Vợ phi công - Chương 16 phần 2
Ánh sáng bên ngoài đang nhạt nhòa dần. Muire bật đèn bàn lên rồi đưa một tay ra sau gáy.
“Làm sao chị tìm ra?” Muire hỏi. “Phát hiện ra chuyện chúng tôi?”
Chúng tôi, Kathryn nghe thấy từ đó.
Cô không muốn trả lời câu hỏi này. Việc tìm kiếm manh mối giờ đây không còn ý nghĩa nữa.
“Chuyện gì đã xảy ra trên máy bay của Jack?” Kathryn hỏi thay vì trả lời.
Muire lắc đầu, mái tóc mềm mượt lắc lư. “Tôi không biết,” cô ta đáp. Nhưng giọng nói của cô mang hơi hướm lảng tránh, vì trông cô có vẻ như tái nhợt hẳn. “Ý nghĩ đây là một vụ tự sát thật kinh khủng,” cô ta nói, cúi người về trước, đặt cùi chỏ lên đầu gối, đầu úp vào hai tay. Khói thuốc luồn qua tóc cô ta. “Jack sẽ không bao giờ, không bao giờ...”
Kathryn bất ngờ trước cảm xúc mãnh liệt đột ngột của người phụ nữ này, cảm xúc mà cô tưởng ở một chừng mực nào đó rằng chỉ mình cô có. Đó là cảm xúc duy nhất mà Muire thể hiện kể từ khi Kathryn đặt chân vào căn hộ này.
“Tôi ganh tị với chị vì đã tổ chức được lễ tưởng niệm,” Muire nói, ngước lên. “Một linh mục. Tôi ước gì mình đến đó được.”
Chúa ơi, Kathryn tự nhủ.
“Tôi đã thấy ảnh của chị,” Muire nói tiếp. “Ở trên báo. FBI đang điều tra vụ việc phải không?”
“Tôi nghe bảo vậy
“Họ có nói chuyện với chị không?”
“Không. Họ có gọi cho cô không?”
“Không,” Muire đáp. “Chị biết là Jack sẽ không bao giờ làm chuyện này.”
“Tất nhiên là tôi biết,” Kathryn đáp.
Nói gì đi nữa, Kathryn cũng là người vợ đầu tiên, vợ cả, đúng không nhỉ? Nhưng khi đó cô tự hỏi: Trong tâm trí một người đàn ông, ai là người vợ quan trọng hơn? – Người phụ nữ mà anh quyết bảo vệ bằng cách không tiết lộ về người kia? Hay là người mà anh kể hết mọi bí mật của mình?
“Lần cuối cùng cô gặp anh ấy...” Kathryn bắt đầu.
“Sáng hôm đó. Khoảng bốn giờ sáng. Ngay trước khi anh ấy đi làm. Tôi tỉnh dậy...” Cô ta bỏ lửng câu nói.
“Hai người đi ăn tối với nhau,” Kathryn nói.
“Phải,” Muire đáp, trông thoáng ngạc nhiên vì Kathryn biết chuyện này. Cô ta không hỏi tại sao.
Kathryn cố gắng nhớ lại xem có lần nào cô nghi ngờ một cách nghiêm túc chuyện Jack có nhân tình. Cô nghĩ là không. Niềm tin cô dành cho anh trọn vẹn đến tai hại.
“Chị đến đây chỉ vì chuyện này thôi à?” Muire hỏi, gỡ một vụn thuốc lá khỏi môi dưới. Trông cô ta có vẻ như đã lấy lại được thần thái.
“Chừng đó không đủ hay sao?” Kathryn hỏi.
Muire thở ra một cụm khói dài. “Ý tôi là chị có đi tiếp đến Malin Head không?”
“Không. Cô đến đó chưa?”
“Tôi không đi được.”
Còn điều gì đó nữa. Kathryn có thể cảm nhận được.
“Là chuyện gì?” Kathryn hỏi.
Muire chà tay lên trán. “Không có gì,” cô ta đáp, khẽ lắc đầu. “Chúng tôi đã ngoại tình,” cô ta nói thêm, như để giải thích điều mình đang nghĩ. “Tôi có thai và phải nghỉ làm ở hãng hàng không. Jack muốn kết hôn. Điều đó không quá quan trọng đối với tôi. Việc kết hôn ấy mà. Anh ấy muốn kết hôn trong một nhà thờ Công giáo.”
“Anh ấy không bao giờ đi nhà thờ.”
“Anh ấy sùng đạo lắm,” Muire nói và nhìn Kathryn chăm chú.
“Nếu vậy thì anh ấy là hai người khác nhau,” Kathryn nói vẻ ngờ vực. Làm lễ cưới ở một nhà thờ Công giáo vì người yêu của mình muốn thế là một chuyện, còn làm một người sùng đạo lại là chuyện hoàn toàn khác. Kathryn đan các ngón tay vào nhau, cố gắng giữ yên chúng.
“Anh ấy đi dự các buổi giảng đạo bất cứ khi nào có thể,” Muire nói.
Ở Ely, Jack thậm chí chưa bao giờ bước chân vào một nhà thờ nào. Làm sao một người đàn ông lại có thể là hai người khác xa nhau đến vậy? Nhưng rồi một ý nghĩ mới lóe lên trong đầu Kathryn, một ý nghĩ không mong đợi: Jack không thể lúc nào cũng là hai người khác nhau, phải không? Chẳng hạn như khi là người tình. Liệu anh có cùng chia sẻ với Muire Boland một số sự thân mật mà anh đã chia s Kathryn hay không? Nếu Kathryn đủ can đảm để hỏi, liệu có một sự thừa nhận nào đó từ phía người phụ nữ đang ngồi đối diện với cô hay không? Hay đó là một vở kịch hoàn toàn khác? Một kịch bản khác? Lời thoại khác? Những đạo cụ không thể nhận ra? Kathryn thả các ngón tay ra, đè bàn tay lên đùi. Muire nhìn cô chăm chú. Có lẽ cả cô ta cũng đang phỏng đoán.
“Tôi cần dùng nhà tắm,” Kathryn nói, đột ngột đứng dậy. Như một người say.
Muire cũng đứng dậy theo. “Nó ở ngay trên lầu,” cô ta nói.
Cô ta dẫn Kathryn ra khỏi phòng khách, đi qua hành lang. Cô ta đứng ở chân cầu thang, ra dấu bằng tay. Kathryn phải đi qua trước mặt cô ta, và cơ thể họ suýt chạm vào nhau. Kathryn cảm thấy bị áp đảo trước chiều cao của người phụ nữ này.
Phòng tắm rất đáng sợ và khiến tim của Kathryn đập loạn xạ. Cô liếc nhìn vào gương, thấy khuôn mặt mình đã đỏ bừng bừng và hằn vết. Cô kéo chiếc kẹp tóc ra rồi xổ tung mái tóc. Cô ngồi xuống bồn cầu. Họa tiết hoa trên tường khiến cô chóng mặt.
Bốn năm rưỡi trời. Jack và Muire Boland đã kết hôn trong một nhà thờ cách đây bốn năm rưỡi. Có thể khách khứa đã đến tham gia buổi lễ. Có ai trong số họ biết sự thật không? Jack có ngập ngừng khi đọc lời tuyên thệ không?
Cô lắc mạnh đầu. Mỗi suy nghĩ chứa một hình ảnh mà Kathryn không muốn nhìn thấy. Đó là điều khó khăn - cho phép những câu hỏi nhưng giữ lại những hình ảnh. Jack mặc áo vest, quỳ xuống trước một linh mục. Jack mở cửa xe, ngồi vào trong. Một bé gái có tóc xoăn màu đen ôm lấy chân Jack.
Từ xa, có tiếng chuông điện thoại.
Làm sao Jack có thể xoay xở được chuyện này, Kathryn tự hỏi. Những lời nói dối, sự dối lừa, sự thiếu ngủ? Một ngày nọ anh rời khỏi Kathryn để đi làm, và chỉ vài giờ sau đã đứng trong một nhà thờ tại lễ cưới của chính anh. Kathryn và Mattie đã làm gì ngày hôm đó, vào đúng giờ phút đó? Làm sao Jack có thể nhìn mặt hai mẹ con họ trở về nhà? Anh có làm tình với Kathryn vào đêm đó, đêm hôm sau, tuần đó không? Cô rùng mình khi nghĩ đến chuyện đó.
Những câu hỏi bật ra tanh tách từ bức tường này sang bức tường khác, lặp đi lặp lại không dứt. Rồi cô nhớ ra, bụng cô quặn thắt, khóa tập huấn hai lần mỗi năm ở London. Mỗi lần hai tuần.
Cô nhận ra, nếu không bao giờ nghi ngờ một ai đó, ta sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện phải nghi ngờ.
Cô đứng phắt dậy, mắt cô nhìn một vòng quanh phòng tắm. Cô vốc nước lên mặt, rồi lau khô bằng một chiếc khăn thêu. Cô mở cửa phòng tắm và thấy ở bên kia hành lang có một chiếc giường cỡ lớn. Ở dưới nhà, Kathryn nghe tiếng Muire nói chuyện điện thoại, những từ ngữ hết lên lại xuống trong giọng nói nước ngoài của cô ta. Nếu Jack chưa chết, cô sẽ không có quyền bước vào phòng ngủ, nhưng giờ thì chẳng có gì quan trọng nữa cả. Cô có quyền xem xét căn nhà này. Cô có quyền biết về căn nhà này. Nói gì thì nói, chẳng phải Muire Boland đã biết tất cả về cô đó sao?
Kathryn đau đớn khi nghĩ đến thực tế đó. Chính xác thì Muire đã được nghe kể bao nhiêu chi tiết? Và những chi tiết đó riêng tư đến mức nào?
Cô bước qua khung cửa và nghĩ đến sự cố gắng của mình để làm Jack vui lòng, về sự điều chỉnh cô đã làm vì anh. Về cách cô đã tạo ra cả một giả thuyết về sự gần gũi tình dục giảm dần. Về cách cô đã từng chất vấn Jack trước sự thoái lui của anh, và anh đã chối bỏ điều đó, làm cho nó có vẻ như không nằm trong phạm vi quan tâm của anh, hay của cô. Toàn bộ việc này đã được cô cho là bình thường, trong phạm vi của một cuộc hôn nhân bình thường. Thực ra, cô đã nghĩ họ có một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Cô cảm thấy ngốc nghếch, bị lừa phỉnh, và cô tự hỏi phải chăng cô cũng không hề bận tâm điều đó.
Đây hẳn là phòng chính. Nó dài và hẹp, bừa bộn kỳ lạ, thật sự thì bừa bộn một cách bất thường so với sự ngăn nắp của những căn phòng tầng dưới. Có những tách trà và một lọ sữa chua còn một nửa trên bàn, những chiếc gạt tàn chứa đầy đuôi thuốc lá. Những lọ mỹ phẩm trên một chiếc bàn trang điểm, dính lấm tấm kem nền dạng lỏng. Một bên của chiếc giường gỗ chưa được dọn. Kathryn nhận thấy ga trải giường loại đắt tiền, viền thêu. Vài món đồ nội y bằng ren trên gối. Phía kia của giường, còn nguyên vẹn, là của Jack – cô có thể thấy trên chiếc tủ đầu giường đặt một chiếc đèn bàn halogen, một quyển sách về cuộc chiến tranh Việt Nam. Khi ở đây Jack có đọc sách khác so với khi ở nhà không? Anh có mặc quần áo khác không? Trông anh có thật sự khác hẳn trong ngôi nhà này, trong đất nước này, so với khi ở nhà hay không? Trông già hơn hay trẻ hơn?
Nhà, cô thầm nghĩ. Giờ thì đó là một khái niệm thú vị.
Cô đi đến phần giường của Jack rồi giật tung chăn lên. Cô cúi đầu xuống ga giường và hít vào thật sâu. Anh không ở đó; cô không ngửi thấy mùi của anh.
Cô đi qua phần giường bên kia, phần của Muire. Trên tủ đầu giường có một chiếc đồng hồ vàng nhỏ và một chiếc đèn. Như đang thực hiện một cuộc khám xét, cô mở ngăn kéo tủ ra. Bên trong là những mảnh giấy, hóa đơn, vài thỏi son, một lọ kem dưỡng da, xu lẻ, vài cây bút, một cái điều khiển tivi, một vật gì đó trong một túi nhung màu xanh. Không nghĩ ngợi, Kathryn cầm chiếc túi lên và trút nó xuống. Cô thả món đồ rơi ra như bị bỏng. Lẽ ra cô đã phải đoán được từ hình dạng của nó. Chiếc máy tạo rung rơi khỏi tay cô xuống ngăn kéo và tạo ra tiếng động.
Cô quỳ xuống sàn nhà, úp mặt lên giường. Cô đưa hai tay ôm đầu. Cô muốn các câu hỏi ngừng lại, và cô cố gắng làm cho đầu óc mình trống rỗng, nhưng vô ích. Cô chà đi chà lại mặt mình trên tấm ga giường. Cô ngẩng mặt lên và nhận thấy đã để lại một vệt mascara trên tấm trải giường.
Cô đứng dậy, đi về phía tủ quần áo lắp kính bên ngoài và mở cửa tủ ra.
Quần áo bên trong là của Muire, không phải của Jack. Quần tây dài màu đen, váy dạ. Áo sơ mi cotton, áo kiểu bằng vải linen. Một chiếc áo choàng lông thú. Trong lúc tìm kiếm, tay cô chạm phải một thứ mà cô nghĩ là áo lụa. Tách các móc áo ra, cô nhận ra đó không phải là áo kiểu mà là một chiếc áo choàng, một chiếc áo choàng lụa dài đến mắt cá chân, áo choàng lụa có dải thắt lưng tua rua. Một chiếc áo tuyệt đẹp màu xanh ngọc bích thẫm. Khẽ rùng mình, cô nhấc cổ áo lên khỏi móc áo và nhìn vào nhãn má
Bergdorf Goodman.
Cô đã biết sẽ là nó.
Cô đi qua phòng ngủ đến phòng tắm, để ý tất cả, như thể một ngày nào đó cô sẽ mua ngôi nhà này.
Treo trên móc cạnh bồn tắm là một chiếc áo choàng tắm sọc ca rô màu mận chín của nam. Ở nhà Jack không bao giờ mặc áo choàng. Trong tủ thuốc, cô thấy một chiếc dao cạo râu và một chiếc lược. Có một chai nước hoa của Anh mà cô không biết hiệu. Kiểm tra chiếc lược, Kathryn thấy có những sợi tóc ngắn màu đen.
Cô nhìn chiếc lược một lúc lâu.
Cô đã nhìn thấy đủ rồi.
Giờ đây cô chỉ muốn đi ra khỏi ngôi nhà này. Cô đóng cửa phòng ngủ chính. Ở dưới nhà, cô vẫn nghe tiếng Muire Boland nói chuyện điện thoại, giọng nói lúc này đã to hơn, như đang cãi nhau. Kathryn đi ngang qua căn phòng để cửa mở của đứa con gái. Dierdre nằm sấp trên giường, tay chống cằm, khuôn mặt vẫn giữ vẻ hết sức trang nghiêm. Nó mặc một chiếc áo thun màu xanh tay dài và quần yếm. Tất màu xanh đến mắt cá chân. Đứa bé say sưa với bộ phim đến nỗi lúc đầu nó không nhận ra có người lạ ở cửa.
“Chào cháu,” Kathryn nói.
Đứa bé liếc nhìn về hướng cô, sau đó quay lại để nhìn trực diện người mới đến.
“Cháu đang xem gì đấy?” Kathryn hỏi.
“Danger Mouse.”
“Bác xem phim rồi. Người ta từng chiếu nó ở Mỹ. Con gái bác thì thíchRoad Runner. Bây giờ chị ấy lớn rồi. Chị ấy cao gần bằng bác.”
“Chị ấy tên gì ạ?” Con bé ngồi dậy, tỏ vẻ quan tâm hơn đến người lạ.
“Mattie.”
Dierdre ngẫm nghĩ về cái tên này.
Kathryn tiến thêm một bước rồi nhìn quanh căn phòng. Cô nhận thấy con gấu bông Paddington, gần như giống hệt con gấu bông trước đây của Mattie. Một bức ảnh của Jack đội mũ lưỡi trai và mặc áo thun trắng. Một bức tranh của trẻ con vẽ một người đàn ông và một cô bé có mái tóc xoăn màu đen, có lẽ vừa được vẽ gần đây. Một chiếc bàn nhỏ màu trắng bị viết đầy những nét nguệch ngoạc bằng bút lông, vẽ bầu trời xanh bị lem ra từ trang giấy. Con bé đã được nghe điều gì? Nó có biết bố nó đã chết không?
Kathryn nhớ đến một trận bóng rổ của Mattie khi con bé được tám tuổi, cả Kathryn và Jack đều lau nước mắt hạnh phúc khi chứng kiến niềm kiêu hãnh gần như không che giấu của cô con gái với chiếc cúp vô địch bé nhỏ xinh xắn.
“Bác nói chuyện buồn cười quá,” Dierdre nói.
“Vậy sao?”
Con bé nói giọng Anh - không hề có giọng Ireland, không giọng Mỹ.
“Bác nói giống bố cháu,” nó nói.
Kathryn chậm rãi gật đầu.
“Bác có muốn xem búp bê Molly của cháu không?” Dierdre hỏi.
“Có,” Kathryn đáp, hắng giọng. “Bác muốn xem lắm.”
“Bác phải đến đây,” Dierdre nói, ra dấu. Nó nhảy xuống giường rồi đi đến góc phòng. Kathryn nhận ra tủ quần áo và chiếc rương của búp bê từ bộ sưu tập American Girl quen thuộc. “Bố cháu tặng cháu làm quà Giáng sinh đấy,” Dierdre nói, chìa con búp bê ra cho Kathryn.
“Bác thích cặp kính của nó lắm,” Kathryn nói.
“Bác muốn xem tủ quần áo của nó không?”
“Tất nhiên rồi.”
“Tốt lắm, bác ngồi lên giường cháu đi, bác sẽ thấy hết các món đồ của cháu.”
Dierdre lấy ra những chiếc đầm, một chiếc bàn học, một cái xắc tay màu đỏ, một chiếc áo len màu đỏ và xanh. Một cây bút chì tí hon. Một đồng xu bằng thép.
“Bố cháu tặng cháu tất cả những thứ này làm quà Giáng sinh à?”
Con bé dẩu môi nghĩ ngợi. “Vài món là của Thánh Nicholas tặng cho cháu.”
“Bác thích tóc của búp bê,” Kathryn nói. “Mattie cũng từng có một con búp bê như thế này, nhưng chị ấy cắt tóc của búp bê đi. Cháu biết là với búp bê thì tóc không mọc dài ra, vì thế cháu không nên cắt tóc nó. Mattie rất buồn vì đã làm thế.”
Kathryn có một kỷ niệm khác. Mattie, năm lên sáu tuổi, chạy xuống đồi trên một chiếc xe đạp mới, chiếc xe tâng nảy lên bên dưới nó như được làm bằng thạch, Jack và Kathryn chỉ biết bất lực đứng nhìn. Mattie, khi quay lại, tự hào khoe với bố mẹ, Đấy, con làm được mà
Và một kỷ niệm khác: Mattie một hôm ngủ quên khi đeo mắt kính với chiếc mũi buồn cười đính kèm.
Và một kỷ niệm khác: Lễ Tạ ơn mà Mattie, năm đó chỉ mới bốn tuổi, tuyên bố với bố nó rằng mẹ đã nấu xong món Thổ Nhĩ Kỳ[3].
[3] Theo phong tục, người Mỹ thường ăn thịt gà tây trong lễ Tạ ơn. Mattie nói nhầm “gà tây” (turkey) thành “Thổ Nhĩ Kỳ” (Turkish).
Giờ đây Kathryn phải cất những kỷ niệm này ở đâu? Cô nghĩ mình giống như một người phụ nữ sau khi li dị, đang ngắm nhìn chiếc váy cưới. Phải chăng chiếc váy cưới sẽ không còn được nâng niu nữa nếu cuộc hôn nhân thất bại?
“Cháu sẽ không cắt tóc nó đâu,” Dierdre hứa.
“Tốt lắm. Bố cháu có ở đây vào dịp Giáng sinh không? Đôi khi các ông bố phải đi làm vào lễ Giáng sinh mà.”
“Bố có ở đây,” Dierdre đáp. “Cháu làm một chiếc thẻ kẹp sách tặng bố. Nó có hình cháu và bố. Cháu muốn lấy nó lại, nên bố bảo là cháu có thể dùng chung với bố. Bác có muốn xem không?”
“Có chứ.”
Dierdre tìm ở dưới giường món đồ quý dùng chung với bố. Nó lấy lên một quyển album ảnh. Chiếc thẻ kẹp sách kẹp ở trong là một miếng giấy màu đã được ép nhựa. Bức ảnh chụp Jack và Dierdre ngồi trên đùi anh. Anh đang rướn cổ về trước để nhìn mặt con bé.
Kathryn nghe tiếng bước chân trên cầu thang
Trên gác mái ngôi nhà ở Fortune’s Rocks có một chiếc hộp quần áo búp bê American Girl. Trong một thoáng, khá điên rồ, Kathryn nghĩ đến việc gửi chiếc hộp ấy cho Dierdre.
Muire đứng ở khung cửa ra vẻ bảo vệ, hai tay khoanh trước ngực.
“Bác rất thích búp bê của cháu,” Kathryn nói và đứng dậy.
“Bác phải đi rồi à?” Dierdre hỏi.
“Bác e là vậy,” Kathryn đáp.
Dierdre nhìn theo trong lúc cô bước ra. Muire tránh qua một bên để Kathryn đi qua. Kathryn đi nhanh xuống cầu thang, ý thức rõ người phụ nữ kia đang đi sau lưng mình. Kathryn với tay lấy áo khoác. “Dierdre có nói là Jack đã đến đây vào Giáng sinh,” cô nói trong lúc mặc áo.
“Chúng tôi đón Giáng sinh sớm,” Muire đáp. “Phải chịu thôi.”
Kathryn biết tất cả về cảm giác phải mừng lễ sớm.
Giờ đây tò mò, cô đi đến kệ sách và xem qua các tiêu đề. Những lời nói dối im lặng, tác giả Brian Moore; Cal, tác giả Bernard McLaverty; Những trái tim nổi loạn, tác giả Kevin Toolis; Trận đói lớn, tác giả Cecil Woodham-Smith. Một tiêu đề cô không thể đọc ra. Cô lấy quyển sách ra khỏi kệ.
“Đây là ngôn ngữ Gaelic à?” Kathryn hỏi.
“Phải.”
“Cô
“Queens. Ở Belfast.”
“Thật sao. Vậy mà cô trở thành...”
“Tiếp viên hàng không. Vâng, tôi biết. Lực lượng lao động có học thức nhất ở châu Âu: người Ireland.”
“Con gái cô biết chuyện của Jack chưa?” Kathryn hỏi, nhét quyển sách lên kệ và cầm áo choàng lên.
“Nó biết rồi,” Muire nói từ lối vào, “nhưng tôi không chắc nó có hiểu hay không. Bố nó thường xuyên đi vắng. Tôi nghĩ đây cũng chỉ là một chuyến đi khác đối với nó thôi.”
Bố nó.
“Còn mẹ của Jack,” Kathryn nói vẻ không quan tâm. “Dierdre có biết về bà nội Matigan không?”
“Có, tất nhiên.”
Kathryn im lặng. Run rẩy bởi chính những câu hỏi của cô cũng như câu trả lời.
“Nhưng mà, như chị biết đấy, mẹ anh ấy mắc bệnh Alzheimer,” Muire nói thêm, “nên Dierdre chưa bao giờ thực sự nói chuyện với bà.”
“Vâng, tôi biết,” Kathryn nói dối.
Nếu Jack chưa chết, cô tự hỏi liệu có phải bây giờ anh đang ở trong ngôi nhà này hay không? Liệu Kathryn có bao giờ phát hiện ra một gia đình khác hay không? Liệu mối quan hệ này - cuộc hôn nhân này - sẽ còn tiếp diễn trong bao nhiêu năm
Hai người phụ nữ đứng trên sàn nhà lót gỗ. Kathryn đưa mắt nhìn những bức tường, trần nhà, người phụ nữ trước mặt cô. Cô muốn thu nhận toàn bộ căn nhà, nhớ tất cả mọi thứ mà cô đã thấy. Cô biết cô sẽ không bao giờ trở lại.
Cô nghĩ đến chuyện không bao giờ biết về một người nào đó. Về sự mỏng manh trong những kết cấu mà con người tạo nên. Một cuộc hôn nhân chẳng hạn. Một gia đình.
“Có những việc... ,” Muire mở lời. Cô ta dừng lại. “Tôi ước gì...”
Kathryn chờ đợi.
Muire ngửa lòng bàn tay lên, trông như bỏ cuộc. “Có những việc tôi không thể...” Cô ta thở dài não nề, nhét hai tay vào túi quần jean. “Tôi không hối tiếc vì đã cưới anh ấy,” cuối cùng Muire nói. “Tôi chỉ tiếc vì đã làm tổn thương chị.”
Kathryn sẽ không nói lời tạm biệt; có vẻ không cần thiết.
Dù có một việc Kathryn muốn biết - bất kể lòng tự ái của cô, phải hỏi.
“Chiếc áo choàng,” cô lên tiếng. “Chiếc áo choàng lụa màu xanh. Trong tủ của cô.”
“Nó đến sau khi anh ấy mất,” Muire đáp. “Đó là quà Giáng sinh của tôi.”
“Tôi cũng nghĩ là như vậy,” Kathryn nói.
Cô với tay ra đặt lên núm cửa, như với tay chạm lấy phao cứu sinh.
“Chị nên về nhà,” Muire nói khi Kathryn bước ra trời mưa, và Kathryn nghĩ đó là một mệnh lệnh kỳ quặc và táo bạo.
“Chuyện này tồi tệ hơn đối với tôi,” Muire nói, và Kathryn quay lại, chú ý bởi lời nhắn nhủ khá ai oán này, một vết rách trên vẻ ngoài dửng dưng.
“Tôi đã biết về chị,” Muire Boland nói. “Chị không cần phải biết về tôi.”