Oan nghiệt - Chương 05 phần 1

CHƯƠNG 5

Vụ giết hại Charlie Courage xảy ra vào đầu tháng 12, khoảng một tháng sau ngày Banks đem Emily Riddle về nhà bố cô, đã có phần dịu xuống, đi vào quên lãng phần nào, nhưng không phải không quá tệ hại để cho ông yên tâm được. Trên đường về lại Yorkshire, ông nghĩ cô ta cần nghỉ ngơi một thời gian trước khi hòa nhập lại vào xã hội. 

Trong thời gian này, Banks bận bịu với nhiều công việc đổi thay quan trọng ở Ban đầu não phân đội Eastvale. Lực lượng cảnh sát của hạt được tổ chức lại từ 7 phân đội xuống còn 3, Eastvale là trung tâm đầu não mới của Phân đội miền Tây rộng lớn, kiểm soát hầu hết khu vực phía Tây từ đường A, cho đến giáp ranh giới với hạt Lancashire, và từ ranh giới với hạt Durham ở phía Bắc cho đến ranh giới với vùng Tây Yorkshire ở miền Nam. 

Ở đây có những khu vực rộng lớn còn hoang vu và đầm lầy, kể cả hầu hết vườn quốc gia Dales của Yorkshire, và những cơ sở làm ăn chính ở đây là kĩ nghệ phục vụ du lịch, nông nghiệp và những máy kĩ nghệ nhẹ thô sơ. Không có những thành phố lớn, nhưng có nhiều thị trấn sầm uất như là Harrogate, Ripon, Rickmond, Skipton và chính Eastvale.

Dĩ nhiên trong khu vực này đã xảy ra nhiều vụ tội phạm, và do việc cải cách mới, trạm cảnh sát ở Eastvale đã nới rộng thành nhiều tòa nhà nối tiếp nhau, ở đây đã có phòng lấy dấu tay, phòng lưu trữ hồ sơ tội phạm, phòng vi tính và phòng ảnh, phòng nào phòng nấy phát triển lớn mạnh. Công việc cải tạo đang tiến hành, cơ sở rất ồn ào và bụi bặm.

Trong khi các trạm cảnh sát các khu vực tiếp tục duy trì công việc anh ninh trật tự như trước - thực ra họ còn được cho thêm quyền tự trị - thì trạm ở Eastvale được miền Tây mới thành lập nữa. Chưa ai biết số sĩ quan trong đội điều tra tội phạm là bao nhiêu - hay như một số người gọi họ là nhân viên điều hành việc điều tra tội phạm - vì họ đang có số người hiện đang làm việc, như số nhân viên đã bắt đầu gia tăng.

Việc thuyên chuyển đầu tiên mà giám đốc nhân viên, Bà Millicent Cummnings, thực hiện, là chuyển Trung sĩ thám tử Annie Cabbot đến đội điều tra mới. Millie nói với Banks rằng bà ta thấy Annie đã làm việc với ông rất tốt trong vụ điều tra trước đây, bất kể việc ông cảnh sát trưởng Riddle nghĩ đến hậu lộn xộn của vụ này ra sao, và bà còn nói với ông rằng, vì Annie sẽ làm việc trong Ủy ban điều tra, cho nên nhờ kinh nghiệm của cô ta, ủy ban sẽ làm việc rất tốt.

Dĩ nhiên Millie, cũng như Riddle và nhiều người khác, không biết Banks và Annie gian díu tình ái với nhau, mà Banks cũng không nói cho ai hay. Bây giờ là cơ hội ngàn vàng cho cô có lại dịp để tiếp xúc công việc bỏ dở, và có lẽ ông ta sẽ không lo lắng gì về công việc của cô. Annie là một thám tử có tài, và nếu cô làm việc với Banks, ít ra thì ông cũng có thể giúp đỡ cô được.

Hạt còn có một phụ tá cảnh sát trưởng (phụ trách tội phạm) với tên Ron McLaughlin, người ta thường gọi đùa là "Ron đỏ" vì ông ta thiên về cánh tả hơn những sĩ quan cảnh sát rất nhiều. Phụ tá cảnh sát trưởng McLaughlin được biết là người rất khó khăn nhưng công bằng, người biết tin dùng các sĩ quan có tài năng, và người ta còn rỉ tai nhau rằng thỉnh thoảng ông ta cũng uống tí uých ki chơi.

Khi ông Riddle thực hiện lời hứa của mình với ông Banks, là đúng vào một hôm trời đầy sương mù và mưa bụi - dân địa phương gọi là "mờ mịt". Cách đây mấy năm, tất cả những vụ điều tra tội phạm nghiêm trọng nào mà Thanh tra Grithorpe, Trung sĩ thám tử Hatchley và bất kỳ sĩ quan thám tử nào ở trong Ban đầu não phân đội Eastvale lúc bấy giờ không thể tìm ra manh mối được, thì chuyển sang cho các phân đội khác, hay là đưa đến cho đội điều tra tội phạm khu vực giải quyết, còn Banks thì vẫn được tự do chăm lo công việc giấy tờ và quản trị.

Từ khi ông ban cho Riddle một đặc ân là đem Emily về nhà, từ khi có những thay đổi lớn trong ngành cảnh sát điều tra, và từ khi ông chấm dứt hẳn với Sandra, ý nghĩ rời bỏ ngôi nhà nhỏ ở Gratly để bắt đầu công việc mới ở cơ quan điều tra tội phạm quốc gia mất hết ý nghĩa, và Banks đã lấy lại đơn xin thuyên chuyển. Ông cảm thấy Eastvale là địa bàn lý tưởng cho ông hoạt động, ông muốn ở lại đây.

Mặc dù trời mưa phùn và bầu trời âm u xám xịt, nhưng Banks vẫn cảm thấy lạc quan yêu đời. Ông đang đọc tờ báo cáo cho biết việc xe hơi bị mất trộm ở các khu vực nông thôn bỗng đột ngột gia tăng, và ông thấy cần nghĩ ngơi một lát, ông bèn đến đứng bên cánh cửa sổ để hút điếu thuốc bị cấm không cho hút, và đưa mắt nhìn xuống khu chợ vào buổi xế chiều.

Các nhân viên mới được bổ nhiệm qua việc cải tổ đều im lặng làm việc, rõ ràng họ đang vạch kế hoạch tấn công bọn tội phạm sắp đến. Chiếc máy radio của Banks đang hoạt động ở phía sau, đang chơi bài hòa âm dương cầm số ba của Pokefiev. Ánh đèn Giáng sinh ở Eastvale, đã được nhân viên đài truyền hình địa phương cho thắp sáng vào trung tuần tháng 11 đến giờ, đã được bật sáng rất đẹp ở ngoài cửa sổ, dãy đèn bắt ngang qua đường ở phố chợ và bắt qua quãng trường như một tấm lưới ngọc ngà sáng sủa. Chắc họ sắp dựng lên một cây Giáng sinh khổng lồ ở ngã tư chợ, ban nhạc nhà thờ sẽ hát những bài thánh ca vào giờ ăn trưa và vào đầu hôm, để quyên tiền từ thiện.

Brian cho biết thế nào anh cũng bận bịu với ban nhạc trong những ngày lễ, nhưng Tracy hôm trước đã điện thoại đề nghị cô ta sẽ đến nghỉ lễ Giáng sinh với bố trước khi đi Luân Đôn để thăm mẹ vào ngày Quyền Anh. Banks không thiết tha gì đến mùa Giáng sinh - vì trong các ngày mùa lễ ông thường bận nhiều việc, có nhiều vụ tự tử và giết người xảy ra - nhưng năm nay ông cần phải ăn mừng; ông định sẽ mua một cây Giáng sinh nhỏ, mua quà, trang hoàng nhà cửa, nấu bữa ăn Giáng sinh.

Năm ngoái mùa Giáng sinh rất buồn thảm. Ông đã từ chối tất cả lời mời của bạn bè và đồng nghiệp khi họ mời ông đến dự tiệc với họ, ông sống cô độc một mình trong ngôi nhà song lập mà ông và Sandra đã ở với nhau, ông khổ sở vì phải trả trợ cấp cho vợ mới ly thân, nên chỉ được ăn mừng Giáng sinh một mình với chai uých ki. 

Dĩ nhiên, Brian và Tracy có điện thoại đến, nhưng không làm sao đánh tan được nỗi khổ tâm. Năm nay chắc là phải khác. Ông nhớ Delia Smith; có lẽ ông phải đến tiệm sách Waterstone mua cuốn sách ấy trước khi về nhà. Chuông điện thoại reo, ông quay về bàn làm việc.

- Banks nghe đây.

- Chánh thanh tra Banks phải không? Tôi là Collaton, Thanh tra cảnh sát Collaton. Tôi gọi từ Market Harborough, ở Sở cảnh sát Leicestershire. Tôi vừa gọi đến phòng chỉ huy cảnh sát ở hạt ông và họ chuyển tôi qua cho ông.

- Tôi có thể làm gì cho anh?

- Sáng sớm hôm nay có một người đi xe gắn máy dừng lại bên vệ đường ở gần đây, bước vào con đường nhỏ để tiểu tiện. Anh ta tìm thấy một xác chết.

- Nói tiếp đi! - Banks nói, gõ cây bút lên mặt bàn, lòng phân vân không biết chuyện này có liên hệ gì không.

- Vụ này thuộc của ông đấy. Tôi nghĩ ông cần biết.

- Vụ gì mà lại của tôi?

- Bọn vô lại ở địa phương của ông. Thằng này tên là Charlie Courage. Xem như đây là vụ thanh toán nhau thì phải. Hắn ở tại số 17 đường Cutpurse Lane, Eastvale. - Anh ta cười: - Theo hồ sơ của hắn thì có thể địa chỉ này không chính xác.

Lạy chúa Giêsu, thằng Charlie Courage à! Những thằng bạn thân của hắn thường gọi đùa hắn là dân Hà Lan, vì hắn thường tỏ ra can đảm khi uống rượu. Charlie Courage là một cái gai trước mắt Phân đội điều tra ở Eastvale từ nhiều năm nay. Thực ra thì hắn là đồ vô lại tép riu, chỉ là tay đánh bạc nhỏ, nhưng sống trong Eastvale, hắn quả là con cá lớn trong hồ nước nhỏ. 

Charlie Courage làm đủ thứ - ngoại trừ những việc có liên quan đến bạo lực và tình dục - từ ăn cắp vặt cho đến ăn trộm cừu. Người ta phải cho hắn một kỳ hạn; hắn là người có cá tính. Hai ba năm về trước, hắn thường có một sạp hàng của hắn nằm ngay dưới trạm cảnh sát, nơi hắn thản nhiên bán máy video và đĩa CD, mà xem ra như là toàn hàng "rơi từ sau xe tải xuống". 

Có một lần Banks vào hỏi hắn về một vụ trộm tại địa phương, ông đã mua của hắn một đĩa CD âm nhạc cổ điển nổi tiếng, đĩa Electron Miner Mass của Mozart với giá 3 đô la 99. Giá rẻ đến một nửa. Ông không hỏi hắn hàng từ đâu ra. Để được làm ăn yên ổn, Charlie hợp tác với cảnh sát, đưa tin cho cảnh sát về một số vụ trộm cắp. Người ta nói với nhau rằng bây giờ hắn đã làm ăn ngay thẳng.

- Chắc ông đã nghe về hắn rồi chứ? - Collaton hỏi.

- Tôi có nghe về hắn. Chuyện gì xảy ra thế?

- Bị bắn. Vũ khí bắn hắn thuộc loại súng ngắn. Dù sao vụ này cũng đã gây nhiều xôn xao.

- Có thể đó là tai nạn, hay tự tử không?

- Không thể được, vì nạn nhân không thể tự bắn vào ngực mình rồi sau khi đã chết lại đứng lên để đem súng đi giấu. Chúng tôi không tìm thấy khẩu súng ở đâu hết.

- Anh có chắc đó là Charlie không? Hắn làm quái gì mà xuống tận đó? Charlie không bao giờ ra khỏi giáo phận của hắn mà.

- Tôi nghĩ chúng tôi chưa có thể làm sáng tỏ chuyện này được. Nhưng rõ ràng là chính hắn. Tôi đã lấy dấu tay, dấu tay đúng y giấy căn cước của hắn. Hình như cách đây hai năm hắn có liên can đến một vụ trộm cừu. Tôi có nghe chuyện ông phát hiện ra vụ trộm cừu này ở trên ấy. Nghe nói vụ này chưa thể công bố được phải không?

Banks cười:

- Thực ra là vụ trộm cừu đấy chứ. Vụ trộm này cũng khá lớn. Chắc anh còn nhớ. Còn về chuyện khác, tôi không thể nói tôi biết rõ Charlie làm gì trong lúc hắn rảnh rỗi. Theo chỗ tôi biết thì hắn sống độc thân, cho nên hắn cần giải trí. Còn gì cần nói nữa không?

- Không còn gì nhiều. Tôi kiểm tra thì biết hắn không có bà con cật ruột còn sống.

- Nghe Charlie đến đấy. Tôi không ngờ hắn bị thế.

- Nhưng dù sao tôi cũng yêu cầu ông đến lục soát nhà hắn xem sao, nếu ông giúp được, để xem thử có gì trong ấy không. Giúp nhân viên của tôi nhẹ bớt công việc. Tôi sẽ phái nhân viên đến đấy.

- Đương nhiên là được. Tôi sẽ đến xem. Còn xe của hắn là xe gì?

- Không có xe gì hết. Có lẽ sáng mai xin mời ông xuống đây, xem hiện trường và cho ít ý kiến về vụ này, được không? Tôi có cảm giác nếu có sự giúp đỡ của ông, thế nào chúng ta cũng có câu trả lời thích đáng, sẽ phát hiện ra được vụ việc. Nhân tiện để ông biết kết quả của việc xét nghiệm tử thi vào chiều mai luôn.

- Được rồi. - Banks đáp: - Bây giờ tôi sẽ đi khám xét quanh chỗ ở của Charlie, rồi sau đó tổ chức điều tra lục soát cho đầy đủ hơn. Nếu hắn chết rồi, tôi khỏi lo về việc tống đạt trát bắt. Sáng mai tôi sẽ lái xe xuống đó.

Banks lắng nghe Collaton hướng dẫn đến trạm cảnh sát ở Market Harborough. Máy vừa cúp, ông liền đi vào văn phòng chính của Phân đội điều tra tội phạm. Từ khi tổ chức lại cơ cấu, văn phòng có ba sĩ quan thám tử mới và hứa hẹn sẽ có thêm ba người nữa. 

Sĩ quan thám tử Gavin Ricker là một thanh niên thường mặc áo khoác có mũ trùm đầu nên rất khó nhận diện. Banks nghĩ chắc anh ta đã được huấn luyện công việc điều tra rất kĩ. Kevin Templeton có trực giác nhạy bén hơn, là loại người đa năng, rất hòa nhã với mọi người, nhất là với người trẻ.

Nhân viên thứ ba là sĩ quan thám tử Winsome Jackman, cô ta từ một ngôi làng ở vùng núi Cocpit đến, vùng núi cao trên vịnh Montego, Jamaica. Nguyên nhân nào khiến cô ta rời quê hương để đến vùng Bắc Yorkshire, với thời tiết bất định trong mùa hè và khắc nghiệt trong mùa đông này, thì Banks không làm sao hiểu nổi. Nhưng xét về mặt thực tiễn thì ông nghĩ rằng, một làng trên vùng núi cao ở Jamaica có lẽ không phải là nơi thích hợp cho một thiếu nữ thông minh xinh đẹp như Winsome làm nên sự việc.

Còn có lý do tại sao cô không đi làm người mẫu thay vì tham gia lực lượng cảnh sát, Banks cũng mù tịt luôn. Cô ta có vóc dáng để làm cảnh sát, khuôn mặt mang nét hậu duệ của bộ tộc Maroon với xương gò má cao và nước da đen bóng như gỗ mun. Có lẽ cô ta dư sức địch nổi với người mẫu da đen Naomi Campbell để làm giàu, và theo những gì Banks đọc thấy trong báo chí viết về siêu người mẫu, thì Winsome đủ sức để làm người mẫu. 

Một vài bạn đồng nghiệp gọi cô là "Để sổng mồi" vì có lần, khi mặc đồng phục cảnh sát, cô rượt bắt một tên cướp giật trong một trung tâm thương mại, cô đã để cho nó vùng thoát khỏi tay cô và chạy trốn. Cô làm thế cũng vì do bản tính cô tốt mà thôi. Khi bạn là người phụ nữ da đen duy nhất trong phân đội thì chắc bạn cũng phải thế thôi.

Khi Banks đi vào văn phòng, hóa ra mọi người trong văn phòng đã đi đâu hết, chỉ còn lại hai người, đó là Kevin Templeton và Annie, cô ta ngước mắt lên khỏi máy vi tính và nhìn ông.

- Chào buổi chiều, - cô nói, miệng cười tươi. Annie có nụ cười rất đặc biệt. Nhếch cao mép bên phải nơi có cái nốt ruồi nhỏ tiếp theo là đôi mắt hình trái hạnh đào vụt sáng lên, rất hấp dẫn. Banks cảm thấy lòng xao xuyến. Lạy Chúa, ông hi vọng họ làm chung việc với nhau không có gì quá khó khăn.

- Đề nghị cô đến điều tra một thằng côn đồ ở địa phương có tên Charlie Courage, - ông nói. Rồi bỗng ông nói thêm như vừa nảy ra một ý trong óc: - Ngày mai đi Market Harrborough được chứ? - Ông nín thở sau khi vừa thốt ra những lời trên, như muốn rút lui câu vừa nói.

- Sao lại không? - Cô đáp sau một phút ngần ngừ: - Một chuyến đi nghỉ giải lao tuyệt vời.

- Có nhiều việc cần làm không?

- Có việc gì mà các bạn ở đây không làm được đâu.

Kevin Templeton từ trong góc phòng lên tiếng càu nhàu nói:

- Được rồi. Tôi sẽ làm thay cô ở đây lúc 9 giờ.

Về lại văn phòng của mình, Banks hi vọng Annie sẽ làm việc tốt. Ông thích làm việc với các nữ thám tử, ông vẫn còn nhớ người sĩ quan thám tử nữ, cô Susan Gay, ông nhớ cô ta có tính không kiên định và nóng nảy. Trước đây, khi làm việc với Annie, ông đánh giá rất cao tài phán đoán của cô, và khả năng phối hợp sự lý luận và trực giác vào lối suy đoán rất độc đáo của mình. Ông cũng rất thích đụng chạm cô, thích nụ cười cởi mở của cô, nhưng đây là vấn đề khác, một vấn đề mà ông không thể để mình quá chú tâm đến. Có phải không?

Ông rời khỏi văn phòng với tâm trạng phấn khởi. Bây giờ ông Riddle đã giữ đúng lời hứa rồi, cuối cùng Banks đã có cơ hội để thi thố tài năng. Dĩ nhiên người gọi ông chính là Thanh tra cảnh sát Collaton, nhưng Collaton gọi để yêu cầu ông giúp điều tra tội phạm, việc này khiến cho Banks nghĩ rằng anh ta không muốn mất quá nhiều thì giờ đi xa để tìm ra nguồn gốc của kẻ phạm tội ở vùng Yorkshire buồn tẻ này, nhất là lễ Giáng sinh đang đến gần. 

Tốt, thế là tuyệt cho mình, Banks nghĩ. Hợp tác giữa các lực lượng cảnh sát với nhau. Anh ta mất thì Banks được.

*

* *

Khi Banks dừng xe sau một chiếc xe Metro màu xanh đậu trước ngôi nhà trông xuềnh xoàng của Charlie Courage thì trời đã quá 5 giờ. Cutpurse Lane là một khu chật chội, gồm nhà cửa nối đuôi nhau nằm phía sau trung tâm thương mại. Nhà cửa phần lớn xây cất từ thế kỷ 18, những ngôi nhà tồi tàn có phòng vệ sinh phía sau và không có vườn phía trước. Trong thời gian nổi lên cơn sốt đi tìm "đồ nữ trang" cách đây mấy năm, một số những cặp vợ chồng trẻ đến mua nhà ở Cutpurse Lane rồi lắp đặt phòng tắm và ráp cửa sổ lồi trên mái.

Theo chỗ Banks biết thì Charlie Courage đã ở tại đây nhiều năm rồi. Mặc dù Charlie đã làm ra tiền một cách phi pháp, nhưng hắn đã không dùng tiền để cải thiện điều kiện sống. Đây là một căn bệnh mà Banks đã thấy ở nhiều tên lưu manh có lợi tức còn nhiều hơn cả Charlie nữa. Thậm chí ông còn biết tên một tội phạm nổi tiếng mà hàng năm hắn có thể kiếm được những số tiền kếch xù một cách dễ dàng, thế mà hắn chỉ sống trên mức nghèo khổ một chút của đám dân nghèo ở East End. 

Ông tự hỏi không biết chúng đã dùng số tiền trộm cắp kia để làm gì, ngoại trừ chỉ tiêu vào thói quen dùng ma túy. Phải chăng chúng đã cho các cơ quan từ thiện? Phải chăng chúng dùng để mua cho cha mẹ chúng những ngôi nhà đẹp đẽ như họ đã mơ ước? Người ta có những thứ dành ưu tiên rất kỳ lạ. Thế nhưng, Charlie Courage không nghiện ma túy, không cho các cơ quan từ thiện, và cũng không có bà con cật ruột còn sống. Thật là bí mật.

Thoạt tiên, Banks gõ cửa nhà một người hàng xóm, một người đàn ông thấp mập ra mở cửa, ông ta mặc chiếc áo thun nhàu nhò cổ hình chữ V, ông ta nhìn với thái độ dữ dằn giống như Hitler, giống cả bộ râu mép nhỏ và ánh mắt điên dại. Ông ta đứng ở ngưỡng cửa, Banks nghe có tiếng máy truyền hình phát ra từ phía sau lưng ông ta.

Banks chìa thẻ cảnh sát cho ông ta thấy. Người đàn ông nói:

- Tôi là Knightley. Kenneth Knightley. Mời ông vào kẻo đứng ngoài trời mưa. - Banks đi vào theo lời mời của ông ta. Mưa phùn là loại mưa ngấm rất nhanh qua áo mưa vào da thịt và lạnh thấu xương.

Banks theo ông ta vào trong phòng khách nhỏ, sạch sẽ, có giấy dán tường trang trí hoa hồng và hai bức tranh vẽ cảnh địa phương lồng khung treo trên bệ lò sưởi lót gạch men. Banks nhận ra một bức vẽ cảnh Thác Gratly Falls, phần nằm ngay phía ngoài ngôi nhà của ông, và một bức vẽ bằng màu nước với bút pháp phóng túng, cảnh điêu tàn của tu viện Devraulx, về phía Lyndgarth. 

Lửa trong lò cháy phần phật, làm cho căn phòng quá nóng, rất hợp với sở thích của Banks. Ông cảm thấy mùi hơi nước đang bốc lên từ chiếc áo mưa của mình.

- Tôi muốn hỏi về người hàng xóm của ông, Charles Courage, - ông nói. - Lần ông gặp anh ta mới đây nhất là khi nào?

- Tôi không tiếp xúc nhiều với anh ta, - Knightley đáp - chỉ chào anh ta thôi. Anh ta rất kín đáo, và xin thú thật với ông, từ ngày Edie mất, tôi không hề giao tiếp bạn bè. - Ông ta cười. - Tuy nhiên, Edie không ưa anh ta. Bà ấy cho rằng anh ta là người bất chính. Mà tại sao? Chuyện gì xảy ra thế?

- Tôi nghe Courage chết rồi. Nghe đâu anh ta bị giết chết.

Knightley tái mặt.

- Bị giết? Ở đâu? Không...

- Không, không phải chết ở nhà. Chết ở một chỗ xa đây. Tận miệt Leicester.

- Leicester à? Nhưng anh ta không bao giờ đi đâu hết kia mà. Có một lần tôi nói chuyện với anh ta, tôi nhớ anh ta có nói không bao giờ anh ta đi Torremolios hay Alicante để nghỉ lễ. Yorkshire là đủ cho anh ta rồi. Charlie không thích xứ lạ hay người ngoại quốc, và nơi xa nhất anh ta đến là Ripon.

Banks cười.

- Tôi đã gặp ít người như thế. Nhưng không biết sao bây giờ anh ta lại đến Leicester. Và chết ở đấy.

- Vậy thì có lẽ có ai đấy đã giết anh ta rồi. Đến tận Lescester. - Knightley ngừng lại, đưa tay vuốt lông mày: - Xin lỗi, chúng ta không nên xem nhẹ việc này. Dù sao thì cũng là chuyện người chết. Nhưng chắc tôi không giúp gì cho ông được.

- Ông đã nói ông gặp anh ta lần cuối cách đây hai hôm. Ông nói có chính xác không?

- Để xem nào. Lúc ấy là vào xế trưa ngày chủ nhật. Chắc là đúng thế, vì lúc ấy tôi mới từ vùng Cây Sồi về. Vào chủ nhật tôi thường đến đấy vào giờ ăn trưa để chơi đômino.

- Lúc ấy là mấy giờ?

- Vào lúc hai giờ. Tôi không làm gì được với giờ giấc mới bây giờ, lúc nào cũng ồn ào náo nhiệt cả ngày. Tôi tuân thủ theo giờ giấc cũ thôi.

- Trông anh ta như thế nào?

- Như mọi khi, rất quỷ quyệt, gian xảo. Chỉ nói "chào" rồi hết.

- Gian xảo à?

- Hắn luôn có vẻ gian xảo. Như thể hắn vừa mới làm cái gì phi pháp xong và không biết hắn đã đem thứ gì phi pháp ấy đi đâu nữa.

- Tôi hiểu ý ông rồi, - Banks nói. Charlie Courage thường làm điều phi pháp. - Cho nên không có gì lạ lùng, khác thường về tác phong đạo đức của hắn hết.

- Đúng thế, không có gì lạ lùng.

- Hắn ở một mình phải không?

- Tôi thấy thế.

- Đến hay đi?

- Ông nói sao?

- Ông thấy hắn về nhà hay đi?

- Ông nói sao?

- Ông thấy hắn về nhà hay đi?

- Ồ tôi hiểu rồi, hắn ra đi.

- Đi xe hơi à?

- Phải rồi. Hắn có chiếc xe Metro màu xanh. Thông thường thì... khoan đã... - Knightley đứng dậy, đi đến màn cửa, ông ta kéo màn hở ra một tí rồi chỉ ra ngoài, nói: - Đấy, xe anh ta đấy, đậu ở ngoài trời đó.

Banks đã thấy chiếc xe đậu trước nhà hắn, ông đã nghĩ đấy là xe của hắn ta.

- Không. Tôi rất tiếc là tôi không thể giúp được gì nhiều. Như tôi đã nói, không có gì bất thường hết. Hắn đi làm việc, rồi về nhà. Lặng lẽ như một con chuột.

- Làm việc à? Charlie đi làm việc à?

- Ồ, phải. Ông không biết sao? Anh ta làm gác đêm ở trung tâm thương mại mới phía đường Ripon. Tôi nghe trung tâm này có tên là Daleview.

- Tôi biết trung tâm này.

Trung tâm thương mại. Lại thêm một chi tiết nữa vào danh sách dài ghi những chuyện tréo cẳng ngỗng, cùng với tin tình báo quân đội. Dù sao thì đây cũng là một tin hấp dẫn: Charlie Courage có việc làm. Làm gác đêm, tuyệt đấy chứ. Banks phân vân không biết người chủ thuê hắn có biết rõ tiền sử của hắn không. Thật đáng lưu tâm đến chi tiết này.

- Ông còn chi tiết gì nữa để giúp tôi không. Ông Knightley?

- Chắc không còn gì nữa. Và cũng chả cần nói Bà Ford ở bên kia đường làm gì. Bà ấy điếc đặc cán mai.

- Không biết ông có chìa khóa nhà Courage không?

- Chìa khóa à? Không. Như tôi đã nói, chúng tôi không bao giờ tiếp xúc ngoài việc chào hỏi xã giao.

Banks đứng dậy.

- Tôi đi xem quanh nhà một lát. Nếu không có khóa, chắc tôi phải phá cửa để vào, cho nên nếu ông nghe có tiếng động ở cửa nhà bên cạnh, ông chớ lo.

Knightley gật đầu.

- Được rồi. Được, ông cứ tự nhiên. Charlie Courage. Bị giết chết. Thật kinh khủng, ai giết hắn nhỉ?

Banks đi quanh ra phía sau dãy nhà để xem thử có lối nào vào nhà Charlie không. Một con đường cao và cổng nhà bằng gỗ. Vài bức tường có gắn kính vỡ ở trên mặt tường, và có vài cánh cổng bị long lề. Banks tháo chốt cổng nhà Charlie, đẩy cổng ra. Cánh cổng bị trầy nhiều nơi, nước sơn màu lục đã phai và một bản lề rỉ sét bị gãy, khiến khi mở cửa, cánh cổng cà mạnh trên đá lát. Sân sau không rộng, phần lớn bị nước dơ đọng lại trên mặt sân, và nước bùn ngập vào giày ông. Theo thói quen, trước hết ông vặn nắm cửa.

Cánh cửa mở ra.

Lúc Banks đi vào bên trong ngôi nhà tối tăm, ông nghĩ trước khi bị bắt đi có lẽ Charlie không có thì giờ khóa cửa. Ông tìm ra nút đèn trên tường ở bên phải, ông bật đèn lên. Ông đang ở trong nhà bếp. Không có gì ngoài một chồng dĩa dơ chưa rửa. Chắc bây giờ không ai rửa chúng nữa.

Ông vào phòng khách, căn phòng nhỏ hẹp và không thấy có dấu vết gì khả nghi ngoài cái máy truyền hình có vẻ còn mới và bộ máy hát DVD, lương một người gác đêm không làm sao mua nổi những thứ như thế này. Banks đã từng nghĩ Charlie làm ra tiền nhiều. Ông lên lầu.

Có hai phòng ngủ nhỏ, một phòng tắm với bồn tắm dơ bẩn và phòng WC nhỏ xíu với tờ tạp chí khiêu dâm Playboy trên nền nhà và tập The Carpetbaggers (Người ứng cử ngoài địa hạt) của Harold Robbins để trên cuộn giấy vệ sinh. Một phòng ngủ trống, không ngoại trừ vài thùng giấy chứa đầy tạp chí - hầu hết là tạp chí khiêu dâm sơ sơ - và sách bìa mỏng đã cũ. Còn phòng ngủ kia, phòng của Charlie, cho thấy giường chưa làm lại ngay ngắn, trên giường có một ít áo quần.

Ở tầng dưới, Banks tìm thấy trong một hộc tủ đựng các thứ quan trọng. Giấy chủ quyền ngôi nhà, bằng lái xe của Charlie, một tập ngân phiếu, và một cuốn sổ gởi tiền ngân hàng cho thấy Charlie trong tháng vừa qua đã gởi ngân hàng năm lần, mỗi lần 200 bảng Anh, ngoài ra, bên cạnh số giấy tờ này, còn có các giấy tờ như là chi phiếu hàng ngày của hắn. Một ngàn bảng Anh. Hấp dẫn đấy chứ, Banks nghĩ. Ít ra việc này cũng giải thích được tại sao hắn có TV mới và máy DVD. Con quỷ lưu manh này làm gì có nhiều tiền như thế này? Và phải chăng vì thế mà hắn bị giết?

* *

Sáng thứ Tư trời cũng mờ mịt buồn thảm như sáng thứ Ba. Khi Banks lái xe vào Eastvale, trời vẫn còn tối, ông uống cà phê đen nóng nơi cái ly được sáng chế đặc biệt để mang đi đường. Khi ông vào văn phòng thì các sĩ quan thanh tra cảnh sát đã có mặt ở đây rồi, chỉ có mình Trung sĩ thám tử Hatchley là có vẻ rầu rĩ vì không được tham dự chuyến đi đến Leicester. 

Hay có lẽ anh ta ghen với Annie, vì Banks đang cố cho cô ta đi theo. Anh ta nhìn Banks với ánh mắt gay gắt, thất vọng của một thuộc cấp bị lép vế, một trung sĩ quèn thì làm gì được? Giá mà ông thông cảm cho anh. Khi tất cả mọi người ra bãi đậu xe, Annie hỏi Banks:

- Chắc anh lái xe chứ?

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3