Bạch Ngọc Lão Hổ - Hồi 04 - Phần 6

Nàng đơn giản không biết nên làm sao đây.

Ngay lúc đó, Tiểu Lôi đột nhiên từ trên thân nàng bay vụt lên không, giống như một tượng gỗ sau lưng có một sợi dây thừng chợt bị người ta giật dây.

Có phải thật đã bị người ta lôi đi?

Phượng Nương không nhìn thấy rõ.

Nàng chỉ nhìn thấy một cái bóng trắng xám thoáng qua mắt nàng, lại tan biến trong bóng tối.

Tiểu Lôi cũng tan biến theo cái bóng đó.

Mọi chuyện lại đã trở thành quá khứ, phảng phất chưa xảy ra chuyện gì, Phượng Nương có phải cũng có thể làm như chuyện gì cũng đều chưa xảy ra không?

Đối diện với núi rừng tịch mịch, tinh quang lóe chớp, nàng bỗng cảm thấy một nỗi bi thương khôn tả đè nặng trong tâm khảm, lại không biết là vì tao ngộ vừa qua? Hay là vì tin tức về Triệu Vô Kỵ?

Lẽ nào Vô Kỵ thật đã nhẫn tâm bỏ rơi nàng mà đi như vậy? Cả một lần gặp mặt cuối cùng cũng không để nàng tái kiến?

Vô Kỵ đương nhiên không chịu chết, càng không muốn chết.

Nhưng tử vong cũng giống như tất cả những bất hạnh khác trên thế gian, thông thường đều làm cho người ta không tránh né được, không tự chủ được.

Phượng Nương quyết tâm không khóc nữa.

Muốn khóc, cũng phải đợi đến khi gặp Vô Kỵ rồi hãy khóc.

Không cần biết là chàng đã chết cũng được, còn sống cũng được. Đợi đến khi nhìn thấy chàng, nàng phải khóc rống một trận.

Vậy hiện tại hà tất phải khóc!

Hiện tại nàng cho dù có khóc tới chết cũng vô dụng.

Nàng chùi nước mắt, đứng dậy, chợt phát hiện có người đang đứng trước mặt nàng, lạnh lùng nhìn nàng.

Người đó đương nhiên không thể dùng mắt nhìn nàng, bởi vì người đó là người mù đêm qua.

Nhưng người đó lại khơi khơi như đang nhìn nàng, dùng đôi mắt không nhìn thấy gì mà nhìn nàng, đột nhiên hỏi:

- Có muốn gặp Triệu Vô Kỵ không?

Phượng Nương lập tức rung động:

- Ông biết chàng ở đâu?

“Theo ta”. Người mù quay mình chống gậy trắng lò dò, chầm chậm đi về phía trước.

Phượng Nương không đắn đo, đi theo người mù xuyên qua một cánh rừng thưa, lại đến một ao nước tận đầu một dòng suối.

- Ở đây?

- Phải.

Bên cạnh ao nưóc nhỏ lại không có người, chỉ có một cỗ quan tài, quan tài mới sơn, đen sì.

Lẽ nào Vô Kỵ đang nằm trong quan tài?

Quan tài trống không.

- Vô Kỵ đâu?

- Muốn gặp Vô Kỵ thì nằm xuống.

- Nằm trong quan tài?

- Phải.

Người sống tại sao phải nằm trong quan tài? Có phải vì người khác muốn nàng giả làm người chết?

Trên mặt người mù hoàn toàn không có biểu tình gì, ai cũng nhìn không ra trong tâm y có chủ ý gì.

Nhưng chỉ cần có thể gặp được Triệu Vô Kỵ, cho dù nàng có phải chết, nàng cũng cam tâm tình nguyện.

Nàng đã nằm xuống, nằm trong quan tài.

Nắp quan tài đã đậy lại, tiếp đó quan tài lại được khiêng đi.

Người mù đó lẽ nào đã chuẩn bị chôn sống nàng?

Phượng Nương còn rất tỉnh táo, sợ hãi luôn luôn có thể làm cho người ta tỉnh táo.

Nàng cảm thấy khiêng quan tài tuyệt không phải chỉ có một người, khiêng rất bình ổn, đi rất lẹ.

Lúc bắt đầu, đường đi rất bằng phẳng, sau đó dần dần dốc đứng.

Tuy nằm trong quan tài, nàng vẫn có thể cảm thấy càng lúc càng lạnh, chứng tỏ là bọn họ đang đi lên, đi một đoạn đường rất dài, có thể đã đến gần đỉnh núi.

Nhưng bọn họ tịnh không dừng lại, đường đi lại càng kỳ quái, có lúc đi lên, có lúc đi xuống, có lúc rất thẳng, có lúc lại rất quanh quẹo.

Nghe tiếng bước chân của bọn họ, có lúc phảng phất đi trên cát đá, có lúc lại là đá tảng cứng ngắc.

Không khí bên ngoài chợt lại có chuyển biến, biến thành rất ấm cúng, phảng phất đã lọt vào một nham động.

Lại đi thêm một đoạn nữa, bên ngoài chợt truyền đến nhiều tiếng vang kỳ quái, phảng phất đang ma sát tại nham thạch, lại phảng phất như dây cáp bánh xe chuyển động.

Quan tài tuy rất kín, lại vẫn có chỗ thông gió, nàng chợt ngửi thấy một hương thơm xộc vào mũi.

Sau đó quan tài được đặt xuống nhẹ nhàng, chừng như được đặt trên một vùng đất cỏ mềm mại.

Nếu quả bọn họ chuẩn bị chôn sống nàng, tại sao lại phải đi một đoạn đường xa như vầy? Tại sao lại chọn nơi này?

Nơi đây thật ra là nơi nào?

Bốn bề rất yên tĩnh, không nghe thấy tiếng động gì.

Nàng nằm trong cỗ quan tài đen bóng một hồi rất lâu, bên ngoài vẫn không có động tĩnh gì, nàng gõ nắp quan tài, cũng không có ai hồi đáp.

Sau khi quan tài được đặt xuống, chừng như mọi người đã âm thầm lui ra.

Nàng lại đợi thêm cả nửa ngày, chung quy nhịn không được liền đẩy nắp quan tài lên, bên ngoài quả nhiên không có người, cả người mù cũng không thấy.

Nàng dụng lực di động nắp quan tài, ngồi dậy, phát hiện mình phảng phất đã tiến nhập vào mộng cảnh trong thần thoại.

Cho dù đây không phải là mộng, địa phương này cũng tuyệt không phải là nhân gian.

Đây là một căn ốc rộng lớn xây bằng đá cẩm thạch, bốn bề giăng đầy gấm đỏ thêu kim tuyến, trên cửa treo một một bức màn gấm.

Chính diện trong ốc có một điện thờ phảng phất là một huyệt động thiên nhiên, bên trong lại không cung phụng tôn thờ bất kỳ Bồ Tát hay thần thánh gì, chỉ đặt một thanh kiếm.

Thân kiếm rất dài, hình thức rất cổ nhã, tuyệt không dùng một chút châu báu trang sức, hoàn toàn không hòa hợp với sự hoa lệ bốn bề.

Lẽ nào thanh kiếm đó là vật thờ phụng của chủ nhân địa phương này?

Trong ốc đèn đuốc huy hoàng, ánh sáng chiếu ra từ những trả đèn thủy tinh Ba Tư hình dạng kỳ xảo.

Trong mấy lò vàng lại bay ra mùi thơm xộc vào mũi, dưới đất trải đầy thảm Ba Tư thêu hoa lá cẩm tú, vừa đặt chân xuống là giống hệt như đang bước trên thảm cỏ mềm mại ngày xuân.

Phượng Nương tuy cũng sinh trưởng trong gia đình phú quý, lại chưa từng thấy một nơi nào xa xỉ như vầy.

Nơi này đã gần như khiến cho nàng quên hết mọi sự sợ hãi.

Nàng một mặt nhìn, một mặt bước, bất chợt phát ra một tiếng la.

Nàng lại đụng phải một cỗ quan tài.

Một cỗ quan tài làm bằng đồng, một người đang nằm ngay đơ trong quan tài, song thủ xếp giao thoa trên ngực, y phục trắng như tuyết không dính chút bụi bặm, trên khuôn mặt trắng thảm khô cằn không có tới một chút huyết sắc, xem ra đã chết từ rất lâu.

Nàng bị người ta dùng quan tài khiên vào đây, trong đây không ngờ còn có một cỗ quan tài khác.

Lẽ nào nơi đây chỉ bất quá là một mộ phần hoa lệ?

Phượng Nương chỉ cảm thấy tay chân lạnh ngắc, một thứ phản ứng bản năng khiến cho nàng muốn tìm một cái gì đó bảo vệ lấy mình.

Nàng nghĩ đến thanh kiếm đó.

Nàng quay mình xông qua, tay còn chưa đụng đến kiếm, chợt nghe có người thốt:

- Thanh kiếm đó không được đụng!

Thanh âm lạnh lẽo, lại nhát gừng, không ngờ hình như là từ trong cỗ quan tài phát ra.

Phượng Nương sợ đến mức toàn thân cứng đơ, qua một hồi rất lâu lại nhịn không được quay đầu lại nhìn. Người chết trong quan tài không ngờ đã đứng dậy, đang dùng đôi mắt chói ngời lấp lóe như ánh đèn thủy tinh nhìn nàng, gằn từng tiếng:

- Ngoại trừ ta ra, thiên hạ không ai có thể động đến thanh kiếm đó!

Trong thanh âm của y mang theo một lực lượng nhiếp hồn đoạt phách khiến người ta tuyệt không thể tưởng tượng nổi:

- Ai động đến là phải chết!

Phượng Nương thốt:

- Ông...

Người đó nói:

- Ta không phải là người chết, cũng không phải là cương thi.

Trong thanh âm của y lại lộ xuất vẻ trào phúng bén nhọn:

- Có rất nhiều người đều nghĩ rằng ta đã chết, chỉ tiếc ta vẫn còn chưa chết.

Phượng Nương thở phào, lại hỏi:

- Chỗ này là của ông?

Người đó hỏi:

- Ngươi xem chỗ này thế nào?

Phượng Nương lẩm bẩm:

- Tôi không biết, tôi không biết nên nói làm sao.

Nàng ngẫm nghĩ, lại nói:

- Tôi cũng chưa từng đến hoàng cung, nhưng tôi tin rằng nơi này nhất định còn đẹp hơn cả hoàng cung.

Người đó bỗng cười lạnh:

- Hoàng cung? Hoàng cung mà ra gì?

Sự hoa lệ của hoàng cung, sự tôn quý của Đế Vương, trong mắt y mà nhìn càng không được coi ra gì hết.

Phượng Nương chợt vực dậy dũng khí:

- Tôi có câu này muốn hỏi ông, không biết ông có chịu trả lời tôi không.

Người đó thốt:

- Ngươi cứ hỏi.

Phượng Nương hỏi:

- Ông thật ra là ai?

Người đó trầm mặc, chầm chậm quay mình nhìn một cặp liễn đối treo ngoài quan tài:

“An tư bất động như đại địa, tĩnh lự thâm tư tự bí tàng”.

Phượng Nương nhìn kĩ mấy lần, cười khổ:

- Tôi không hiểu.

Người đó thốt:

- Đó là hai câu kinh văn trong Địa Tạng Thập Luân Kinh, nhưng cũng bao hàm chân nghĩa trong kiếm pháp.

Đôi mắt của y càng phát sáng:

- Trên trời dưới đất, có thể hiểu thấy được chân nghĩa trong đó chỉ có một mình ta.

Phượng Nương vẫn đang đợi y trả lời câu hỏi của nàng hồi nãy.

Người đó lại nói:

- Nơi đây là nơi đắc đạo của Địa Tạng Bồ Tát, ông ta tuy đã đắc đạo, lại quyết không thành Phật, mà thường hiện thân trong địa ngục.

Mục quang của y chợt lại ảm đạm:

- Hai mươi năm nay, ngày tháng của ta có khác gì trong địa ngục.

Phượng Nương hỏi:

- Vậy ông...

Người đó chung quy đã trả lời câu hỏi của nàng:

- Ta không phải là Bồ Tát, nhưng tên của ta là Địa Tạng, chuyện gì khác đều bất tất phải biết tới, biết không có ích lợi gì cho ngươi.

Phượng Nương không dám hỏi nữa.

Nàng đã thấy người đó nhất định có một đoạn quá khứ cực kỳ bi thảm, thân thế và lai lịch của y nhất định là một bí mật rất lớn.

Người đó phảng phất đã rất lâu không nói nhiều như vậy, phảng phất bất chợt cảm thấy rất mệt mỏi.

Phượng Nương đang muốn hỏi y:

- Có phải ông muốn người mù kia dẫn tôi đến? Vô Kỵ đang ở đây?

Y lại đã nằm vào quan tài, nhắm mắt, song thủ xếp giao thoa trên ngực, nằm bất động.

Phượng Nương không dám kinh động đến y.

Lúc người ta muốn ngủ yên, nàng chưa bao giờ vì bất kỳ một nguyên nhân gì mà kinh động đến bất cứ một người nào.

Nàng ngồi xuống, ánh mắt ghim trên hai cánh cửa phủ màn gấm của căn ốc.

Nàng rất muốn đi ra ngoài xem, nhưng đây là nhà của người ta.

Nàng chưa bao giờ tùy tiện đi lại trong nhà người ta, không cần biết là nhà ai cũng vậy.

Nàng đương nhiên cũng không thể ngồi như vầy cả đời.

May là người mù lại đã xuất hiện.

Y đẩy cửa bước vào, chỉ nói một tiếng:

- Mời.

Sau cửa là một mộng cảnh khác, ngoại trừ cách bố trí hoa lệ ra, còn có thêm một cái giường.

Người mù thốt:

- Từ hôm nay trở đi, gian phòng này là của ngươi, ngươi mệt thì ngủ ở đây, ngươi đói thì chỉ cần lắc lắc cái chuông trên đầu giường, tùy tiện ngươi muốn ăn cái gì cũng đều có người đem đến cho ngươi.

Y nói chuyện y hệt như trong thần thoại.

Mỗi một người đều khó tránh khỏi có tâm hiếu kỳ, Phượng Nương không nhịn được phải hỏi:

- Tùy tiện tôi muốn ăn cái gì?

Nàng nghĩ đến Dật Hoa Trai:

- Nếu quả tôi muốn ăn thịt hầm Dật Hoa Trai thì sao?

Người mù dùng sự thật để trả lời nàng, y đi ra phân phó một tiếng, sau một khắc y đã đem một dĩa vào.

Phượng Nương không thể tin được:

- Đây thật là mua từ Dật Hoa Trai ở kinh thành sao?

Người mù đáp:

- Thịt hầm Dật Hoa Trai này không phải là thật, chảo sắt và gia vị dầu mỡ của bọn họ đã được ta dùng chín ngàn lượng bạc mua về.

Phượng Nương hỏi:

- Còn bánh bao Tuân Bất Lý?

Người mù đáp:

- Đại sư phụ nấu bánh bao Tuân Bất Lý trước đây nhiều năm đã làm việc trong nhà bếp của bọn ta.

Nghe giống hệt thần thoại, lại tuyệt đối không phải nói láo, ít ra đã giải thích được chuyện trước đây vốn vô phương giải thích được.

Phượng Nương hỏi:

- Tôi tịnh không muốn biết đại sư phụ nấu bánh báo Tuân Bất Lý ở đâu, tôi chỉ muốn biết Vô Kỵ đang ở đâu?

Người mù đáp:

- Đợi đến khi ngươi nên biết, ngươi sẽ biết.

Đôi mắt xám xịt chết chóc của y trống không, cũng không biết đang ẩn tàng bao nhiêu bí mật.

Phượng Nương không hỏi nữa.

Nàng là một nữ nhân rất hiểu biết, nàng biết trên thế gian này có rất nhiều chuyện đều như vậy, đều phải đợi chờ thời cơ.

Nếu quả thời cơ chưa đến, có vội cũng vô dụng.

Nhưng nàng lại hỏi:

- Ông tại sao lại bỏ ra chín ngàn lượng bạc đi mua cái chảo sắt đó?

Người mù đáp:

- Thứ ta mua không phải là cái chảo sắt, mà là lớp nước xốt đóng trong lòng chảo bao lâu nay.

Phượng Nương nói:

- Tôi biết lớp nước xốt đó rất nổi tiếng, nghe nói cho dù có đem một miếng gỗ quăng vào lớp nước xốt đó, ăn vào cũng rất có vị.

Người mù điềm đạm thốt:

- Bọn ta không bỏ gỗ vào, mà là thịt.

Phượng Nương hỏi:

- Ông bỏ ra chín ngàn lượng bạc là vì muốn mua lớp nước xốt đó để nấu thịt?

Người mù đáp:

- Phải.

Nếu quả là Thiên Thiên, nàng ta nhất định sẽ hỏi:

- Các ngươi có phải muốn mở tiệm thịt hầm, làm theo nghề của Dật Hoa Trai?

Phượng Nương không phải là Thiên Thiên, cho nên nàng chỉ hỏi:

- Tại sao vậy?

Người mù đáp:

- Bởi vì chủ nhân của ta lúc nào cũng đều có thể ăn được món đó.

Phượng Nương hỏi:

- Ngươi tại sao lại không đi mua?

Người mù đáp:

- Bởi vì cho dù có cưỡi ngựa nhanh nhất, ngày đêm phóng không ngừng nghỉ, cũng cần phải hai ba chục canh giờ mới có thể mua về được.

Phượng Nương hỏi:

- Ông đã thử qua?

Người mù đáp:

- Chỉ thử một lần.

Phượng Nương hỏi:

- Lần đó ông mua về luôn cái lớp nước xốt trong chảo này?

Người mù đáp:

- Phải.

Phượng Nương hỏi:

- Một khi chủ nhân của ông muốn ăn gì, ông lúc nào cũng đều có chuẩn bị?

Người mù đáp:

- Phải.

Phượng Nương hỏi:

- Nếu quả ông ta muốn ăn...

Người mù lạnh lùng xen lời:

- Nếu quả ông ta muốn ăn mũi của ta, ta cũng lập tức cắt xuống, dâng đến trước mặt ông ta.

Phượng Nương không nói gì nữa.

Người mù hỏi:

- Ngươi còn chuyện gì muốn hỏi nữa không?

Phượng Nương chung quy đã thở dài:

- Kỳ thật tôi tịnh không phải thật sự muốn hỏi những chuyện đó.

Người mù thốt:

- Ta biết ngươi thật đang muốn hỏi gì.

Phượng Nương hỏi lại:

- Ông biết?

Người mù đáp:

- Ngươi đang muốn hỏi ta, ông ta thật ra là ai? Sao lại có quyền lực lớn như vậy?

Phượng Nương không thể phủ nhận.

Nàng chợt phát hiện người mù tuy cả tròng mắt cũng không có, lại có thể nhìn thấu tâm can nàng.

Người mù thốt:

- Ngươi là một nữ nhân rất có giáo dưỡng, rất ôn nhu, rất hiểu biết, chưa từng nói lời nào khiến cho người ta khinh ghét, càng không thể làm chuyện gì để người ta khinh ghét, thà tự đè nén mình vì người khác.

Y không ngờ cũng thở dài, lại nói:

- Nữ nhân như ngươi, hiện tại không còn nhiều lắm.

Đó vốn là một câu nói khen ngợi tán thưởng, nhưng trong khẩu khí của y lại mang theo một niềm bi thương tiếc nuối.

Đôi mắt không nhìn thấy gì hết đó phảng phất đã nhìn thấy nỗi bất hạnh của nàng.

o O o

Khi người mù trở lại lần thứ nhìn, đã qua hai ngày.

Phượng Nương tịnh không thể xác định có phải thật đã qua hai ngày không, nơi này, không còn nghi ngờ gì nữa, là một sơn động, căn bản không thể phân biệt được ngày đêm.

Nàng chỉ biếc đồng hồ cát trong góc phòng đã chạy hết hơn hai mươi canh giờ.

Nàng cảm thấy rất suy nhược.

Bởi vì nàng chưa ăn qua tới một hạt cơm, chưa uống tới một giọt nước.

Tuy nàng biết chỉ cần lắc lắc cái chuông trên đầu giường là sẽ có người đem đến cho nàng bất cứ món ăn nào nàng thích, nhưng nàng không đụng đến cái chuông đó, bất kỳ vật gì trong căn phòng này nàng cũng không đụng đến.

Tuy cửa không khóa, nàng chỉ cần đẩy nhẹ bức màn gấm là có thể bước ra ngoài, nhưng nàng thà ở lại trong này đợi.

Bởi vì nàng chưa bao giờ chịu làm chuyện nàng biết rõ là vô dụng.

Tuy nàng rất ôn nhu, rất hiểu biết, rất đè nén, nhưng chuyện nàng không chịu làm cũng chưa bao giờ có ai có thể miễn cưỡng nàng được.

Người mù phảng phất lại đang “nhìn” nàng.

Nhưng lần này y cũng nhìn không thấu được nàng.

Phượng Nương đối với y vẫn rất ôn nhu, rất lễ phép, vừa nhìn thấy y đã đứng dậy:

- Mời ngồi.

Người mù không ngồi, lại đẩy cửa:

- Mời.

Phượng Nương tịnh không hỏi y lần này chuẩn bị dẫn nàng đi đâu, đối với bất cứ chuyện gì nàng chừng như đều đã chuẩn bị chịu đựng.

Nàng bước ra khỏi cánh cửa, là gặp ngay bạch y nhân tự xưng là “Địa Tạng” đang ngồi trong sảnh đợi nàng.

Trên bàn bày đầy rượu thịt, hai gia nhân đang đứng hầu, trên tay bưng dĩa vàng đựng trái cây chín mọng tươi rói, có lê Tịnh Châu, có táo Lai Dương, có dưa Cáp Mật, thạch lựu Bắc Kinh, quýt ngọt Nam Phong, chuối và thơm từ đảo Hải Nam.

Y ngồi bên cạnh bàn ăn, tuy không đứng dậy, thái độ lại rất ôn hòa, cả đôi mắt sáng ngờ sắc bén cũng đã biến thành ôn hòa.

Giữa giây phút đó, y không còn giống một cương thi quỷ dị nữa, mà là một chủ nhân biết kén chọn đồ ăn.

Đối diện y còn có một cái ghế bọc da ngân hồ, tuy là ngày hạ, mặt đất vẫn ẩm thấp âm hàn, vẫn rất cần đến nó.

Y mời:

- Mời ngồi.

Phượng Nương ngồi xuống.

Những món ăn bày trước mặt nàng, nàng bình sinh chưa từng thấy qua.

Bạch y nhân ngưng thị nhìn nàng, từ từ nói:

- Ngươi là một người rất kỳ quái, vô luận là ai dưới tình huống của ngươi đều nhất định không thể làm giống như ngươi.

Phượng Nương cười cười:

- Kỳ thật tôi đâu có làm gì đâu.

Bạch y nhân thốt:

- Ngươi cũng không ăn gì hết.

Y từ từ nói tiếp:

- Một người nếu quả không muốn ăn, ai ai đều không thể miễn cưỡng người ta được, cũng vô phương miễn cưỡng người ta.

Phượng Nương nói:

- Tôi cũng nghĩ vậy.

Bạch y nhân thốt:

- Nếu quả ta nói cho ngươi nghe một chuyện, không biết ngươi có cải biến chủ ý hay không.

Phượng Nương đang đợi nghe y nói.

Bạch y nhân nói:

- Triệu Vô Kỵ tịnh còn chưa chết, ngươi sớm muộn gì cũng nhất định sẽ gặp lại hắn.

Phượng Nương tận lực khống chế lấy mình, quá hưng phấn kích động khi đang ngồi ăn là chuyện rất thất lễ.

Bạch y nhân thốt:

- Ta bảo đảm nhất định để các người tương kiến, ta cả đời chưa từng thất tín.

Phượng Nương không nói gì hết.

Nàng cầm một đôi đũa.

Bạch y nhân cũng giống như Tiểu Lôi, cũng ăn rất ít.

Phượng Nương ăn cũng không nhiều.

Một người đã đói hai ba ngày, gặp một bàn rượu thịt tươm tất như vậy, vốn không nên có phong độ ưu nhã như nàng.

Nàng lại là ngoại lệ.

Bởi vì nàng biết mình căn bản không có sức lực phản kháng người ta, chỉ còn nước dùng ý chí của mình.

Nàng vô luận làm gì cũng đều tận lực khắc chế mình.

Bạch y nhân nhìn nàng, trong mắt lại có vẻ tán thưởng, hòa hoãn nói:

- Ngươi nên thấy rằng ta là người rất thích ăn, nhưng ta lại không thể ăn quá nhiều, hơn nữa lúc nào cũng cần nghỉ ngơi.

Y ngưng nói, phảng phất đang đợi Phượng Nương hỏi nguyên nhân.

Phượng Nương quả nhiên hỏi:

- Sao vậy?

Bạch y nhân đáp:

- Bởi vì ta đã trúng độc.

Phượng Nương động dung:

- Ông trúng độc từ hồi nào?

Bạch y nhân đáp:

- Cơ hồ đã gần hai chục năm rồi.

Thần tình của y chợt biến thành bi phẫn:

- Đó thật là một thứ độc rất đáng sợ, hai chục năm nay, giờ giờ phút phút đều hành hạ ta, mỗi năm ta đều phải đi xin một thứ giải dược mới có thể bảo tồn sinh mệnh của ta, chỉ bất quá ta vẫn không thể quá mệt nhọc, càng không thể vọng động chân lực, nếu không độc tính vừa phát tác là cả giải dược cũng hết công nghiệm.

Vô luận là ai đều có thể thấy được y là một người rất kiêu ngạo, hiện tại không ngờ lại kể ra tao ngộ bất hạnh của y cho Phượng Nương nghe.

Chuyện đó khiến cho Phượng Nương không những đồng tình, mà còn cảm kích, dịu dàng thốt:

- Tôi nghĩ những năm qua ông nhất định chịu không ít đau khổ.

Bạch y nhân không ngờ lại tránh né mục quang của nàng, qua một hồi lâu sau chợt lại cười lạnh:

- Giải dược đó tịnh không phải là ta đi xin về, mà bằng vào tài nghệ của ta đổi về, nếu không ta thà chết cũng không thể đi xin gã.

Phượng Nương tuy không biết ân oán giữa y và Tiêu Đông Lâu, lại tuyệt không hoài nghi lời nói của y.

Trong ánh mắt của bạch y nhân lại bắn ra tinh quang:

- Năm xưa ta một kiếm tung hoành, giết người vô số, cừu gia đầy rẫy thiên hạ, người không có thù với ta cũng một lòng muốn lấy đầu ta, bởi vì vô luận là ai giết được ta, lập tức có thể dùng máu của ta nhuộm hồng tên tuổi của hắn.

Y lại cười lạnh:

- Chỉ tiếc ta tuyệt không để cho bọn chúng toại nguyện.

Phượng Nương hiện tại chung quy đã minh bạch, y lúc nào cũng ngồi bất động cứng đơ như người chết tịnh không phải vì sợ người ta, mà là sợ độc tính đột ngột phát tác.

Y sống dưới đất như người chết, ngày ngày ở trong quan tài, cũng tịnh không phải là hí lộng quỷ thần, quỷ bí huyễn hoặc, mà là vì trốn tránh cừu gia truy tung.

Nàng chợt cảm thấy người đó không đáng sợ chút nào, không những không đáng sợ, hơn nữa rất đáng thương.

Bởi vì y tuy còn chưa chết, lại đang chẳng khác nào đã bị chôn sống.