Thành phố xương - Chương 22 - Phần 1

22

Đống đổ nát Renwick’s

Trong một lúc lâu sau khi chú Luke nói xong, trong phòng hoàn toàn im lặng. Âm thanh duy nhất là tiếng nước tí tách nhỏ xuống những bức tường đá. Cuối cùng, chú nói:

“Nói gì đi, Clary.”

“Chú muốn cháu nói gì đây?”

Chú thở dài. “Cháu có thể nói rằng, cháu hiểu?”

Clary nghe thấy rõ ràng tiếng máu mình chảy trong tai. Cô có cảm giác cuộc sống của cô giống như được xây trên một lớp băng mỏng tang như giấy, và giờ lớp băng đó bắt đầu nứt dần, đe dọa sẽ nhấn chìm cô xuống vùng tối lạnh lẽo bên dưới. Bên dưới màn nước đen tối, cô nghĩ, nơi những bí mật của mẹ cô trôi theo  dòng chảy, nơi chứa đựng những gì còn lại đã bị lãng quên của một cuộc đời như con tàu đắm.

Cô ngước nhìn chú Luke. Chú dường như đang run rẩy, nhòe đi, như thể cô đang nhìn qua cặp kính mờ. “Bố cháu,” cô nói. “Cái bức hình mẹ trong giữ trên mặt lò sưởi…”

“Không phải bố cháu,” chú Luke nói.

“Vậy ông ây có tồn tại không?” giọng Clary cao lên. “Liệu từng có một John Clark nào không, hay đó chỉ là mẹ cháu dựng lên?”

“John Clark có tồn tại. Nhưng ông ấy không phải bố cháu. Ông ấy là con của hai người hàng xóm sống cạnh nhà mẹ cháu hồi mẹ cháu còn sống ở East Village. Cậu ta chết trong vụ tai nạn xe, đúng như mẹ cháu bảo, nhưng mẹ cháu chưa từng gặp mặt. Mẹ cháu có bức hình vì hai người hàng xóm nhờ mẹ cháu vẽ hình cậu ấy mặc quân phục. Mẹ cháu trả lại bức chân dung nhưng giữ lại tấm hình và giả bộ người đàn ông đó là bố cháu. Chú nghĩ mẹ cháu tưởng như thế cháu sẽ thấy dễ chấp nhận hơn. Dầu sao thì, nếu mẹ cháu nói với cháu rằng bố cháu đã bỏ trốn hay biến mất, cháu sẽ muốn tìm bố. Một người chết...”

“Sẽ không phản bác lại những lời nói dối,” Clary cay đắng nói nốt hộ chú. “Chẳng nhẽ mẹ cháu không thấy như vậy là sai sao, sau bao nhiêu năm đó, để cho cháu tưởng bố cháu đã chết, trong khi người bố thật...”

Chú Luke không nói gì, để cố tự mình tìm cách nói hết câu, để cô tìm ra cái ý tưởng mà ngay cả trong mơ cô cũng không tài nào tưởng tượng nổi.

“Là Valentine.” Giọng cô run run. “Đó là điều chú đang nói với cháu, đúng không? Rằng Valentine... từng là... - là - là bố cháu?”

Chú Luke gật đầu, những ngón tay đan chặt của chú là dấu hiệu duy nhất của sự căng thẳng mà chú đang cảm nhận. “Đúng.”

“Ôi Chúa ơi.” Clary nhảy dựng lên, không thể ngồi yên nổi nữa. Cô đi về phía những thanh xà lim. “Không thể nào. Không thể nào.”

“Clary, làm ơn đừng buồn...”

“Đừng buồn ư? Chú đang nói với cháu rằng bố cháu là người về cơ bản là chúa tể hắc ám, và chú muốn cháu không buồn?”

“Lúc đầu hắn ta không ác.” chú Luke nói, nghe có vẻ thấy có lỗi.

“Ồ, cháu cầu được khác đi. Cháu nghĩ ông ta hoàn toàn ác. Tất cả những gì ông ấy đang ươm trồng về việc làm nòi giống loài người trong sạch và tầm quan trọng của dòng máu thuần khiết - ông ta giống như một trong những tay chính trị gia da trắng đáng sợ kia. Và cả hai người hoàn toàn tin lời ông ấy.”

“Chú không phải người nói chuyện về những Kẻ thuộc Thế Giới Ngầm 'gian xảo' chỉ một vài phút trước,” chú Luke bình tĩnh đáp. “Hay về việc không thể tin họ.”

“Không hề giống nhau!” Clary nghe thấy tiếng khóc trong giọng nói. “Cháu có một người anh,” cô nói tiếp, giọng nghẹn lại. “Ông bà nữa. Họ đều chết?”

Chú Luke gật đầu, mắt nhìn xuống bàn tay lớn đang mở đặt trên đầu gối. “Họ đã chết.”

“Jonathan,” cô nhẹ nhàng gọi. “Anh ấy lớn hơn cháu? Lớn hơn một tuổi?”

Chú Luke không nói gì.

“Cháu luôn muốn có anh.” cô nói.

“Đừng,” chú buồn bã nói. “Đừng hành hạ bản thân. Cháu có thể thấy vì sao mẹ cháu giấu cháu tất cả rồi, đúng không? Có lợi gì đâu nếu cháu biết cháu đã mất những gì trước khi kịp chào đời chứ?”

“Cái hộp đó,” Clary nói, đầu óc đang làm việc điên cuồng. “Với chữ J.C bên trên. Jonathan Christopher. Đó là cái khiến mẹ cháu khóc, đó là lọn tóc của người đó - của anh cháu, không phải của bố cháu.”

“Đúng.”

“Và khi chú nói ‘Clary không phải Jonathan’ chú nói tới anh cháu. Mẹ cháu luôn bảo vệ cháu quá mức vì bà đã có một đứa con bị chết.

Trước khi chú Luke kịp trả lời, cửa xà lim lại lanh canh mở ra và Gretel bước vào. Khi nghe tới “hộp thuốc,” Clary nghĩ ngay tới chiếc hộp nhựa với hình Chữ thập đỏ trên đó, nhưng hóa ra lại là một khay gỗ lớn, bày những cuộn gạc được xếp gọn, những cái bát đựng thứ chất lỏng gì đó đang bốc khói và thảo dược tỏa ra mùi chua chua hăng hắc. Gretel đặt khay xuống cạnh tấm phản và ra hiệu cho Clary ngồi xuống, cô miễn cưỡng làm theo.

“Một cô gái ngoan,” người phụ nữ sói nói, nhúng miếng gạc vào trong một cái bát và đưa lên mặt Clary. Cô ta nhẹ nhàng lau hết vết máu khô. “Chuyện gì xảy ra với em vậy?” cô ta chê trách hỏi, như thể cô ta đang nghi rằng Clary đã cầm cái nạo pho mát mài lên mặt.

“Chú cũng đang muốn biết đây.” chú Luke hỏi, khoanh tay quan sát.

“Hugo tấn công cháu.” Clary cố không nhăn mặt khi thứ chất lỏng sền sệt châm lên vết thương.

“Hugo nào?” chú Luke chớp mắt.

“Hugo con chim của Hodge. Cháu nghĩ nó là con chim bác ấy nuôi. Cũng có thể là Valentine.”

“Hugin,” chú Luke khe khẽ nói. “Hugin và Munin và hai con chim cảnh của Valentine. Tên của chúng có nghĩa là ‘Suy Nghĩ’ và ‘Trí Nhớ’.”

“À, chúng nên có nghĩa và ‘Tấn công’ và ‘Giết chóc’,” Clary nói. “Hugo suýt cào toạc mắt cháu ra.”

“Nó được huấn luyện để làm chuyện đó.” Chú Luke đang gõ ngón tay lên tay bên kia. “Hodge hẳn đã nuôi nó sau vụ Nổi Loạn. Nhưng nó vẫn là con vật cưng của Valentine.”

“Cũng như Hodge vậy.” Clary nói, nhíu mày khi Gretel lau tới vết rạch dài trên tay cô, giờ đang dính đất bẩn và máu khô. Rồi Gretel bắt đầu băng chặt lại.

“Clary...”

“Cháu không muốn nói về quá khứ nữa,” cô dõng dạc tuyên bố. “Cháu muốn biết giờ chúng ta sẽ làm gì. Giờ Valentine đã có được mẹ cháu, Jace... và chiếc Cốc. Còn chúng ta chẳng có gì.”

“Chú sẽ không nói là chúng ta không có gì đâu,” chú Luke nói. “Chúng ta có một đàn sói mạnh. Vấn đề là chúng ta không biết Valentine ở đâu.”

Clary lắc đầu. Những sợi tóc xòa xuống mắt và cô bực tức vén lên. Chúa ơi, cô thật bẩn thỉu. Điều mà cô muốn hơn mọi điều khác - gần như hơn mọi thứ khác - là được tắm. “Valentine có nơi ẩn nấp nào không? Một hang ổ bí mật?”

“Nếu hắn có,” chú Luke nói, “hắn đã giữ bí mật thật kín rồi.”

Gretel thả tay Clary, để cho cô thận trọng nhúc nhích cánh tay. Thứ thuốc mỡ màu xanh lè Gretel đã bôi lên vết thương có tác dụng giảm đau, nhưng cánh tay vẫn cứng đơ và vụng về. “Đợi một chút.” Clary nói.

“Chẳng hiểu sao con người hay sử dụng cách nói đó,” chú Luke, chẳng với cụ thể một ai. “Chú chẳng đi đâu cả.”

“Liệu Valentine có thể ở New York không nhỉ?”

“Có thể.”

“Khi cháu thấy hắn ở Học Viện, hắn đi qua Cổng Dịch Chuyển. Magnus nói chỉ có hai Cổng Dịch Chuyển ở New York. Một ở nhà Dorothea, một ở Renwick's. Cánh cổng tại nhà Dorothea đã bị hủy, mà cháu không thấy hắn có thể trốn ở nơi nào khác, vì thế...”

“Renwick's?” chú Luke có vẻ bối rối. “Renwick không phải một cái tên của Thợ Săn Bóng Tối.”

“Nhưng nhỡ Renwick không phải một con người thì sao?” Clary nói. “Nếu nó là một địa điểm chẳng hạn? Renwick. Như một nhà hàng, hoặc... hoặc một khách sạn hay gì đó.”

Chú Luke đột ngột mở to mắt. Chú quay sang Gretel, người đang tiến về phía chú với khay thuốc trên tay. “Đưa cho tôi cuốn danh bạ điện thoại,” chú nói.

Cô ta dừng lại, giơ cái khay về phía chú với vẻ trách móc. “Nhưng, thưa thủ lĩnh, vết thương của ngài...”

“Quên vết thương của tôi đi và cầm cuốn danh bạ tới đây giùm tôi,” chú quát. “Chúng ta đang ở trong đồn cảnh sát. Chắc hẳn cô sẽ tìm ra kha khá cuốn danh bạ cũ đây.”

Bực bội khó chịu ra mặt, Gretel đặt cái khay xuống và đi ra khỏi phòng. Chú Luke nhìn Clary qua cặp kính hơi trễ xuống sống mũi. “Tư duy tốt đấy.”

Cô không trả lời. Bụng cô đang xoắn lại thành nút. Cô thấy mình đang cố thở qua nút thắt đó. Suy nghĩ bắt đầu hình thành gây ngứa ngáy ngoài rìa trí não, như đang đợi cô lãnh hội nó một cách hoàn toàn. Nhưng cô đã ngay lập tức ép nó xuống và quên đi. Cô không thể tiêu tốn nguồn lực, năng lượng, cho bất cứ thứ gì ngoài những vấn đề cần giải quyết ngay tức khắc.

Gretel trở lại với cuốn những trang vàng có vẻ bị ướt và nhét vào tay chú Luke. Chú đứng đọc một hồi trong khi cô gái sói tấn công vết thương bên sườn chú với băng gạc và những thứ thuốc mỡ dinh dính. “Có bảy Renwick trong cuốn danh bạ,” chú nói. “Không có nhà hàng, khách sạn, hay địa điểm nào khác.” Chú đẩy kính lên, gọng kính ngay lập tức trễ xuống. “Họ không phải Thợ Săn Bóng Tối,” chú nói, “và chú thấy có vẻ không có khả năng Valentine lại đặt trụ sở trong nhà người thường hoặc nơi trú ngụ của một cư dân Thế Giới Ngầm nào đó. Nhưng, có thể...”

“Chú có điện thoại không?” Clary ngắt lời.

“Chú không mang theo,” chú Luke, vẫn cầm cuốn danh bạ, liếc nhìn Gretel. “Cô đi lấy điện thoại giùm tôi nhé?”

Với tiếng khụt khịt chán ghét, cô ta ném miếng vải dính máu đang cầm xuống nền nhà và đi ra khỏi phòng lần thứ hai. Chú Luke đặt cuốn danh bạ xuống bàn, cầm cuốn gạc, và bắt đầu cuốn quanh vết thương chạy ngang mạng sườn. “Xin lỗi,” chú nói khi Clary nhìn. “Chú biết là kinh rồi.”

“Nếu chúng ta tóm được Valentine,” cô đột ngột hỏi, “chúng ta có giết hắn không?”

Chú Luke suýt làm rơi cuộn gạc. “Cái gì?”

Cô nghịch những sợi chỉ thừa thò ra khỏi túi quần bò. “Hắn giết anh cháu. Hắn giết ông bà cháu. Đúng không?”

Chú Luke đặt cuộn gạc lên bàn và kéo áo xuống. “Và cháu nghĩ giết hắn sẽ được gì nào? Xóa đi những điều đó?”

Gretel trở về trước khi Clary kịp trả lời. Cô ta đeo gương mặt của kẻ sẵn sàng tử vì đạo và đưa cho chú Luke một chiếc điện thoại kiểu cũ khá thô kệch. Clary tự hỏi ai trả tiền điện thoại đây.

Clary giơ tay. “Để cháu gọi.”

Chú Luke có vẻ lưỡng lự. “Clary...”

“Đó là về Renwick. Chỉ một giây thôi.”

Chú mệt mỏi đưa điện thoại cho cô. Cô ấn số và hơi quay người đi để cho mình chút ảo tưởng về sự riêng tư.

Simon nhấc máy ở chuông thứ ba. “A lô.”

“Mình đây.”

Giọng cậu cao lên quãng tám. “Cậu ổn không?”

“Mình ổn. Vì sao? Cậu nghe tin gì từ Isabelle à?”

“Không. Sao mình lại nghe tin từ Isabelle? Có chuyện gì sao? Alec có chuyện sao?”

“Không,” Clary nói, không muốn nói dối rằng Alec đã ổn. “Không phải Nghe này, mình cần cậu lên Google tìm cho mình cái này.”

Simon khụt khịt. “Cậu đùa mình rồi. Họ không có máy tính ở đó sao? Cậu biết không, không cần trả lời đâu.” Cô nghe có tiếng cửa mở và tiếng meo meo của con mèo mà mẹ Simon nuôi bị đẩy từ chỗ nằm trên bàn phím máy tính xuống. Cô tưởng tượng khá rõ ràng ra cảnh Simon ngồi xuống, những ngón tay di chuyển nhanh nhẹn trên bàn phím. “Cậu muốn mình tìm gì nào?”

Cô nói. Cô cảm nhận được ánh mắt lo lắng của chú Luke khi cô nói chuyện. Chú cũng nhìn cô hệt như vậy vào năm cô mười một tuổi, bị cảm và sốt cao. Chú chườm đá cho cô và đọc cho cô nghe những cuốn truyện cô yêu thích, giả đủ các giọng.

“Cậu nói đúng,” Simon nói, đánh thức cô dậy khỏi dòng suy tưởng. “Đó là một địa điểm. Hoặc ít nhất cũng từng là. Giờ nó bị bỏ hoang rồi.”

Bàn tay đầy mồ hôi trượt trên điện thoại. Cô nắm chặt hơn. “Nói cho mình nghe xem.”

“Trại thương điên nổi tiếng nhất, nhà tù, bệnh viện xây dựng trên đảo Roosevelt vào những năm 1800,” Simon đọc đều đều. “Bệnh viện Renivick Smallpox được thiết kế bởỉ kiến trúc sư Jacob Renwick và ban đầu được dùng làm nơi cách ly những nạn nhân nghèo nhất của dịch đậu mùa bùng nổ tại Manhattan. Đa số những người được đưa vào quần thể kiến trúc kiểu Gothic rùng rợn này đều chết trong bốn bức tường đó. Suốt thế kỷ tiếp theo bệnh viện bị bỏ hoang không tu sửa. Di tích này hiện bị cấm lui tới.”

“Được rồi, đủ rồi,” Clary nói, trái tim đập rộn ràng. “Phải là nó rồi. Đảo Roosevelt Island đúng không? Người ta không sống ở đó à?”

“Không phải ai ai cũng số g ở Slope, thưa công chúa,” Simon nói, rõ ràng là muốn mỉa mai cô. “Mà cậu có lại cần mình đưa đi hay gì không?”

“Không! Mình ổn, mình không cần gì đâu. Mình chỉ muốn thông tin thôi.”

“Được rồi.” Clary nhận thấy, cậu bạn thân có vẻ bị tổn thương đôi chút, nhưng cô tự nhủ với mình rằng sẽ không sao đâu. Cậu sẽ an toàn ở nhà, và đó mớià điều quan trọng.

Cô cúp máy, quay lại chú Luke. “Có một bệnh viện bị bỏ hoang ở cực nam đảo Roosevelt mang tên Renwick. Cháu nghĩ Valentine ở đó.”

Chú Luke lại đẩy kính. “Đảo của Blackwell. Tất nhiên rồi?”

“Sao chú lại nói là đảo của Blackwell? Cháu đã nói...”

Chú khua tay ngắt lời cô. “Từng có thời đảo Roosevelt mang tên đó. Blackwell's. Nó thuộc về một dòng họ Thợ Săn Bóng Tối lâu đời. Chú phải đoán ra chứ nhỉ.” Chú quay sang Gretel. “Gọi Alaric. Chúng ta cần mọi người quay lại đây ngay khi có thể.” Môi chú cong lên thành một nụ cười nửa miệng khiến Clary liên tưởng tới nụ cười băng giá của Jace trong những trận đánh. “Bảo họ chuẩn bị chiến đấu.”

Họ đi qua một mê cung lằng nhằng như mạch điện gồm những xà lim và hành lang của một nơi từng là hành lang lớn của một trạm cảnh sát và tiến ra ngoài đường. Tòa nhà giờ đã bị bỏ không, những tia nắng của buổi chiều muộn đã tạo những cái bóng kỳ lạ lên những chiếc bàn để không, những cái tủ bị khóa mang những cái lỗ đen lỗ chỗ do mọt ăn, những viên gạch nứt vỡ lát sàn tạo thành khẩu hiệu của NYPD: Fidelis ad Mortem.

“Lòng tin dẫn đến cái chết.” chú Luke nói, nhìn theo mắt cô.

“Để cháu đoán nhé,” Clary nói. “Ở bên trong nó là một trạm cảnh sát bị bỏ hoang; từ bên ngoài, người thường chỉ thấy đây là một khu chung cư đã bị di dời, một khu đất trống, hoặc...”

“Thực ra từ ngoài nhìn vào nó giống một nhà hàng Trung Hoa,” chú Luke nói, “Chỉ nhận đặt hàng, không phục vụ ăn uống tại chỗ.”

“Một nhà hàng Trung Hoa?” Clary không thể tin nổi.

Chú nhún vai. “Ừ, chúng ta ở khu phố Trung Hoa. Đây từng là tòa nhà của Đồn số hai đó.”

“Mọi người hẳn sẽ thấy kỳ khi không thấy số điện thoại đặt hàng.”

Chú Luke cười. “Có số điện thoại chứ. Chỉ là bọn chú ít nhấc máy thôi. Thi thoảng, nếu họ buồn, một vài sói con sẽ đi giao món thịt lợn mu shu cho một ai đó.”

“Chú đùa rồi.”

“Không. Có chút tiền tip cũng giúp được kha khá đây.” Chú mở cửa trước, để cho luồng ánh nắng tràn vào.

Vẫn không biết chú nói thật hay đùa, Clary đi theo chú Luke vượt qua đường Baxter tới nơi chú đậu xe. Nội thất của chiếc xe bán tải tạo cho cô cảm giác thân quen thoải mái. Mùi hương nhàn nhạt của mạt gỗ cùng giấy cũ và xà bông, hai viên xúc xắc nhồi bông màu vàng đã bạc màu mà cô cho chú khi lên mười vì trông chúng giống những viên xúc xắc vàng treo trên gương sau của con tàu vũ trụ Millenium Falcon trong phim Star Wars. Những vỏ kẹo cao su đã vứt đi cùng những cốc cà phê rỗng nằm lăn lóc trên sàn xe. Clary ngồi vào ghế hành khách, thở dài và dựa lưng xuống. Cô mệt mỏi hơn dám thừa nhận.

Chú Luke đóng cửa. “Ở nguyên đó nhé.”

Cô quan sát trong khi chú nói chuyện cùng Gretel và Alaric, hiện đang đứng trên bậc thềm của trạm cảnh sát cũ, kiên nhẫn chờ đợi. Clary tự giải khuây bằng cách lúc tập trung lúc lơ đễnh nhìn họ, quan sát ảo ảnh xuất hiện rồi biến mất. Lúc đầu nó là trạm cảnh sát cũ, lúc sau nơi đó biến thành mặt trước một cửa hàng ọp ẹp với mái hiên màu vàng có chữ JADE WOLF CHINESE CUISINE.

Chú Luke đang vung vẩy tay với sói hai và sói ba và chỉ xuống đường. Chiếc bán tải của chú đỗ đầu hàng dài xe tải, mô tô, xe Jeep và thậm chí một chiếc xe buýt đón học sinh cũ kỹ trông như sắp long hết cả. Hàng phương tiện trải dài suốt khối nhà đến quành cả qua góc đường. Đoàn hộ tống của người sói. Clary tự hỏi sao họ xin được, mượn được, trộm được hay trưng dụng được từng đó xe trong một khoảng thời gian quá ngắn. Nhưng dù sao, ít nhất họ không phải chui tất vào tàu cao tốc.

Chú Luke nhận một cái túi giấy màu trắng từ Gretel, với một cái gật đầu, chú trở về chiếc xe bán tải. Chui cái thân gầy cao vào sau vô lăng, chú đưa cô cái túi. “Cháu phụ trách cái này.”

Clary ngờ vực nhìn vào. “Cái gì thế? Vũ khí ạ?”

Vai chú Luke run lên vì cười không ra tiếng. “Thực ra là bánh bao nóng hổi mới ra lò,” chú nói và lùi xe xuống đường. “Và cà phê nữa.”

Clary xé túi khi họ tiến lên phố, dạ dày sôi ùng ục. Cô xé miếng bánh, cảm nhận vị thịt lợn mằn mặn trên đầu lưỡi cùng và lớp bột dai dai. Cô uống một ngụm cà phê đen ngọt lịm để nuốt xuống, và đưa một cái bánh bao của chú Luke. “Chú ăn không?”

“Có.” Thật gần giống như thời xưa, Clary nghĩ, khi họ lái xe vào đường Canal, mua vài túi bánh bao nóng từ tiệm bánh Golden Carriage Bakery và ăn hết một nửa khi lái xe qua cầu Manhattan để về nhà.

“Vậy kể cho chú nghe về cậu Jace kia nào,” chú Luke nói.

Clary suýt nghẹn. Cô với lấy cốc cà phê, dùng nước nóng để chặn cơn ho. “Anh ấy làm sao ạ?”

“Cháu có biết Valentine định làm gì cậu bé đó không?”

“Không ạ.”

Chú Luke nhíu mày khi nhìn phải mặt trời đang lặn. “Chú nghĩ Jace là một trong những đứa trẻ nhà Lightwood?”

“Không.” Clary ăn chiếc bánh bao thứ ba. “Họ cậu ấy là Wayland. Bố cậu ấy là...”

“Michael Wayland?”

Cô gật đầu. “Và khi Jace mười tuổi, Valentine đã giết chú ấy. À, chú Michael ạ.”

“Đó chắc chắn là việc hắn sẽ làm rồi,” chú Luke nói. Giọng chú vang lên đều đều, nhưng có gì đó khiến Clary phải liếc sang. Chú không tin cô sao?

“Jace đã thấy bố chết,” cô nói thêm, như thể để làm rõ nghĩa thêm cho câu trước.

“Thật tệ,” chú Luke nói. “Khổ thân thằng nhỏ.”

Họ đang lái xe qua Cầu Đường 59. Clary liếc xuống nhìn dòng sông chuyển sang màu vàng và đỏ máu nhờ ánh mặt trời sắp tàn. Cô thoáng thấy cực nam của đảo Roosevelt từ đây, dù chỉ là đường nét mơ hồ từ phương bắc. “Anh ấy cũng không sao đâu,” cô nói. “Nhà Lightwood chăm sóc anh ấy rất tốt.”

“Chú biết. Họ rất thân với Michael Wayland,” chú Luke nhận xét trong khi tạt xe qua làn bên trái. Từ gương chiếu hậu Clary có thể thấy bầu đoàn xe đi theo cũng bắt chước rẽ theo. “Họ sẽ muốn chăm sóc con trai Micheal.”

“Vậy chuyện gì xảy ra khi mặt trăng lên?” cô hỏi. “Vậy tất cả các chú sẽ biến thành sói hay sao ạ?”

Miệng chú Luke giật giật. “Không hẳn. Chỉ những người còn trẻ, những người vừa mới Biến Đổi, không thể kiểm soát sự biến hình. Hầu hết bọn chú đã học được cách, sau nhiều năm. Giờ chỉ có trăng tròn mới có thể tác động tới sự Biến Đổi của chú.”

“Vậy khi trăng chưa tròn, chú có cảm thấy sói một chút thôi?” Clary hỏi.

“Cháu có thể nói vậy.”

“Ừm, chú có thể đi trước và thò đầu ra khỏi cửa sổ nếu muốn.”

Chú Luke cười. “Chú là người sói, không phải một con chó tha mồi màu vàng.”

“Chú làm sói đầu đàn bao lâu rồi?” cô đột nhiên hỏi.

Chú Luke ngập ngừng. “Khoảng một tuần.”

Clary quay phắt sang nhìn. “Một tuần?”

Chú thở dài. “Chú biết Valentine đã bắt mẹ cháu đi,” chú nói mà không thay đổi ngữ điệu nhiều. “Chú biết chú có rất ít cơ hội chống lại hắn một mình và chú không thể mong gì sự hỗ trợ của Clave. Chú mất một ngày để tìm ra đàn người sói gần nhất.”

“Chú giết sói đầu đàn để cướp vị trí?”

“Đó là cách nhanh nhất chú có thể nghĩ ra để có kha khá đồng minh trong một khoảng thời gian ngắn,” chú Luke nói, giọng không có chút hối hận nào, dù cũng chẳng tự hào gì. Cô nhớ lần theo dõi chú trong nhà, cô để ý thấy những vết cào sâu trên tay và mặt chú và cách chú nhăn mặt khi dùng tới tay. “Chú đã từng làm thế rồi. Chú khá chắc mình có thể làm lại.” Chú nhún vai. “Mẹ cháu thì đã biến mất. Chú biết chú sẽ khiến cháu ghét chú. Nhưng chú chẳng còn gì để mất.”

Clary gác chân lên mặt đồng hồ. Qua lớp kính chắn gió đã nứt, bên trên đầu ngón chân, mặt trăng đã lên qua cầu. “Thôi,” cô nói. “Giờ thì chú có đấy.”

Bệnh viện ở cực nam đảo Roosevelt được chiếu sáng vào đêm, những đường nét mờ mờ ảo ảo của nó rõ ràng gây cho người ta cảm giác tò mò đối lập hoàn toàn vói dòng hải lưu đen và ánh sáng rực rỡ hơn của Manhattan. Chú Luke và Clary im lặng khi chiếc xe đi men theo hòn đảo nhỏ, khi con đường rải nhựa đường chuyển thành đường rải sỏi và cuối cùng là đường đất. Con đường đi men theo hàng rào mắt cao cao cong cong, trên đó có gắn những vòng xoắn dây thép gai giống như những cuộn ruy băng của ngày hội.

Khi con đường trở nên quá gồ ghề không thể đi xe thêm xa hơn, chú Luke đậu xe lại và tắt đèn. Chú nhìn Clary. “Nếu chú bảo cháu ở đây chờ chú, cháu có nghe không?”

Cô lắc đầu. “Ở trong xe cũng không nhất thiết là an toàn hơn nhiều. Ai mà biết được Valentine có lính tuần tra ngoài vành đai không?”

Chú Luke cười khe khẽ. “Vành đai. Nghe cháu kìa.” Chú chui ra khỏi xe và đi sang giúp cô xuống. Cô có thể tự mình nhảy xuống, nhưng sẽ tốt hơn nếu có chú giúp, chú vẫn làm như vậy kể từ hồi cô còn quá nhỏ không thể xuống được.

Chân cô chạm xuống nền đất nện khô, làm bụi bốc mù lên. Những chiếc xe đi theo sau cũng dừng lại, từng chiếc một, tạo thành một vòng tròn xung quanh xe chú Luke. Những ngọn đèn pha chiếu sáng phía trước, nhuộm hàng rào mắt cáo thành màu trắng bạc. Bên kia hàng rào, bệnh viện là một khu tàn tích tắm mình trong ánh sáng gay gắt cho thây tình trạng xập xệ của nó: những bức tường tốc mái mọc lên từ nền đất gồ ghề giống như những chiếc răng gẫy, tường chắn bằng đá có lỗ châu mai bị cây thường xuân mọc che kín. “Đây là một phế tích,” cô nghe mình đang khe khẽ nói, có sự đồng cảm trong giọng nói. “Cháu chẳng hiểu sao Valentine lại có thể trốn ở đây.”

Chú Luke nhìn về phía bệnh viện. “Nó được bọc trong lưới ảo ảnh rất mạnh,” chú nói. “Cố nhìn qua ánh sáng đi.” Alaric đang đi dọc con đường về phía họ, cơn gió nhẹ khiến chiếc áo khoác bò của chú ta khẽ mở, lộ ra bộ ngực đầy sẹo. Những người sói đi sau chú ta trông hoàn toàn bình thường, Clary nghĩ. Nếu cô thấy họ đi cùng nhau ở nơi nào đó, cô sẽ nghĩ họ biết nhau - ở họ có một sự tương đồng không phải ở vẻ bề ngoài, mà là ở ánh mắt thẳng thắn, ở vẻ mặt mạnh mẽ. Cô sẽ nghĩ họ là những người nông dân, vì họ có vẻ nước da cháy nắng, săn chắc, và gầy còm hơn những cư dân thành phố trung bình, hoặc cô sẽ nghĩ họ là một nhóm dân chơi mô tô. Nhưng họ chẳng giống quái vật chút nào.

Họ đi cùng nhau nhanh gọn họp lại bên xe chú Luke, như thể cuộc hội ý trong môn bóng bầu dục. Clary, cảm thấy như một kẻ ngoài cuộc, quay ra nhìn lại bệnh viện lần nữa. Lần này cô cố nhìn quanh ánh đèn, hay nhìn xuyên qua nó, cách thi thoảng bạn vẫn nhìn qua lớp sơn phủ để thấy; những gì bên dưới. Và như thường lệ, nghĩ đến việc mình sẽ vẽ nó ra như thế nào luôn giúp ích cho cô. Ánh sáng dường như nhạt dần, và giờ cô đang nhìn qua một trảng cỏ với vài cây sổi tới một kiến trúc theo phong cách Gothic Phục Hưng dường như đứng sừng sững trước những rặng cây như thành một con tàu lớn. Những ô cửa sổ của những tầng dưới tối om và đã vỡ, nhưng ánh sáng tràn qua những ô cửa sổ hình vòm ở tầng ba, giống như ngọn lửa chạy dọc theo một rặng núi xa xa nào đó. Hiên nhà bằng đá nặng nề hướng ra ngoài, che khuất cánh cửa trước.

“Cháu thấy chưa?” chú Luke đã đến sau cô vói những bước đi uyển chuyển của - một con sói.

Cô vẫn nhìn. “Nó giống một lâu đài hơn là bệnh viện.”

Chú Luke quay vai cô sang nhìn chú. “Clary, nghe chú nói này.” Chú nắm chặt tới phát đau. “Chú muốn cháu ở cạnh chú. Di chuyển khi chú di chuyển. Nắm lấy tay áo chú nếu cháu thấy cần. Những người khác sẽ ở quanh chúng ta, bảo vệ chúng ta, nhưng nếu cháu bước ra ngoài vòng tròn, họ không thể bảo vệ cháu được nữa. Họ sẽ đưa chúng ta tới cửa. Chú bỏ tay khỏi vai cô và khi chú di chuyển, cô thoáng thấy ánh kim loại lóe lên từ trong áo khoác. Cô đã không nhận ra chú có mang theo vũ khí, nhưng rồi cô nhớ ra điều Simon nói về thứ trong ba lô vải thô màu xanh cũ xin của chú Luke và hiểu ra. “Cháu hứa làm theo lời chú chứ?”

“Cháu hứa.”

Hàng rào là thật, không phải ảo ảnh. Alaric, vẫn ở trước, rung nó rần rần, rồi giơ bàn tay lười nhác lên. Những móng vuốt dài nhô ra từ dưới móng tay, và chú ta chém vào hàng rào mắt cáo, biến kim loại thành từng dải. Chúng lanh canh rơi xuống, hệt như những món đồ chơi xếp hình của Tinkertoys.

“Đi.” Anh ta ra hiệu cho những người khác chui qua. Họ lao về phía trước như một thể thống nhất, một biển những chuyển động hợp tác ăn ý. Nắm lấy tay Clary, chú Luke đẩy cô lên trước rồi chui vào theo. Họ đứng thẳng dậy sau khi chui qua, nhìn về phía bệnh viện đậu mùa, nơi những bóng đen tụ tập trên hiên đang bước xuống thềm.

Alaric ngửng đầu, đánh hơi. “Mùi của chết chóc nặng quá.”

Hơi thở chú Luke rời khỏi lồng ngực thành một tràng ồ ồ những tiếng rít. “Những Kẻ Lầm Đường.”

Chú đẩy Clary ra sau; cô nghe theo, hơi chuệnh choạng vì nền đất kém bằng phẳng. Cả đàn bắt đầu di chuyển về phía cô và chú Luke; khi tới gần, họ đi bằng bốn chân, môi cong lên để lộ những chiếc răng nanh dài, chân tay biến thành tứ chi phủ lông, lông mọc tràn ra khỏi quần áo. Có những giọng nói bé xíu của bản năng vang lên trong đầu Clary đang hét với cô: Sói! Chạy đi! Nhưng cô chống lại và đứng nguyên tại chỗ, dù cảm thấy những dây thần kinh đang rung lên ở tay.

Đàn sói bao lấy họ, đối mặt về phía trước. Nhiều sói xuất hiện ở ngoài vòng tròn. Như thể cô và chú Luke đang đứng ở trung tâm một ngôi sao. Giống như thế, họ về phía hiên trước của bệnh viện, vẫn ở sau chú Luke, Clary thậm chí còn không nhìn thấy Kẻ Lầm Đường đầu tiên họ đụng độ. Cô nghe tiếng một con sói tru lên như bị thương. Tiếng hú cứ lên cao cao mãi, rồi nhanh chóng chuyển thành tiếng gầm ghè. Có tiếng thịch rồi tiếng hét đùng đục và âm thanh như tiếng giấy bị xé...

Clary thấy mình đang tự hỏi liệu Kẻ Lầm Đường có ăn được không.

Cô ngước nhìn chú Luke. Mặt chú không có lấy một biểu cảm. Cô thấy chúng, ngoài vòng tròn sói, cảnh tượng được chiếu sáng rõ nhờ ánh đèn và ánh sáng từ Manhattan tới: hàng tá Kẻ Lầm Đường, làn da trắng ởn như xác chết dưới ánh trăng, trên da phủ kín những chữ rune như bị nhiễm trùng. Mắt chúng đờ đẫn khi lao vào đám sói, những con sói đối đầu với chúng, vuốt cào, răng cắn và xé. Cô thấy một trong những chiến binh Lầm Đường - một phụ nữ - ngã ra sau, cổ họng bị xé toạc, tay vẫn giật giật. Một kẻ khác ẩu đả với con sói bằng một tay trong khi tay kia đang nằm cách cả mét, máu túa ra từ mỏm chi cụt. Máu đen, đặc như nước đầm lầy, chảy thành dòng, thấm vào bãi cỏ nhiều tới mức Clary cảm thấy hơi trơn trượt. Chú Luke nắm lấy tay cô trước khi cô ngã. “Đứng đây với chú.”

Cháu vẫn ở đây, cô muốn nói nhưng không mở miệng nổi. Nhóm vẫn tiến về phía bệnh viện, chậm tới phát bực. Chú Luke nắm như gọng kìm. Clary không biết ai đang thắng, nếu có bên thắng. Người sói có kích thước và tốc độ vượt trội nhưng những Kẻ Lầm Đường di chuyển với sự chắc chắn và khó giết kinh khủng. Cô thấy một con sói nâu vốn là Alaric hạ gục một kẻ bằng cách xé toạc chân hắn và nhảy lên cắn cổ. Nó vẫn bước, kệ cho chú ta đang xé cổ họng nó, cái rìu vung lên để lại một vết thương dài đổ máu trên lớp lông mượt của Alaric.

Bị phân tâm, Clary hầu như chẳng để ý Kẻ Lầm Đường đã xuyên qua vòng bảo vệ, tới khi nó xuất hiện trước mặt cô, hệt như từ dưới đất mọc lên vậy. Mắt trắng dã, mái tóc bết bẩn, nó giơ con dao đang nhỏ máu lên.