Mạng Nhện Của Charlotte - Chương 13 - 14

CHƯƠNG 13: TIẾN TRIỂN TỐT

Đêm đã về khuya, khi các sinh vật khác đang ngủ say, Charlotte vẫn làm việc trên chiếc mạng của cô. Trước tiên cô xé mấy sợi tơ hình cầu gần tâm mạng ra. Cô để lại những sợi tơ xuyên tâm vì cô cần chúng làm điểm tựa. Trong lúc cô làm việc, tám chiếc chân hỗ trợ cho cô rất nhiều. Răng của cô cũng vậy. Cô thích chăng tơ và cô là một chuyên gia về việc đó. 

Một con nhện có thể sản xuất ra vài loại tơ. Nó dùng loại tơ khô và dai cho phần sợi làm nền, dùng tơ dính cho phần sợi làm bẫy, những sợi tơ bắt giam lũ sâu bọ. Charlotte định dùng loại tơ của cô để viết thông điệp mới. 

"Nếu mình viết từ cực kỳ bằng tơ dính ướt", cô nghĩ, "mọi thứ côn trùng tới gần sẽ bị mắc vào đó và làm hỏng tác dụng!" 

- Giờ ta hãy xem nào, chữ thứ nhất là C. 

Charlotte trèo lên điểm cao nhất ở phía bên trái của chiếc mạng nhện. Mắc cơ quan nhả tơ của mình vào vị trí, rồi cô túm lấy sợi tơ và buông mình xuống. Trong lúc cô rơi, các ống chăng tơ của cô đi vào hoạt động và cô nhả tơ ra. Xuống đến dưới cô lại nắm các sợi tơ. Phần lưng của chữ C đã được hình thành. Nhưng Charlotte không thấy hài lòng mấy. Cô trèo lên và lại túm lấy sợi ngay bên cạnh chỗ ban đầu. Rồi cô nhả tơ xuống để có một sợi kép. 

Cô lại trèo lên, chạy sang bên phải và uốn xuống một chút, động cơ quan chăng tơ vào mạng nhện, và rồi chạy xuống phía dưới, sang bên phải, mang sợi tơ uốn lên một chút, làm thành hai đầu cong của chữ C. Cô lặp lại thao tác để dệt sợi kép. Tám chiếc chân của cô luôn luôn bận rộn hỗ trợ. 

- Bây giờ đến chữ Ư. 

Charlotte toàn tâm vào công việc đến nỗi cô bắt đầu tự nói với mình, như thể để khích lệ bản thân. Nếu như bạn mà ngồi yên lặng trong tầng hầm sân kho tối hôm đó, bạn hẵng nghe những lời như thế này. 

- Bây giờ là chữ C! Nào ta lên! Túm lấy! Buông xuống! Nhả tơ ra! Ha! Túm lấy! Tốt! Nào lên thôi! Lặp lại! Túm lấy! Rơi xuống! Nhả tơ ra! Được đấy cô mình!Giờ thì chắc rồi! Nắm lấy! Trèo lên! Nắm lấy! Sang phải! Nhả tơ ra! Nắm lấy! Xuống thôi! Sang phải! Lại nắm lấy! Lặp lại! Tốt rồi! Dễ thôi, cần phải giữ cho các chữ đi liền nhau! Giờ thì, cách ra một khoảng và xuống cho thân của chữ K! Nhả tơ ra! Ha! Nắm lấy! Leo lên! Lặp lại! Cô mình khá đấy! 

Và cứ như vậy, vừa lẩm bẩm một mình, nhện vừa thực hiện nhiệm vụ khó khăn của cô. Khi đã hoàn thành xong, cô cảm thấy đói. Cô ăn một con sâu nhỏ mà cô vẫn để dành. Rồi cô đi ngủ. 

Sáng hôm sau, Wilbur dậy và đứng dưới chiếc mạng. Chú hít bầu không khí ban mai vào đầy hai lá phổi. Những giọt sương được nắng rọi vào khiến cho chiếc mạng rực rỡ hẳn lên. Khi Lurvy mang bữa điểm tâm đến, thấy có một chú lợn bảnh bao, và phía trên đầu chú là hai chữ “cực kỳ” được dệt theo lối chữ in to tinh xảo. Lại một phép lạ. 

Lurvy bổ nhào đi gọi ông Zuckerman, ông Zuckerman bổ nhào đi gọi bà Zuckerman. Bà Zuckerman lao đến máy điện thoại và gọi cho nhà Arable. Nhà Arable leo lên xe tải và lái vội sang. Tất cả đều đứng ở chuồng lợn, chăm chú nhìn chiếc mạng nhện và đọc đi đọc lại những từ trên đó, trong khi đó Wilbur lúc này thực sự đang cảm thấy cực kỳ hãnh diện, đứng yên lặng, ngực ưỡn ra, mõm đu đưa từ bên này qua bên kia. 

- Cực kỳ! - Zuckerman thốt lên với một niềm tự hào hân hoan. - Ê, bà nên gọi điện cho một phóng viên tờ tuần báo Tin tức và kể cho ông ta nghe điều gì đã xảy ra. Ông ta sẽ muốn biết về chuyện này. Có thể ông ta muốn đi cùng một nhà nhiếp ảnh. Ở khắp bang này không có một con lợn nào cực kỳ bằng chú lợn của chúng ta đâu. 

Tin tức lan đi. Những người lần trước đã tới để xem Wilbur khi chú là "lợn hay" lại quay trở lại để xem chú giờ đây đã "cực kỳ". 

Chiều hôm đó, khi ông Zuckerman đi vắt sữa bò và cọ rửa cọc buộc, ông ta vẫn còn nghĩ đến việc ông ta có một chú lợn mới kỳ diệu làm sao. 

- Lurvy! - Ông gọi. - Sẽ không có thêm chút phân bò nào rơi xuống cái chuồng lợn đó nữa. Tôi có một chú lợn cực kỳ. Tôi muốn hàng ngày chú lợn đó có rơm tươi và sạch để làm chỗ ngủ. Hiểu chứ? 

- Vâng, thưa ông. - Lurvy nói. 

- Hơn nữa, - ông Zuckerman tiếp, - tôi muốn anh bắt đầu đóng một cái cũi thưa cho Wilbur. Tôi quyết định mang chú lợn đến Hội chợ tỉnh vào ngày 6 tháng 9. Hãy làm một cái cũi thưa thật to và sơn nó màu xanh với những chữ nhũ kim! 

- Những chữ đó viết gì?- Lurvy hỏi. 

- Chú lợn nổi tiếng của nhà Zuckerman. 

Lurvy nhặt một cái chĩa cào cỏ lên và đi lấy rơm sạch. Có một chú lợn quan trọng như vậy sẽ có vô khối việc làm thêm, anh ta biết trước như vậy. 

Phía dưới vườn táo, ở cuối con đường là bãi rác, nơi ông Zuckerman ném tất cả các loại rác rưởi và những thứ đồ không ai cần đến nữa vào. Ở đây, giữa khoảng rừng trống khuất dưới những cây tống quán sủi non và những bụi dâu dại là một đống kỳ dị gồm vỏ chai cũ, lon thiếc rỗng, giẻ rách bẩn thỉu, những mẩu kim loại, rồi mảnh chai vỡ, bản lề gãy, lò xo hỏng, pin hết, rồi các loại tạp chí cũ từ tháng trước, giẻ rửa bát cũ bỏ đi, các mảnh áo rách, chấn song gỉ, xô thủng, nút chai không dùng đến nữa và đủ thứ tạp nham vô dụng, kể cả một máy tay quay sai kích cỡ cho một tủ làm kem hỏng. 

Templeton biết bãi rác này và thích nó. Có những chỗ ẩn náu tốt ở đó, vị trí núp tuyệt hảo cho một gã chuột. Và thường có một hộp sắt tây nào đó vẫn còn sót đồ ăn dính lại ở bên trong. 

Lúc này Templeton đang ở đó, sục sạo tìm quanh. Khi quay trở lại sân kho, gã ngậm trong mõm một mẩu quảng cáo mà gã đã xé ra từ một tạp chí nhàu nát. 

- Thế nào? - Gã cho Charlotte xem mẩu quảng cáo và hỏi. - Nó viết kêu lạo xạo. "KÊU LẠO XẠO" hẳn là một từ sẽ được viết lên mạng nhện của cô đấy. 

- Thật là một ý nghĩ sai lầm. - Charlotte đáp. - Không còn gì tồi tệ hơn nữa. Chúng ta không muốn Zuckerman nghĩ rằng Wilbur kêu lạo xạo. Ông ta có thể bắt đầu nghĩ tới thịt xông khói giòn tan kêu lạo xạo và những miếng giăm bông ngon lành sẽ nhồi vào đầu ông ta những ý tưởng đó. Chúng ta phải quảng cáo những phẩm chất ưu tú của Wilbur chứ không phải mùi vị ngon thơm của bạn ấy. Làm ơn hãy đi lấy một từ khác, Templeton.

Gã chuột có vẻ ngao ngán. Nhưng gã vẫn lén đến bãi rác và một lúc sau quay lại với một mảnh vải cô-tông. 

- Cái này thì thế nào? - Gã hỏi. - Nó là nhãn xé ra từ một chiếc sơ mi cũ đấy. 

Charlotte xem xét cái nhãn có dòng chữ "ĐÃ LÀM CO". 

- Tôi rất lấy làm tiếc, Templeton ạ, - cô nói, - nhưng "đã làm co" thì lạc đề rồi. Chúng ta muốn Zuckerman nghĩ rằng Wilbur căng tròn một cách dễ thương chứ không phải là co rúm lại. Tôi đành phải đề nghị anh cố thêm thôi. 

- Cô nghĩ tôi là gì vậy, một người đưa tin chăng? - Gã chuột càu nhàu. - Tôi không định dùng toàn bộ thời giờ để săn lùng tư liệu quảng cáo ở bãi rác đâu. 

- Chỉ một lần nữa thôi. Xin làm ơn! - Charlotte nói. 

- Tôi cho cô hay điều mà tôi sẽ làm, - Templeton nói. - Tôi biết chỗ có một túi xà phòng bột ở trong kho củi. Nó có chữ viết trên bao bì. Tôi sẽ tha một mảnh túi về cho cô. 

Gã leo lên sợi dây treo trên tường và biến vào một lỗ hỏng trên trần. Khi gã quay về, gã ngậm một mảnh bia các tông nửa xanh lơ, nửa trắng giữa hai hàm răng. 

- Đấy! - Gã đắc thắng nói. - Cái đó thế nào? 

Charlotte đọc dòng chữ "Với động tác tỏa sáng mới". 

- Nghĩa là gì vậy? - Charlotte, người cả đời chưa bao giờ dùng xà phòng bột, hỏi. 

- Tôi làm sao mà biết được? - Templeton nói. - Cô đòi hỏi các từ và tôi tha chúng về. Tôi cho rằng vật sắp tới mà cô muốn tôi mang về sẽ là một cuốn từ điển đấy. 

Họ cùng nhau nghiên cứu lời quảng cáo xà phòng. "Với động tác tỏa sáng mới". Charlotte chậm rãi nhắc lại. 

- Wilbur! - Cô gọi. 

Wilbur đang ngủ vùi trong đống rơm nghe tiếng gọi, nhảy dựng lên. 

- Chạy vòng quanh xem nào! - Charlotte ra lệnh. - Mình muốn nhìn thấy bạn hoạt động, để xem bạn có tỏa sáng không. 

Wilbur chạy đến cuối sân. 

- Bây giờ hay quay lại, nhanh hơn thế! - Charlotte nói. 

Wilbur phi nhanh về. Da chú sáng bóng. Đuôi chú xoắn tít, dễ thương. 

- Nhảy lên nào! - Charlotte kêu to. 

Wilbur nhảy cao hết mức chú có thể. 

- Hãy giữ đầu gối của bạn thẳng và cúi cho tai chạm đất! - Charlotte yêu cầu. 

Wilbur vâng lời. 

- Hãy lật lưng quay nửa vòng! - Charlotte kêu. 

Wilbur vừa nhào về phía sau vừa cong người và quay. 

- Được rồi, Wilbur. - Charlotte nói. - Bạn có thể đi ngủ lại rồi đấy. Được rồi, Templeton, tôi nghĩ là quảng cáo xà phòng sẽ được việc. Tôi không chắc động tác của Wilbur có đúng là tỏa sáng không, nhưng nó thật thú vị. 

- Thật ra, - Wilbur nói, - mình cảm thấy tỏa sáng. 

- Bạn ư? - Charlotte trìu mến nhìn chú nói. - À, bạn là một chú lợn nhỏ tốt, và rồi bạn sẽ tỏa sáng. Giờ thì mình đã dấn vào chuyện này khá sâu rồi, và mình sẽ đi đến cùng. 

Đã mệt vì nô đùa, Wilbur nằm xuống đống rơm sạch. Chú nhắm mắt lại. Rơm có vẻ ngứa - không dễ chịu như đống phân bò, luôn mềm xốp. Vì vậy, chú ủi rơm sang một bên và nằm lăn ra trên đống phân. 

Wilbur thở dài. Thật là một ngày bận rộn - ngày đầu tiên chú trở thành cực kỳ. Hàng loạt người đã đến thăm sân của chú chiều nay, và chú đã phải đứng và làm điệu bộ, tỏ vẻ cực kỳ hết sức mà chú làm được. Giờ thì chú mệt rồi. Fern đã đến và lặng lẽ ngồi trên ghế đẩu của cô ở trong góc. 

- Kể cho mình một câu chuyện đi, Charlotte! - Wilbur nói trong khi chú nằm đợi giấc ngủ kéo đến, - Hãy kể cho mình một câu chuyện! 

Thế là Charlotte, mặc dầu chính cô cũng mệt, thực hiện điều Wilbur muốn. 

- Ngày xửa ngày xưa, - cô bắt đầu. - Mình có một người chị họ xinh đẹp cố gắng dệt chiếc mạng của cô ấy vắt ngang qua một con suối nhỏ. Một hôm, một con cá bé xíu nhảy vọt lên không và vướng vào chiếc mạng. Tất nhiên chị họ của mình rất kinh ngạc. Con cá quẫy tung lên. Chị họ mình hầu như không dám cản nó. Nhưng cô ấy đã làm. Cô ấy nhào xuống, quấn hàng đống tơ quanh con cá và chiến đấu một cách dũng cảm để bắt nó. 

- Cô ấy có thành công không? - Wilbur hỏi. 

- Đó là một trận - đánh - không - bao - giờ - quên. - Charlotte nói. - Này là con cá, bị mắc mỗi một vây và đuôi của nó quẫy tung, lấp lánh dưới ánh nắng. Này là chiếc mạng nhện, võng xuống một cách nguy hiểm dưới sức nặng của con cá. 

- Con cá cân nặng bao nhiêu? - Wilbur hăm hở hỏi. 

- Mình không biết. - Charlotte nói. - Rồi chị họ mình lẻn vào, lách ra, bị con cá điên cuồng quẫy đập vào đầu một cách không thương tiếc, rồi nhảy vào, nhảy ra, nhả tơ và chiến đấu gian khổ. Trước tiên cô đập một cú vào đuôi. Con cá quật lại. Rồi một cú trái vào đuôi và một cú phải vào khúc giữa. Con cá quật lại. Rồi cô né sang bên và đập một cú phải, rồi một cú phải nữa vào vây cá. Rồi một cú trái mạnh lên đầu, trong khi mạng nhện đung đưa và căng ra. 

- Rồi điều gì xảy ra? - Wilbur hỏi. 

- Chẳng có gì, - Charlotte nói. - Con cá đã thua. Chị họ mình quấn nó chặt đến nỗi nó không thể nhúc nhích được. 

- Rồi điều gì xảy ra? - Wilbur hỏi. 

- Chẳng có gì cả, - Charlotte nói. - Chị họ mình giữ con cá một lúc, và rồi, khi chị ấy đã khỏe và sẵn sàng, chị ấy liền chén luôn. 

- Hãy kể cho mình một chuyện khác đi! - Wilbur nài nỉ. 

Thế là Charlotte lại kể cho chú nghe về một người chị họ khác của cô là một nhà hàng không. 

- Một nhà hàng không là gì? - Wilbur hỏi. 

- Một nhà khinh khí cầu. - Charlotte nói. - Chị họ của mình thường đứng bằng đầu và nhả ra đủ tơ để làm thành một quả khinh khí cầu. Rồi chị ấy thả nó bay, rồi được nâng lên không và cuống theo gió ấm. 

- Có thật không? - Wilbur hỏi. - Hay là bạn chỉ bịa thôi. 

- Thật đấy. - Charlotte đáp. - Mình có mấy người chị họ rất phi thường. Và giờ thì, Wilbur, đã đến giờ bạn đi ngủ rồi đấy. 

- Hãy hát một bài gì đó đi! - Wilbur nài nỉ và nhắm nghiền mắt lại. 

Thế là Charlotte hát một bài hát ru. Lời bài hát ru như sau: 

"Nào ngủ đi, ngủ đi. 

Người bạn mến yêu, người duy nhất của tôi.

Chìm trong phân khô và trong bóng tối.

Đừng sợ điều gì và đừng thấy lẻ loi! 

Vào giờ ếch và chim đang ngợi ca thế giới.

Từ rừng thẳm sâu, và lúm bấc rối. 

Nghỉ những lo toan, bạn duy nhất của tôi ơi. 

Chìm trong phân khô và trong bóng tối!" 

Nhưng Wilbur đã ngủ. Khi bài hát kết thúc, Fern đứng dậy đi về.

CHƯƠNG 14: BÁC SĨ DORIAN

Hôm sau là thứ bảy, Fern đứng cạnh bồn rửa bát trong bếp, lau khô bát đĩa mà mẹ cô vừa rửa. Bà Arable lặng lẽ làm việc. Bà muốn Fern đi ra ngoài chơi với những đứa trẻ khác thay vì đến thẳng sân kho ngồi ngắm nhìn bầy gia súc. 

- Charlotte là người kể chuyện hay nhất mà con từng được nghe. - Fern vừa nói, vừa lau bát. 

- Ferny, - mẹ cô nghiêm khắc nói. - Con không được bịa chuyện. Con thừa biết là nhện không kể chuyện. Nhện không thể nói được. 

- Nhưng Charlotte nói được đấy. - Fern đáp. - Cô ấy không nói to lắm. 

- Nó kể loại chuyện gì? - Bà Arable hỏi. 

- À, - Fern bắt đầu, - cô ấy kể cho con nghe về một người chị họ của cô ấy đã bắt một con cá vào mạng nhện. Mẹ không nghĩ là điều ấy thật hấp dẫn ư? 

- Con ngoan của mẹ ơi! Làm thế nào mà một con cá lại rơi vào một chiếc mạng nhện được? - Bà Arable nói. - Con biết là nó không thể xảy ra được. Con lại thêu dệt chuyện rồi đấy. 

- Ôi, chuyện có thật đấy mẹ ạ. - Fern đáp. - Charlotte không bao giờ nói dối. người chị họ này của cô ấy đã chăng một cái mạng nhện vắt ngang qua một con suối. Một hôm cô ta đang ở trên mạng và một con cá bé xíu nhảy lên không trung và vướng vào mạng nhện. một vây của con cá bị mắc, đuôi của nó quẫy tung lên và lấp lánh dưới ánh mặt trời. Mẹ không thể hình dung ra chiếc mạng đang võng xuống một cách nguy hiểm dưới sức nặng của con cá ư? Chị họ của Charlotte đã lẻn vào, lách ra và đã bị đánh vào đầu một cách không thương xót bởi con cá đang quẫy tung, nhện nhảy ra, nhảy vào, nhả tơ... 

- Fern! - Mẹ cô bé cắt ngang. - Thôi đi! - Đừng có bịa những câu chuyện hoang đường nữa. 

- Con không bịa đâu. - Fern nói. - Con chỉ kể cho mẹ nghe sự việc có thật thôi. 

- Cuối cùng thì điều gì xảy ra? - Mẹ cô bé, lúc này trí tò mò đã thắng, liền hỏi. 

- Chị họ của Charlotte đã thắng. Cô ấy gói con cá lại, rồi chén nó khi đã khỏe và sẵn sàng. Nhện cũng cần phải ăn, giống như tất cả chúng ta thôi. 

- Phải, mẹ cho là thế. - Bà Arable yếu ớt nói. 

- Charlotte có một người chị họ khác là nhà khinh khí cầu. Cô ta đứng bằng đầu, nhả ra rất nhiều tơ và được nâng bổng lên theo gió. Mẹ, mẹ không thích chỉ làm như vậy thôi ư?

- Phải, mẹ có, khi nghĩ đến điều đó. - Bà Arable đáp. - Nhưng Fern, con yêu, mẹ muốn hôm nay con chơi ở ngoài cửa chứ không đến sân kho nhà chú Homer. Hãy tìm vài đứa bạn của con và chơi cái gì đó vui vui ở ngoài nhà. Con đã ở cái sân kho ấy quá nhiều. Ở một mình quá nhiều không tốt cho con đâu. 

- Một mình ư? - Fern nói. - Một mình ư? Những người bạn tốt nhất của con là ở tầng hầm sân kho. Đó là một chỗ rất dễ kết bạn. Hoàn toàn không cô đơn chút nào cả. 

Một lúc sau Fern biến xuống đường đến nhà Zuckerman. Mẹ cô quét bụi trong phòng khách. Vừa làm bà vừa nghĩ về Fern. Việc một cô bé con quan tâm quá nhiều đến gia súc hình như không tự nhiên lắm. Cuối cùng bà Arable quyết định trong đầu là bà sẽ đến gặp bác sĩ Dorian và xin ông ta lời khuyên. Bà đánh xe ô tô ra và lái đến trụ sở của ông ở trong làng. 

Bác sĩ Dorian có bộ râu rất rậm. Ông vui mừng được gặp bà Arable và đưa cho bà một cái ghế ngồi tiện lợi. 

- Chuyện về con Fern nhà tôi. - Bà giải thích. - Fern ở sân kho nhà Zuckerman quá nhiều. Điều đó có vẻ không bình thường. Con bé nó ngồi trên một chiếc ghế vắt sữa ở một góc của tầng hầm sân kho, gần chuồng lợn và ngắm nhìn gia súc hết giờ này qua giờ khác. Nó chỉ ngồi và nghe thôi. 

Bác sĩ Dorian tựa lưng và nhắm nghiền mắt lại. 

- Thật mê thích làm sao! - Ông nói. - Ở đó hẳn thật sự đẹp và yên bình. Homer có mấy con cừu có phải không? 

- Vâng, bà Arable nói. - Nhưng tất cả điều này bắt đầu với chú lợn mà chúng tôi đã để cho Fern nuôi bằng chai sữa. Con bé gọi nó là Wilbur. Homer đã mua nó, và từ hồi nó dời chỗ chúng tôi đến giờ, Fern đã đến nhà chú để được gần nó. 

- Tôi đã nghe đồn về con lợn đó, - bác sĩ Dorian mở mắt ra và nói. - Người ta bảo rằng nó là một chú lợn hay lắm. 

- Bác sĩ có nghe nói về những chữ xuất hiện trên mạng nhện chưa? - Bà Arable lo lắng hỏi. 

- Rồi, - ông bác sĩ đáp. 

- Vậy, bác sĩ có hiểu điều đó không? - Bà Arable hỏi. 

- Hiểu gì cơ? 

- Bác sĩ có hiểu làm thế nào mà lại có chữ viết trên một chiếc mạng nhện được không? 

- Ồ, không. -Bác sĩ Dorian nói. - Tôi không hiểu điều ấy. Nhưng về vấn đề đó, trước hết là tôi không hiểu làm thế nào mà một con nhện lại học cách chăng một chiếc mạng nhện được. Khi các chữ xuất hiện, mọi người đều nói rằng chúng là một phép lạ. Nhưng không ai chỉ ra rằng bản thân chiếc mạng nhện cũng là một phép lạ. 

- Điều gì là kỳ lạ về một chiếc mạng nhện? - Ba Arable nói. - Tôi không biết tại sao bác sĩ nói một chiếc mạng nhện lại là một phép lạ. Nó chỉ là một chiếc mạng nhện mà thôi. 

- Bà có bao giờ thử chăng một cái không? - Bác sĩ Dorian hỏi. 

Bà Arable xoay mình trên ghế một cách bứt rứt. 

- Không, bà đáp. - Nhưng tôi có thể móc khăn và mạng bít tất. 

- Chắc chắn rồi, - bác sĩ nói. - Nhưng có người đã dạy bà, phải không? 

- Mẹ tôi đã dạy tôi. 

- À, vậy ai dạy cho một con nhện? Một con nhện con biết cách chăng mạng mà không cần đến lời chỉ dẫn nào của bất kỳ ai. Bà không xem điều đó là một phép lạ ư? 

- Tôi cho là thế, - bà Arable nói. - Trước đây tôi chưa hề nghĩ theo cách như vậy. Nhưng tôi vẫn không hiểu những chữ đó được đưa vào chiếc mạng như thế nào. Tôi không hiểu điều ấy và tôi không thích những gì mà tôi không thể hiểu được. 

- Chẳng ai trong chúng ta muốn thế cả, bác sĩ Dorian thở dài nói. - Tôi là một bác sĩ. Bác sĩ là phải hiểu tất cả mọi thứ. Nhưng tôi không hiểu hết tất cả mọi thứ, và tôi không định để điều đó làm tôi phải lo nghĩ. Bà Arable bồn chồn. “Fern nói là bầy gia súc trò chuyện với nhau. Thưa bác sĩ Dorian, ông có tin là gia súc trò chuyện được không?” 

- Tôi chưa bao giờ nghe được con nào nói điều gì, - ông đáp. - Nhưng điều ấy chẳng chứng tỏ được cái gì cả. Rất có thể có một con vật nói với tôi và tôi đã không nhận thấy được bởi vì tôi không chú ý. Trẻ con để ý tốt hơn là người lớn. Nếu Fern nói là gia súc ở sân kho nhà Zuckerman trò chuyện, tôi hoàn toàn sẵn lòng tin cô bé. Có thể nếu con người nói ít đi, loài vật sẽ nói nhiều hơn. Con người thường nói liên miên - tôi cho bà hay điều đó. 

- Vậy thì, tôi cảm thấy đỡ lo về Fern, - bà Arable nói. - Bác sĩ không nghĩ là tôi cần lo lắng cho con bé chứ ? 

- Trông con bé có khỏe không ? 

- Ồ, có. 

- Ăn ngon miệng chứ ? 

- Ồ, có, con bé luôn thấy đói. 

- Đêm ngủ ngon chứ ? 

- Ồ, vâng. 

- Thế thì đừng lo, - bác sĩ nói. 

- Bác sĩ có nghĩ là con bé sẽ có ngày bắt đầu nghĩ về điều gì khác ngoài lợn và cừu và ngỗng và nhện ra không? 

- Fern lên mấy rồi? 

- Cháu lên tám. 

- À. - Bác sĩ Dorian nói. - Tôi nghĩ là nó luôn yêu súc vật. Nhưng tôi không tin là nó sẽ suốt đời quanh quẩn ở tầng hầm sân kho nhà Zuckerman. Còn về bọn con trai thì sao - nó biết thằng bé nào không? 

- Nó biết Henry Fussy, - bà Arable hân hoan nói. 

Bác sĩ Dorian lại nhắm mắt lại và trầm tư suy nghĩ, - “Henry Fussy,” - ông ta lẩm bẩm. “Hừm, đặc biệt đấy.”

- Ồ, tôi không nghĩ bà có gì phải lo lắng cả. Hãy để Fern kết giao với bạn bè của cô bé ở sân kho nếu nó muốn vậy. Tôi sẽ bảo rằng, theo ý tôi, nhện và lợn cũng hoàn toàn thú vị như Henry Fussy. Nhưng tôi tiên đoán sẽ có một ngày mà ngay cả Henry cũng sẽ có những dịp tốt để thu hút sự chú ý của Fern. Thật kỳ lạ là trẻ con thay đổi qua năm này qua năm khác như thế nào. Avery thì sao ? 

- Ồ, Avery, - bà Arable cười khe khẽ. - Avery lúc nào cũng bình thường. Tất nhiên nó chui vào bụi thường xuân độc, bị ong bắp cày và ong mật đốt, rồi nó mang ếch và rắn về nhà, và nó làm vỡ tất cả mọi thứ mà nó nhúng tay vào. Nó bình thường. 

- Tốt, - bác sĩ nói. 

Bà Arable chào tạm biệt và cảm ơn bác sĩ Dorian rất nhiều về những lời khuyên. Bà cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3