Boland.”

Kỳ quặc, lại là sự im lặng như lần trước. Có gì đó ở phía sau. Tiếng nhạc? Máy rửa bát? Rồi Kathryn nghe thấy một âm thanh nhỏ từ cổ họng của người phụ nữ, như mở đầu của một từ định nói. Tiếp theo là một sự im lặng khác, lần này ngắn hơn.

“Ở đây không có ai là Muire hết,” cuối cùng người phụ nữ lên tiếng.

Kathryn nghĩ giữa suy nghĩ và lời nói của cô hẳn có một sự lỗi nhịp, vì khi cô mở miệng định nói, thì đường dây đã bị cắt đứt.

***

Khi Robert tìm thấy cô vào buổi sáng, cô đang ngồi tại chiếc bàn trong phòng khách. Mặt trời đã lên, tuyết bên ngoài chói chang đến độ Robert phải nheo mắt để nhìn cô. Trong ánh nắng sáng lòa, cô có thể nhìn thấy từng nếp nhăn và lỗ chân lông trên mặt anh.

“Trong này chói quá,” anh nói, quay đầu đi.

“Đôi khi anh cần đeo kính mát vào phòng này đấy,” cô đáp. “Jack thường làm thế.”

Cô nhìn Robert nhét áo sơ mi vào quần.

“Cô ngủ ngon không?”

“Cũng được. Còn anh?”

“Ngon lắm.”

Cô thấy anh đã mặc nguyên quần áo cũ để đi ngủ. Hẳn anh đã quá mệt đến nỗi không buồn cởi quần áo, cô nghĩ.

Khi đã quen với ánh sáng, Robert dường như đã nhìn thấy mặt cô rõ hơn.

“Có chuyện gì vậy?” anh hỏi.

Kathryn ngồi hơi chồm về trước.

“Tôi sẽ đến London,” cô đáp.

Anh không do dự. Anh không hề do dự.

“Tôi sẽ đi với cô.”