Charlie Bone (Tập 5) - Chương 11 phần 2

Ly sâm banh thứ hai được rót ra. Nhìn bóng mình trong gương, cô thấy một người mà cô hầu như không nhận ra: một phụ nữ tuyệt đẹp, tóc bóng mượt và mắt lấp lánh; thậm chí cả chiếc áo len cũ kỹ màu hồng của cô trông cũng mới.

Ông Hart đưa cho cô một dĩa đựng những viên đồ ăn nhỏ xíu được bọc một lớp men cay xè. Cô Amy ăn ngấu nghiến, rên lên vì sung sướng. Khi ông ta bảo cô chúng được làm từ thịt chim ó, cô không hề dựng một cọng tóc nào.

Ông ta thuyết phục cô Amy kể chuyện đời mình, thế là cô thấy mình nhớ ra những điều tưởng chừng đã quên từ bao năm rồi. Cô không nhận thấy ánh sáng nơi các cửa sổ đã nhạt nhoà, và chỉ nhận ra mình đã nói chuyện lâu lắm rồi khi thấy mình ngồi trong ánh nến.

“Trời ơi, chết rồi, trễ quá rồi,” cô Amy đứng lên, có vẻ không vững.

Ông Hart giúp cô mặc áo khoác vào và hộ tống cô ra thang máy, “Tạm biệt,” ông ta nói, lịch duyệt gởi đi một nụ hôn gió.

Cô Amy bước ra khỏi cửa hàng trong trạng thái mê man. Bên ngoài, vỉa hè sáng rỡ trong màn sương. “Đẹp quá,” cô hét to lên. “Tôi đang bước đi trên những vì sao.”

“Sao?” Một bà lớn tuổi đi ngang qua, hỏi lại. “Trời lạnh héo rụi đi thì có. Cô bị bỏ bùa rồi.”

Về tới nhà, cô Amy đi thẳng lên phòng mình và tháo chiếc nhẫn kim cương ra.

Một cơn đau xóc khiến Charlie nhăn mặt.

“Gì thế? Ăn quá nhanh à?” Fidelio trêu.

Chúng đang ngồi trong căn-tin sau bữa trà. Tất cả những đứa khác đều đã đi rồi, ngoại trừ Billy, lúc đó đang thập thò lén đưa Rembrandt cho bà bếp trưởng.

“Em nghĩ mẹ em gọi đó là chứng khó tiêu,” Charlie nói, xoa xoa ngực. Nhưng nó không chắc đó là cái quỷ gì. Và nó không biết tại sao, khi cơn đau qua đi, nó có cảm giác như vừa bị mất một thứ gì đó rất quý giá.

Bà bếp trưởng vòng qua quầy tới ngồi bên bàn chúng.

“Có chuyện gì xảy ra thế, Charlie?” Bà hỏi. “Tin đồn bay tới tấp. Nghe nói có một số con thú đã trở về – một số con rất đặc biệt mới được về. Trong đó có con Hạt Đậu, con vẹt của Lysander, rồi vịt Nancy, đàn chuột của Gabriel, vân vân. Chẳng biết vì sao mà tất cả mọi thú khác vẫn còn mất tích vậy?”

“Con May Phúc ở đây mà,” Charlie nói một cách lảng tránh.

“Tất nhiên. Ta xác nhận điều đó. Tuy nhiên, không biết có cái gì đó đã làm nó sợ cứng cả người.”

“Cháu không nghĩ Charlie sẽ kể gì cho chúng ta đâu,” Fidelio nói. “Ngay cả cháu cũng không biết.”

Bà bếp trưởng lắc đầu, “Con không đi đâu và thề một lời nguyền ngớ ngẩn nào đấy chứ, Charlie?”

“Không hẳn,” Charlie nói.

“Ừ, cẩn thận nha. Có kẻ đang tính chuyện rắc rối đấy. Tốt hơn con nên nghĩ ra một câu trả lời cho gia đình Bloor đi, kẻo họ lại ép con phải cung khai bằng cách thức chẳng thân thiện gì đâu.” Bà bếp trưởng quay vào nhà bếp, một tay che che cái túi to trước tạp dề của bà. “Được rồi, vài phút nữa mày sẽ có bữa tối nhé,” bà nói với cái túi khi biến mất vào cánh cửa quay.

Cái chuyện rắc rối đang được trù tính kia đã bục ra ngay sau bữa tối. Thay vì giải tán bọn trẻ sau khi chúng ăn tối xong, tiến sĩ Bloor vỗ tay bộp bộp để giữ im lặng và bắt đầu bước vòng ra khỏi cái bục kê bàn giáo ban.

Từ ba dãy bàn dài trong sảnh ăn tối, ba trăm đứa trẻ nhìn ông hiệu trưởng mặc áo chùng đen, đầu cúi, tay chắp sau lưng. Đó là một người đàn ông cao lớn, có bộ ria mép xám được tỉa tót rất khéo và mái tóc màu xám sắt hớt ngắn cụt. Hôm nay mặt ông ta đỏ ran. Cuối cùng, khi dừng lại, ông ta nhìn trờn trợn vào lũ trẻ ở bàn khoa Kịch, thẳng ngay trước mặt mình.

“Không ai trong số các trò lại không thể nhận ra rằng tai họa đã giáng xuống thành phố này. Hả?” Ông ta ghé một tay ra sau tai. “Các trò nói sao?”.

“VNG, thưa ngài,” tiếng bọn trẻ áo chùng tím hét vang.

Tiến sĩ Bloor nhích về phía bên phải cho tới khi đến chính giữa cái bục. “Còn các trò thì nói sao?” Ông ta chất vấn bọn trẻ khoa Hội Hoạ.

“VNG, thưa ngài,” tiếng bọn trẻ áo chùng xanh lá cây gào tướng.

Tiến sĩ Bloor sàng thêm vài bước nữa qua bên phải. Lúc này ông ta đang đứng ngay trước mặt Charlie – vừa rồi nó là đứa cuối cùng đi vào phòng ăn và bị buộc phải ngồi vào một trong những chỗ xui xẻo ở ngay bên dưới bàn ăn của giáo viên. Fidelio ngồi đối diện nó.

“Thế còn trò?” Vùng da đỏ rân của tiến sĩ Bloor tối đi. “Trò có nghe nói về nỗi khổ của thành phố không?” Lão nhìn xuyên xoáy vào Charlie.

Charlie nghĩ câu hỏi này mang tính cá nhân nên hỏi lại, “Ý ngài nhắc đến những con thú ạ, thưa ngài?”

“Dĩ nhiên ta ám chỉ tới những con thú,” Tiến sĩ Bloor hơi nhảy đổng lên giận dữ. “Thằng ngu.”

“Nếu thế thì con có nghe, thưa ngài,” Charlie đáp.

Những đứa khác bên bàn khoa Nhạc nhịp thêm, “Có, thưa ngài.”

Thế là ông hiệu trưởng liền giao giảng thật bất ngờ. “Dĩ nhiên, thật là thảm hoạ khi mọi con vật thân yêu đều biến mất. Thật là nỗi đau khổ khôn cùng đối với những người già, những người mà chỉ có con thú làm bạn duy nhất của mình. Tuy nhiên,” tiến sĩ Bloor đi đi lại lại trên bục, “đôi khi chuyện đó xảy ra và không ai có thể làm được gì.”

Charlie lóng ngóng. Phải chăng ông hiệu trưởng biết cái gì gây ra vụ thú bỏ chạy? Có vẻ như ông ta không hề ngạc nhiên về chuyện chúng biến mất.

Tiến sĩ Bloor thình lình quay đánh phắt và bước trở lại đứng ở vị trí ngay trước mặt Charlie. “Nhưng không thể tha thứ khi có người tìm thấy một hay hai con thú của bạn bè mình, nhưng không hé cho bất kỳ ai biết đã tìm thấy chúng ở đâu.” Ông hiệu trưởng hất cằm ra và nhìn Charlie chằm chằm. “Trò tìm thấy những con thú nuôi đó ở đâu, Charlie Bone? Những thành viên hội đồng thành phố muốn biết. Trò đã tìm thấy con chó, con vịt, con vẹt, hai con thỏ, và đàn chuột, cùng con trăn vốn là của ông nội ta ở đâu?”

“Con chỉ thấy chúng, thưa ngài… đi loanh quanh,” Charlie nói.

“ĐỨNG LÊN, THẰNG KIA!”

Charlie đứng lên.

“Hãy nhắc lại câu hỏi của ta,” tiến sĩ Bloor hùng hổ. “Trò đã tìm thấy những con thú ở đâu?”

Charlie nghiến răng lại. “Con có thể mang trả lại con trăn, thưa ngài, nếu ngài muốn.”

“Bọn ta không muốn con trăn đó nữa. Giờ nó đã là một vật èo uột rồi, theo những thông tin ta thu thập được,” tiến sĩ Bloor dậm mạnh bàn chân xuống bục. “VÀ ĐỨNG CÓ ĐỔI ĐỀ TÀI!”

“Không ạ, thưa ngài,” Charlie ngoảnh khỏi bộ mặt đỏ gay điên tiết của ông hiệu trưởng. “Có lẽ lũ thú kia chỉ đi lang thang thôi, thưa ngài, như những con mà em đã tìm thấy.”

“Hừ, nếu không phải thế, thì Charlie Bone…” ông hiệu trưởng chồm xuống sát hơn, “… nếu không phải thế, thì luôn có một phòng trên những gác mái có thể làm nơi nhốt một thằng bé cho đến khi nó nói ra sự thật.”

“Vâng, thưa ngài,” Charlie nói tắc họng.

“GIẢI TÁN!” Ông hiệu trưởng gầm vang.

Ba trăm đứa trẻ nhổm phắt dậy và bắt đầu xếp đĩa dơ thành chồng.

“Em tính sao?” Fidelio hỏi Charlie khi chúng đi ra khỏi sảnh ăn tối.

“Không biết,” Charlie đáp. “Em sẽ phải nghĩ về chuyện này trong khi làm bài tập. Đó là nếu em nghĩ được à nha. Tối nay ở đó em sẽ khốn khổ lắm cho coi.”

Nhưng tình hình không đến nỗi tệ hại như Charlie sợ. Có lẽ Joshua và Dorcas đã thoả chí với cuộc la mắng của ông hiệu trưởng lắm rồi, và chúng cảm thấy hiện tại Charlie đã nhận đủ tất cả những gì nó đáng phải nhận.

Nhìn thì có vẻ Charlie đang siêng năng chí thú với bài lịch sử của mình, nhưng kỳ thực những ý nghĩ của nó cứ trôi tận đâu đâu. Làm sao nó có thể mang tất cả thú về lại đây? Làm sao để ngoại Maisie hết bị đông cứng? Mà nghĩ đến ngoại Maisie, phải nằm cứng trong bồn tắm, nó rùng cả mình. Và thế rồi cái cảm giác chờn chợn rằng mình đã mất mát cái gì đó rất quý giá lại cứ dần dần xâm chiếm nó.

Sau giờ làm bài tập, Charlie lê bước về phòng ngủ chung trong trạng thái mê mụ. Có người giật cùi chỏ nó, và nó nhận ra Gabriel đang đi bên cạnh mình.

“Cảm ơn em đã mang lũ chuột về cho anh, Charlie,” Gabriel lẳng lặng nói. “Anh sẽ không hỏi em đã tìm thấy chúng ở đâu đâu.”

“Dạ.” Charlie cảm thấy khá hơn khi nhìn thấy vẻ mặt tươi tỉnh của Gabriel. “Em đã để chúng ở lại quán Cà Phê Thú Kiểng. Anh có thể đến nhận chúng về vào cuối tuần.”

“Tuyệt. Em nghĩ em sẽ có thể đưa những con khác trở về không?”

Charlie thở dài não nề. “Em làm sao được hả, Gabe? Anh nghĩ coi. Hầu như mọi chim chóc trong thành phố, mọi chuột cống, chuột chù, ếch, nhái, chó, mèo - kể không hết - đều đã chạy mất. Làm sao em có thể đưa tất cả chúng về mà không… mà không…”

“Nói chúng ở đâu,” Gabriel tiếp lời. “Thì ra vấn đề của em là vậy.”

Charlie chẳng bận lòng cái sự cả nửa bọn trai trong phòng ngủ chung không nói chuyện với mình. Trong đầu nó có quá nhiều thứ phải nghĩ rồi. Thật lâu sau khi đèn tắt, nó vẫn thức trơ trơ, và khi chắc chắn tất cả bọn khác đã ngủ say, nó nhón gót đi tới cửa sổ và mở rèm cửa ra, chỉ hé vừa cho một mảng ánh trăng bò vào phòng. Đốm sáng đó đổ thành một dải hẹp đằng sau giường nó.

Charlie chui xuống dưới chăn và chờ đợi. Liệu Naren có tìm thấy nó? Liệu cô bé có gởi thông điệp đến vì nó nóng lòng muốn nói chuyện với cô bé? Đúng lúc nó gần như mất hết hy vọng thì những bóng đen bé xíu bắt đầu liêu xiêu qua bậu cửa sổ và vào phòng. Charlie nhìn chúng bò qua giường mình lên tường. Cuối cùng chúng dừng lại và nó có thể đọc được hàng chữ.

“Anh khoẻ không, Charlie?”

“Anh đang gặp rắc rối,” Charlie thì thào. “Anh phải đưa tất cả thú về, Naren ạ, và phải thật sớm, không thì họ sẽ nhốt anh.”

Những cái bóng nhỏ nhanh nhẹn tự xếp lại và Charlie ngạc nhiên khi đọc.

“Chúng đang trên đường trở về. Ngày mai mọi sinh vật mất tích sẽ trở lại thành phố,”

“Bằng cách nào?” Charlie hỏi.

“Có ba con mèo rực rỡ tới. Những con mèo thần. Anh phải thấy chúng mới được, Charlie. Chúng ngồi ngoài sân nhà em và cất giọng gọi to lên, nghe rất hay, tất cả mọi con thú liền tụ tập quanh chúng và theo chúng đi ra khỏi cổng nhà em. Một cảnh tượng mới hớp hồn chứ! Chim trên trời, những sinh vật chạy, bò, nhảy…”

Một tiếng thét bất chợp xé tan phòng ngủ chung. Charlie thì thào, “Tạm biệt” và những chữ bắt đầu mờ đi.

“Đó là cái gì vậy?” Rupe Small rống lên. “Kinh khủng quá.”

Đến giờ thì cả phòng đã thức giấc.

“Bức tường phủ đầy… đầy, è, cái quỷ quái… thú hay gì gì đó,” Rupe liến láu. “Charlie Bone đang nói chuyện với cái tường.”

“Ụa!”

“Hả?”

“Gớm ghiếc!”

“Tin Charlie Bone đi chứ!” Tuôn ra từ tứ phía của phòng ngủ chung.

“Câm mồm và ngủ đi,” Fidelio quát. “Mày gặp ác mộng đó, Rupe Small.”

“CÒN LU!”

Cánh cửa xịch mở và cái bóng cao lêu khêu của bà Lucretia Yewbeam đổ vào phòng. Bà ta bật đèn lên. “Cái gì thế hả?” Bà ta la lối.

Rupe chỉ vào Charlie, “Có cái quỷ gì trên tường ý và thằng đó nói chuyện với nó.”

Mắt bà giám thị híp lại, “Cái quỷ đó là cái gì?”

“Không là gì cả, thưa bà giám thị,” Charlie nói.

“Em cũng thấy nữa,” Bragger Braine lên tiếng. “Nó biến mất khi Charlie thì thầm với nó.”

“Chỉ là lũ ruồi thôi,” Charlie nói. “Cháu không biết chúng từ đâu tới.”

“Láo toét,” bà cô của nó rít rú. “Làm gì có ruồi. Giờ là mùa đông. Chúng chết hết rồi.”

Đến đây, Charlie chẳng tìm được gì mà đối đáp.

Bà giám thị bước tới giường của Charlie và nhìn chầu bẩu vào mặt nó. “Lúc nào cũng là mày sao? Dựng mọi người dậy, phá bĩnh giấc ngủ của người ta. Tao không biết mày đang làm gì và tao cũng không quan tâm. Phạt cấm túc mày, Charlie Bone. Mày phải ở lại trường nửa ngày cuối tuần.

“Nhưng cháu không thể,” Charlie phản kháng. “Bà của cháu bị bệnh.”

“Bà mày còn khỏe re,” bà giám thị nói rồi bước đi khỏi.

“Không phải chị của bà đâu. Không phải nội Bone. Ý cháu nói tới ngoại Maisie, người bà khác của cháu.”

“Xời,” bà giám thị hờ hững. “Thế bà ta làm sao?”

“Bà ấy bị… bị cảm lạnh,” Charlie cà lăm.

“Cảm lạnh? Cảm lạnh thì có chết đâu. Đi ngủ!” Bà giám thị tắt đèn và đóng cửa lại.

Khi Charlie rúc xuống dưới chăn, nó nghe thấy một tiếng làm tim nó đập lộn lên. Một tiếng cú kêu, rồi thêm một tiếng nữa.

“Chúng đang trở lại đấy,” nó nghĩ, và cuối cùng nó trôi vào giấc ngủ.