Bạch Ngọc Lão Hổ - Hồi 08 - Phần 1

Hồi 8: Hổ Huyệt

Mười chín tháng tư, trời mưa.

Thử thân hợp thị thi nhân vị?

Tế vũ kỵ lư nhập Kiếm Môn.

Tạm dịch:

Thân này xứng sánh thi nhân chửa?

Mưa bụi cưỡi lừa nhập Kiếm Môn.

Vô Kỵ không phải là thi nhân, cũng không có thi tình siêu thoát dật hứng như Lục Phóng Ông, nhưng chàng cũng đang lướt gió dầm mưa, che dù giấy dầu, cưỡi một thớt lừa, đã nhập Kiếm Môn, đã vào đất Thục.

Kiếm Môn Quan thiên hạ kỳ hiểm, song dực phiên thiên, quần phong hoàn lập, thật là “nhất phu đương quan, vạn phu mạc khai” xuất Kiếm Môn (một người chống giữ cửa ô, muôn người chẳng phá nổi Kiếm Môn), hai bên đường trồng bách cổ thụ cao thẳng sừng sững, liên tục suốt mấy chục dặm.

Người khiêng quan tài cho chàng nói cho chàng biết:

“Đó là loại cây bách Trương Phi, là loại bách lấy tên Trương Phi”.

Người Thục sùng bái nhất là Gia Cát Vũ Hầu. Sau khi Gia Cát Vũ Hầu qua đời, người Thục đều quấn khăn trắng quanh đầu, cho đến hiện tại tập quán đó vẫn còn chưa đổi. Bởi vì mọi người đều sùng bái Gia Cát, cho nên Trương Phi cũng được ké chút hào quang.

Nhưng Vô Kỵ sao lại mang quan tài đến?

Quan tài mới tinh, làm bằng gỗ nam mộc thượng hảo hạng, Vô Kỵ đặc biệt ra giá cao mướn bốn tay khiêng hòm giỏi nhất khiêng đi.

Bởi vì người nằm trong quan tài đích thị là bằng hữu tốt nhất. Vị bằng hữu đó tuyệt không thể phát điên.

Trong quan tài không những an toàn thoải mái, mà còn không bị mắc mưa, nếu quả có chuyện cần yên tĩnh nghĩ ngợi, sẽ tuyệt không có ai đả động tới.

Vô Kỵ cũng rất muốn chui vào quan tài.

Tuy chàng không giống Tư Không Hiểu Phong, chàng không sợ đạp phân, cũng không sợ đánh cờ, cũng không sợ mắc mưa, nhưng chàng có rất nhiều chuyện cần phải được yên tĩnh ngẫm nghĩ, nghĩ xem sau khi đến Đường gia nên biên tạo cố sự làm sao.

Cố sự đó không những phải có thể đả động được người của Đường gia, mà còn phải làm cho bọn họ tin tưởng hoàn toàn. Đó không phải là chuyện dễ, cố sự động lòng tuyệt không phải ai ai cũng có thể nghĩ ra.

Còn có bạch ngọc lão hổ, bạch ngọc lão hổ mà Tư Không Hiểu Phong nhất định bắt chàng tận tay giao cho Thượng Quan Nhẫn.

Tư Không Hiểu Phong tại sao lại xem trọng bạch ngọc lão hổ đó như vậy?

Tư Không Hiểu Phong tuyệt không phải là người không biết nặng nhẹ, tuyệt không thể làm chuyện gì không đáng.

Trong tượng bạch ngọc lão hổ thật ra có bí mật gì? Mưa phùn gió bụi thổi bay vào mặt, bất tri bất giác Kiếm Môn Quan đã rớt lại đằng sau xa xa.

Vô Kỵ chợt nghĩ đến hai câu ca dao thê lương:

Nhất xuất Ngọc Môn Quan

Lưỡng nhãn lệ bất kiền.

Tạm dịch:

Rời khỏi Ngọc Môn Quan

Hai mắt lệ chưa khô.

Đây tuy không phải là Ngọc Môn, mà là Kiếm Môn, nhưng vừa qua khỏi quan, muốn sống sót trở về cũng khó như lên trời.

Vô Kỵ chợt nghĩ đến Thiên Thiên.

Chàng không dám nghĩ đến Phượng Nương, chàng thật không dám.

“Tương tư” làm cho người ta quấn quýt nhớ nhung thấu xương, ảm đạm tiêu hồn, “không dám tương tư” có tư vị ra sao đây?

Đa tình tự cổ không dư hận.

Nếu quả mình không thể đa tình, cũng không dám đa tình, cho dù tình có thâm nhập xương cốt, cũng chỉ còn nước đem mảnh tình đó chôn sâu trong xương cốt, vùi mảnh tình đó rữa nát trong xương cốt, chết trong xương cốt.

Thứ tư vị đó ra sao?

Vô Kỵ chợt xếp dù, để những tơ mưa lạnh buốt quất trên người mình.

Gió mưa vô tình, nhưng có bao nhiêu người biết tư vị vô tình?

Chàng chợt muốn uống rượu.

Rượu cay, rượu phải cay.

Nhấm ớt hiểm với rượu, ăn một trái ớt hiểm tươi, uống một ngụm rượu, đó mới thật là cay đến mức quá độ.

Ớt hiểm đỏ tươi đến mức sáng nhoáng, mồ hôi trên trán cũng đỏ đến mức sáng choang.

Vô Kỵ xem ra cũng cảm thấy rất quá độ, nhưng đợi đến khi chàng ăn vào, chàng phát hiện lối nhấm khiếp đảm đó tịnh không chỉ “quá độ” như trong tưởng tượng.

Chàng bị cay đến mức mỗi một sợi tóc trên đầu đều “đứng” lên hết.

Mỗi một người ở chỗ này đều uống rượu như vậy.

Chỗ này ngoại trừ ớt hiểm ra, xem chừng căn bản không có thứ gì khác để nhấm với rượu.

Cho nên chàng tuy mau chóng bị cay đến mức “nộ phát xung thiên”, cũng chỉ còn nước cứng đầu nghiến răng nuốt vào.

Chàng không chịu để người ta coi chàng là một tên “dở tệ”.

Đất Thục gian nan.

Đất Thục chỗ nào cũng có triền núi, chỗ Vô Kỵ dừng lại uống rượu cũng là ở trên một cái gác cheo leo trên triền núi, dựng bằng những ống nứa bự bằng miệng chén, bốn bề một mảng xanh rờn, gió mát đợt nối đợt đón đưa, giữa khí trời nóng bức, đi đường mệt mỏi mà được nghỉ chân ở một nơi như vầy quả thật không tệ chút nào.

Hiện tại khí trời tuy còn chưa thể gọi là nóng, nhưng người đi ngang qua đây, đại đa số ai cũng dừng lại uống vài chén rượu nhấm ớt hiểm rồi mới tiếp tục lên đường.

Đường quá gập ghềnh khúc khuỷu, đi đường quá gian khổ, có thể có cơ hội hưởng thụ giây phút an nhàn phiêu dật, ai mà không muốn.

Đời người cũng như là đường bộ hành.

Cả một đời người gian khổ gập ghềnh, có bao nhiêu người có thể tìm ra chỗ dừng chân như vầy?

Có lúc mình cho dù có thể tìm ra, cũng không có cách nào dừng chân được, bởi vì đằng sau mình còn có một ngọn roi đang bám theo mình.

Bản thân của sinh hoạt là ngọn roi, trách nhiệm, vinh dự, sự nghiệp, gánh nặng gia đình, cơm ăn, áo mặc, tương lai,..., đều giống như ngọn roi đang theo sau quất vào người mình.

Mình làm sao có thể dừng lại?

Vô Kỵ uống ực một hơi cạn chén rượu cay, đang chuẩn bị rót thêm chén nữa, lại đã nhìn thấy hai cái “hoạt can” trên triền núi.

Hoạt can không phải là kiệu.

Hoạt can là một thứ công cụ giao thông đặc hữu trong đất Tứ Xuyên, dùng hai ống nứa thô kệch khiêng nâng một cái ghế tre.

Có người đang ngồi trên ghế.

Không cần biết người mình nặng bao nhiêu, không cần biết đường khó đi bao nhiêu, người khiêng hoạt can nhất định có thể khiêng mình đi.

Bởi vì người có nghề khiêng hoạt can không những có kĩ xảo đặc biệt, hơn nữa mỗi một người đều là những lão thủ kinh nghiệm phong phú.

Vô Kỵ từ trước đây rất lâu đã nghe kể những truyền thuyết có liên quan đến hoạt can, lại một mực không tin mấy.

Hiện tại chàng đã tin.

Bởi vì chàng đã nhìn thấy người đang ngồi trên một cái hoạt can.

Nếu quả không phải chàng tận mắt nhìn thấy, chàng tuyệt không thể tin một người như vậy cũng có thể ngồi trên hoạt can, càng không thể tin hai can phu gầy ốm như hai cây tre không ngờ vẫn có thể khiêng người đó đi.

Chàng rất ít khi nhìn thấy người mập béo như vậy.

Một người không những mập mạp, mà còn mập đến mức đần vô ngần, không những đần, mà còn đần đến mức tục không chịu được.

Người đó nhìn không khác gì một đống thịt heo mỡ nung núc, y phục ăn vận lại giống như một phú hộ mới phát tài, chẳng khác gì tức không xài hết được tiền, chẳng khác gì sợ người khác không biết hắn có tiền.

Đồng bạn của hắn lại là một mỹ nam tử.

Gã không phải là mỹ nam tử tay yếu chân mềm có chút giống con gái như Đường Ngọc.

Gã cao to anh tuấn, tráng kiện, vai rộng, hông thon, mày dày, mắt to, tràn đầy mỵ lực nam tính.

Hiện tại hai cái hoạt can đều đã dừng lại, hai người đều đã tiến vào gác.

Người mập thở hổn hển ngồi xuống, giơ bàn tay núc ních mang đủ thức đủ dạng nhẫn bảo thạch thúy ngọc.

Thiếu niên anh tuấn cao to kia lập tức rút ra một cái khăn lụa trắng như tuyết đưa qua.

Người mập cầm lấy khăn lụa, chùi mồ hôi giống hệt một cô nương đánh phấn, chợt thở dài:

– Ta biết gần đây ta nhất định ốm lắm, ốm rất ghê.

Đồng bạn của hắn lập tức gật gật đầu, tỏ thái độ đồng tình:

– Ngươi gần đây bận bịu mệt nhọc, ăn lại quá ít, làm sao mà không ốm cho được.

Người mập nhăn mặt thở dài:

– Ốm dữ như vậy làm sao mà coi được chứ?

Đồng bạn của hắn nói:

– Ngươi nhất định phải kiếm cách ăn cho nhiều một chút.

Kiến nghị đó người mập lập tức tiếp nhận, lập tức kêu đầu bếp trong điếm nấu hai ba cái giò heo, bốn năm con gà béo.

Hắn chỉ có thể ăn “chút ít” đó, bởi vì gần đây khẩu vị của hắn không được tốt mấy.

Nhưng hắn nhất định phải miễn cưỡng mình ráng ăn, bởi vì gần đây hắn quả thật đã ốm đến mức không thể tả nổi.

Bao nhiêu mỡ thịt trên mình hắn xem chừng căn bản không phải là hắn, không những chính hắn đã quên, cả đồng bạn của hắn hình như căn bản không nhìn thấy.

Chỉ tiếc là người khác đều nhìn thấy.

Một người thật ra là mập hay ốm, thân thể béo phị thật ra là ai, mọi người đều nhìn thấy rất rõ.

Mọi người đều nhịn không được len lén cười.

Vô Kỵ không cười.

Chàng tịnh không cảm thấy chuyện đó buồn cười, chàng cảm thấy đó là một bi kịch.

Tự mỹ thiếu niên đó đương nhiên cũng biết lời nói của mình rất buồn cười, gã lại vẫn nói như vậy, chỉ là vì gã cần sinh hoạt, cần sinh sống mà người mập kia cung cấp cho gã.

Một người vì sinh sống mà không thể không nói những lời làm cho người ta nghe thấy buồn cười, lúc mình nói cũng cảm thấy khó chịu, đó là một thứ bi kịch.

Người mập đó càng đáng buồn hơn.

Người hắn muốn lừa gạt tịnh không phải là người khác, mà là chính hắn.

Một người đến lúc cả chính mình cũng muốn lừa gạt, đương nhiên càng là một thứ bi kịch.

Vô Kỵ chợt cảm thấy hết uống rượu vô.

Ngoại trừ Vô Kỵ ra, không ngờ còn có người không cười.

Người đó không cười, tịnh không phải vì người đó cũng có tình cảm thâm sâu như Vô Kỵ, chỉ bất quá là vì người đó đã say.

Lúc Vô Kỵ đến, người đó đã nằm phục trên bàn, trên bàn đã có nhiều bình rượu cạn.

Người đó không đội nón hay khăn, để lộ mái tóc bạc trắng, trên mình mặc bộ y phục bố màu lam đã giặt đến mức trắng xóa.

Nhân tại giang hồ, đã đến tuổi già, uống say thì đã sao, không uống say thì đã sao?

Vô Kỵ bỗng lại muốn uống.

Lúc đó, chàng lại nhìn thấy có người đi trên triền núi.

Sáu thanh y nhân, mang giày rơm, vớ bố, đội nón tre rộng vành, vành nón phủ xuống thật thấp.

Sáu người đi rất nhanh, cước bộ lại rất nhẹ nhàng, cúi đầu lầm lủi bước dài vào gác trà.

Trong tay bọn họ đều có cầm bao bố xanh, có bao rất dài, có bao rất ngắn.

Ngắn chỉ một thước bảy, dài lại tới sáu bảy thước, lúc cầm trong tay bọn họ, phân lượng xem ra rất nhẹ, vừa đặt lên bàn lại cọ quẹt “rảng rảng” trên bàn.

Không có ai cười.

Vô luận là ai cũng thấy được sáu người đó tuyệt đối là giang hồ hảo hán công phu không tệ.

Sáu cái bao bọn họ mang theo, nếu không phải là lợi khí sát nhân, cũng tuyệt không phải là đồ chơi.

Sáu người đi chung đường, ăn vận giống hệt nhau, lại khơi khơi không ngồi chung bàn.

Sáu người lại đi chiếm cứ sáu cái bàn, rõ ràng chặn hết đường đi của mọi người trong gác.

Chỉ có lão thủ thân kinh bách chiến, kinh nghiệm phong phú mới có thể trong nháy mắt chọn lựa vị trí tốt như vậy.

Sáu người cúi đầu ngồi xuống, song thủ vẫn nắm chặt cái bao trên bàn.

Người thứ nhất tiến vào cao lớn, cường tráng, cao hơn một cái đầu so với đại đa số người, cái bao mang theo cũng dài nhất.

Hai bàn tay cầm bao của gã, trên đốt ngón tay của ngón cái, ngón trỏ, và ngón giữa của bàn tay phải đều có một lớp chai rất dày.

Người thứ hai vào vừa cao vừa gầy, hông tóp lưng còng, phảng phất đã già hóp.

Cái bao hắn mang theo ngắn nhất, đôi bàn tay cầm bao vừa khô cằn vừa gầy guộc, giống như vuốt chim.

Hai người đó Vô Kỵ hình như đã từng gặp, lại không nhớ đã gặp ở đâu.

Chàng căn bản không nhìn thấy mặt bọn họ.

Chàng cũng không muốn nhìn.

Những người đó đến đây xem chừng đã tồn tâm đến gây phiền hà cho người ta, không cần biết bọn họ tìm ai gây phiền hà, Vô Kỵ đều không muốn lo tới chuyện của người khác.

Không tưởng được người vừa cao vừa gầy hông tóp lưng còm lại bỗng hỏi:

– Cỗ quan tài bên ngoài là ai đem đến?

Người càng không muốn gặp phiền hà, phiền hà trái lại càng muốn đổ lên người hắn.

Vô Kỵ thở dài:

– Là ta.

Vô Kỵ đã nhớ người đó là ai.

Chàng tuy còn chưa nhìn thấy mặt người đó, lại đã nhận ra thanh âm của hắn.

“Bánh bột lọc chấm đường đây, bánh bột lọc nhân đậu xanh đậu đỏ đây”.

Một người vừa cao vừa gầy, trên vai quảy gánh hàng che lụa xanh, một mặt dùng giọng Tô Hàng rao bán, một mặt bước vào một khoảnh đất trống sáng choang ánh đèn giữa một khu rừng.

Theo sau còn có người bán dưa muối, bán rượu, bán bánh tai heo Hồ Bắc, bán bánh bột chiên, bán bánh bò Sơn Đông, bán bánh bột nhào đường Phúc Châu, bán bánh bột gạo Lĩnh Nam, bán vịt quay, bán bánh da lợn, bán chè tào hủ, bán sữa đậu nành Bắc Kinh, ngũ hoa bát môn, đủ các thức các dạng hàng gánh, dùng đủ các thức các dạng lời rao từ nam chí bắc, từ bốn phương tám hướng ùa tới.

Chuyện xảy ra đêm hôm đó, Vô Kỵ vĩnh viễn không quên được, thanh âm của người bán bánh bột lọc chàng cũng nghe rất rõ, cho nên chàng cũng ghi nhớ lời nói của Tiêu Đông Lâu:

“Trước đây bọn họ đều là bộ hạ cũ của ta”.

Người bán bánh bột lọc đó hiện tại đang làm gì? Tại sao lại nảy sinh hứng thú đối với một cỗ quan tài?

Người cao lớn kiện tráng, trên ba ngón tay của bàn tay phải có vết chai dày cộm chợt ngẩng đầu, nhìn Vô Kỵ chăm chăm.

Vô Kỵ đã nhận ra gã.

Ánh mắt của gã cực sáng, khóe mắt cực bén, bởi vì gã từ hồi bảy tám tuổi đã bắt đầu luyện nhãn lực.

Những vết chai trên ngón tay gã vừa dày vừa cứng, bởi vì gã từ hồi bảy tám tuổi đã bắt đầu dùng ba ngón tay đó kéo cung.

Vô Kỵ đương nhiên nhận ra gã, bọn họ không phải chỉ mới gặp mặt một lần.

Kim Cung Ngân Tiễn, Tử Mẫu Song Phi, tráng hán người cao tám thước đó chính là Hắc Thiết Hán, con trai của Hắc Bà Bà.

Hắc Bà Bà là ai? Là người có thể bắn một mũi tên xuyên qua mắt ruồi ngoài mười trượng.

Trong cái bao gã đang cầm đương nhiên Kim Bối Thiết Thai Cung và Ngân Vũ Tiễn danh chấn giang hồ của mẹ con bọn họ.

Gã không ngờ lại không nhận ra Vô Kỵ, chỉ bất quá cảm thấy người trẻ tuổi trên mặt có vết thẹo kia hình như là đã từng gặp mặt, cho nên hỏi dò:

– Bọn ta trước đây có từng gặp mặt chưa?

Vô Kỵ đáp:

– Chưa.

Hắc Thiết Hán hỏi:

– Ngươi không quen ta?

Vô Kỵ đáp:

– Không quen.

Hắc Thiết Hán thốt:

– Rất tốt.

Người bán bánh bột lọc hỏi:

– Sao?

Hắc Thiết Hán đáp:

– Hắn không quen ta, ta cũng không quen hắn.

Người bán bánh bột lọc thốt:

– Rất tốt.

Nghe bọn họ nói hai chữ “rất tốt”, Vô Kỵ biết phiền hà đã đến.

Sáu người đó vô luận là mang đến phiền hà gì, phiền hà đó nhất định không thể quá nhẹ.

Vô Kỵ đã nhận thấy điểm đó, người khác cũng thấy, khách nhân trong gác đại đa số đã len lén trả tiền, len lén đi ra, chỉ còn vị công tử khẩu vị không được tốt kia còn đang cúi đầu nhai nhồm nhoàm.

Xem chừng cho dù trời có sập xuống, hắn cũng phải đợi ăn xong con gà đó rồi mới chịu đi.

Thứ người đó đương nhiên không thể lo tới chuyện của người khác.

Người bán bánh bột lọc chợt đứng dậy, cầm cái bao, từ từ bước tới trước mặt Vô Kỵ:

– Ngươi khỏe chứ?

Vô Kỵ thở dài:

– Cho tới hiện tại cũng được, không có gì tệ, chỉ tiếc hiện tại xem chừng đã có phiền hà.

Người bán bánh bột lọc cười cười:

– Ngươi là người thông minh, chỉ cần không làm chuyện hồ đồ, sẽ không có phiền hà.

Vô Kỵ thốt:

– Ta luôn luôn rất ít khi làm chuyện hồ đồ.

Người bán bánh bột lọc nói:

– Rất tốt.

Hắn đặt cái bao xuống, lại nói:

– Ngươi đương nhiên cũng không nhận ra ta.

Vô Kỵ đáp:

– Không quen.

Người bán bánh bột lọc hỏi:

– Ngươi có nhận ra đây là gì không?

Hắn dùng hai ngón tay tháo vòng thắt trên bao, để lộ một thứ binh khí ngoại môn hình dạng kỳ lạ, đúc bằng kim loại nguyên chất, tinh quang lấp lóe.

Vô Kỵ đáp:

– Đó có phải là Thiết Ưng Trảo, độc môn binh khí của Hoài Nam Ưng Trảo Môn?

Người bán bánh bột lọc thốt:

– Hảo nhãn lực.

Vô Kỵ nói:

– Tai của ta cũng rất thính.

Người bán bánh bột lọc thốt:

– Ồ?

Vô Kỵ nói:

– Ta nghe được khẩu âm ngươi nói tuyệt không phải là người Hoài Nam.

Người bán bánh bột lọc thốt:

– Ta không phải đến làm Hoài Nam môn hạ để học nói.

Vô Kỵ hỏi:

– Ngươi học cái gì?

Người bán bánh bột lọc đáp:

– Học giết người.

Hắn hững hờ nói tiếp:

– Một khi ta có thể dùng công phu bản môn đi giết người, không cần biết ta nói giọng gì cũng vậy.

Vô Kỵ nói:

– Có lý.

Người bán bánh bột lọc chợt dùng đôi bàn tay như vuốt chim của hắn cầm đôi binh khí như vuốt chim đó lên.

Hàn quang thiểm động, ưng trảo song song phi xuất, “đinh” một tiếng, chén rượu trước mặt Vô Kỵ đã bị đâm xuyên bốn lỗ nhỏ, một ống nứa trên lan can cũng bị một ưng trảo rọc tét. Chén rượu là đồ sứ, muốn đánh bể nó tịnh không khó, đục xuyên bốn lỗ lại không phải là chuyện dễ.

Ống nứa cứng dai, muốn rọc tét nó cũng không phải dễ.

Hà huống thứ lực lượng đó hoàn toàn bất đồng, tả hữu song thủ của hắn đồng thời thi triển, lại có thể sử xuất hai thứ lực lượng hoàn toàn bất đồng.

Vô Kỵ thở dài:

– Hảo công phu.

Người bán bánh bột lọc hỏi:

– Đó có phải là công phu giết người không?

Vô Kỵ đáp:

– Phải.

Người bán bánh bột lọc hỏi:

– Ngươi có muốn xem ta giết người không?

Vô Kỵ đáp:

– Không muốn.

Người bán bánh bột lọc hỏi:

– Vậy sao người còn không mau đi?

Vô Kỵ hỏi:

– Ngươi chịu để ta đi?

Người bán bánh bột lọc đáp:

– Thứ ta muốn vốn không phải là người ngươi.

Vô Kỵ hỏi:

– Ngươi muốn cái gì?

Người bán bánh bột lọc đáp:

– Thứ ta muốn là cỗ quan tài mà ngươi đem đến.

Quan tài là do chính Vô Kỵ đi mua, làm bằng gỗ nam mộc từ Liễu Châu thượng hảo hạng, gia công gia liệu, tinh tuyển đặc chế.

Vô Kỵ thốt:

– Nhãn quang của các hạ thật không tệ, cỗ quan tài đó quả thật là một cỗ quan tài tốt.

Người bán bánh bột lọc nói:

– Ta có thể thấy được.

Vô Kỵ thốt:

– Nhưng vô luận quan tài tốt cỡ nào đi nữa, cũng không đáng để người như các hạ cực nhọc xuất thủ.

Người bán bánh bột lọc nói:

– Ngươi nói không đáng, ta lại nói là đáng.

Vô Kỵ thốt:

– Các hạ nếu thật muốn một cỗ quan tài như vậy, cũng có thể đi kêu tiệm quan tài làm thêm một cỗ nữa.

Người bán bánh bột lọc nói:

– Cái ta muốn là cỗ quan tài này.

Vô Kỵ hỏi:

– Lẽ nào cỗ quan tài này có chỗ đặc biệt gì?

Người bán bánh bột lọc đáp:

– Cỗ quan tài đẹp đẽ như vậy, bên trong có gì?

Vô Kỵ đáp:

– Bên trong chỉ có một người.

Người bán bánh bột lọc hỏi:

– Người nào?

Vô Kỵ đáp:

– Một bằng hữu.

Người bán bánh bột lọc hỏi:

– Là bằng hữu sống, hai là bằng hữu chết?

Vô Kỵ cười:

– Con người ta tuy không thể coi là rất rành nghĩa khí, nhưng cũng không thể đem bằng hữu sống bỏ vào quan tài đem đi.

Chàng nói không phải là nói thật, cũng không thể coi là nói xạo.

Đường Ngọc còn chưa chết, chính tay chàng đem Đường Ngọc bỏ vào trong quan tài.

Đường Ngọc tịnh không phải là bằng hữu của chàng.

Nhưng trong cỗ quan tài đó quả thật chỉ có một mình Đường Ngọc.

Chàng tự tay đóng nắp quan tài, mướn người khiêng, tận mắt coi sóc đám người khiêng quan tài đến đây, quả thật không có gì giả trá.

Người đó lại hình như chưa tin hoàn toàn, lại hỏi:

– Bằng hữu của ngươi đã chết?

Vô Kỵ đáp:

– Đời người luôn luôn khó tránh khỏi cái chết.

Người bán bánh bột lọc hỏi:

– Người chết còn có thể thở không?

Vô Kỵ lắc đầu.

Chàng đã nghĩ đến một kẽ hở, nhưng chàng không tưởng được người ta có thể thấy được.