Hồ - Chương 04

“Chihiro, về thôi chứ?”

Sayuri lên tiếng. Cô chính là người đã đem dự án tranh tường lần này đến cho tôi. Hình như tiết dạy dương cầm của cô vừa kết thúc. Lúc này là khoảng thời gian nghỉ giải lao trước khi bọn trẻ lại ùa tới vào cuối buổi chiều.

Tham gia vào nhịp sống thường nhật của mọi người theo cách này thú vị như đi du lịch vậy.

“Tớ xong rồi, hay là bọn mình đi uống gì đi?” Tôi đề nghị.

“Tớ sợ không có nhiều thời gian đến thế.” Sayuri nói, tôi bèn đưa cho cô một trong hai lon cà phê mua từ trước.

“Cậu vẫn để ý đến anh chàng đó à? Cái anh chàng dị thường, gầy nhẳng, đang theo học tại một trường đại học danh giá gì đó.” Sayuri hỏi.

“Phải đấy, lần trước tớ đã kể rồi còn gì? Hắn tên là Nakajima. Đúng ra thì không còn là để ý nữa mà có lẽ đã bước ở vào giai đoạn hẹn hò rồi.”

“Cậu ta học ngành gì ấy nhỉ?”

“Thấy bảo nghiên cứu về nhiễm sắc thể, nhưng cụ thể là làm gì thì tớ mù tịt. Hắn đang viết luận văn, cái gì như là ‘Nghiên cứu hội chứng Down bằng phương pháp cấy nhiễm sắc thể 21 ở người…’, nhưng khó lắm, nghe giải thích mãi mà không hiểu. Đã thế hắn lại viết bằng tiếng Anh, thành thử có muốn đọc trộm cũng đành chịu.”

“Đúng là khó nhỉ, đến nhan đề cũng còn không nhớ nổi nữa là. Điều duy nhất mà tớ hiểu là cái câu cậu bảo cậu không hiểu. Nhưng kể cũng lạ, không hiểu gì về cái cậu ta cho là quan trọng nhất, vậy mà quan hệ hai người vẫn cứ tiến triển nhỉ.”

“Thế đấy, giá mà là những ngành như nhân học văn hóa, dân gian học, hoặc văn học Pháp thì ít ra còn được.”

“Ờ, như thế thì ít nhiều vẫn còn hiểu được.”

“Không hiểu đôi khi lại tốt. Hiện giờ với tớ, mỗi ngày đều có vẻ rất ổn. Tớ chưa bao giờ thấy lòng mình yên bình đến thế.” Tôi nói. “Lắng dịu, yên tĩnh, nhưng lại có gì đó dữ dội, tựa như đang ở dưới nước vậy. Mọi thứ trần tục đều khuất xa dần. Tớ không nghĩ quan hệ của bọn tớ tới đây sẽ có gì bùng nổ, nhưng cũng không tính đến việc chia tay.”

“Mới quen nhau ít lâu mà đã đạt đến cảnh giới đó rồi ư!” Sayuri cười.

Tôi nói:

“Chưa bao giờ hỏi, nhưng tớ biết một điều rằng ngày xưa hắn đã gặp phải chuyện gì khủng khiếp lắm. Cậu biết đấy, chỉ cần ở cạnh nhau là có thể cảm nhận được thôi mà. Bởi vậy, tớ luôn cố gắng để không vội vàng, nhưng thành ra lại chìm nghỉm đi mất. Hay là tớ nên làm gì đó, chẳng hạn như ép hắn phải kể?”

“Cần gì chứ? Nếu cậu cảm thấy ổn. Chỉ mong sao đấy không phải những chuyện chẳng ra gì như phạm tội, trốn nợ hay phá sản này nọ. Mà cho dù thế cũng chẳng sao, miễn là nó đừng trở thành vấn đề trong hiện tại.”

“Không, xét từ tính cách con người hắn, tớ nghĩ chắc là không có những chuyện như vậy. Biết đâu lại chẳng có gì hết cũng nên. Tớ chỉ nghe hắn kể rằng hắn rất gắn bó với mẹ, nên khi mẹ mất đi hắn bị sốc nặng, nhưng tớ cảm thấy còn có một tổn thương sâu sắc hơn trong hắn chứ không chỉ có thế.”

“Nếu vậy thì mong sao chuyện đó đừng gây ra điều gì khủng khiếp bên trong cậu ta.”

“Tớ cảm nhận được sự khủng khiếp ấy, nhưng cầu mong là nó không nghiêm trọng đến mức không thể sống tiếp được nữa. Dù sao thì hắn cũng vẫn đang sống cho tới thời điểm này. Vả lại, cứ âm thầm mà sống thì chắc sẽ không sao.”

Tôi nói với giọng khẩn cầu. Mong rằng hắn tiếp tục sống.

Tôi luôn không biết phải làm gì với sự khổ sở của Nakajima, điều mà tôi phát hiện ra khi ở cùng hắn. Tôi biết một Nakajima vừa la hét vừa bật dậy và run rẩy lúc nửa đêm; một Nakajima vã mồ hôi ở chốn đông người; một Nakajima hễ cứ nghe một bản nhạc mặc định nào đó là đau đầu; một Nakajima kể rằng suốt một thời gian dài từ khi mẹ mất, hắn chỉ muốn sớm đi theo mẹ. Những điều này tôi dần nhận ra khi ở cùng hắn, tuy là những mảnh ghép rời rạc.

Có dương chắc chắn phải có âm. Ánh sáng mà lớn thì bóng tối đối lập với nó cũng lớn. Tôi cảm thấy Nakajima, như một sinh vật trong truyền thuyết, không thể tự kiểm soát được sức mạnh của chính mình.

Sayuri nói:

“Do đặc thù công việc, tớ đã từng gặp rất nhiều đứa trẻ đáng thương. Không kể những trường hợp có tính cách tàn nhẫn bẩm sinh, chứng rối loạn tâm thần do tổn thương thực thể não thì nhiều nhất vẫn là do vấn đề của cha mẹ. Tớ cũng thường chứng kiến những cuộc đời được làm lại sau khi một cái gì đó, có thể chỉ là một phần rất nhỏ, bị tê liệt hoặc hủy hoại vì cha mẹ lũ trẻ có vấn đề trong thời kỳ chúng còn thơ dại. Đúng là có những nỗi khủng khiếp ăn sâu bên trong chứ không chỉ khơi khơi bên ngoài. Sự hủy hoại nhân cách thì lại muôn hình muôn vẻ và phức tạp nên cũng chẳng có cách nào giải quyết. Cũng may là tớ dạy đàn piano, chứ làm giáo viên mầm non thì sẽ phải tiếp xúc với cha mẹ lũ trẻ, mà như thế thì tớ cảm thấy nhàm chán vô cùng. Thời buổi này thực sự có quá nhiều gia đình bị hủy hoại theo những cách hết sức lạ lùng. Cả các ông bố bà mẹ lệch lạc về mặt nhân cách nữa chứ.”

Tôi gật đầu. Chỉ cần có mặt ở nơi vẽ tranh tường, tôi cũng đủ hiểu điều đó. Trong nhiều người đến tham gia, có cả những ông bố bà mẹ và những đứa con mà thời xưa không bao giờ có. Những linh cảm mách bảo tôi rằng Nakajima không thuộc vào số ấy.

“Chắc chắn hắn không phải một người bình thường, nhưng chắc chắn cũng không có gì phức tạp. Hẳn là đã có một sự kiện hệ trọng nào đó trong quá khứ của hắn. Tuy nhiên đối với trường hợp của hắn, tớ biết dù rằng bố mẹ hắn từng ly hôn nhưng hình như không phải do mâu thuẫn nặng nề, vả chăng tình yêu của mẹ hắn rất mãnh liệt. Tóm lại, xem chừng chẳng có gì đặc biệt xảy ra với hắn cũng như hắn không có ấn tượng bất thường nào về vấn đề của bố mẹ. Đấy là theo những câu chuyện chắp nối tớ nghe được. Nói gì thì nói, hơn hết cả, hắn là một người tốt tự đáy lòng… Chỉ hiềm, tớ phải nhắc lại, riêng điều này thì tớ biết, rằng đã có một cái gì đó rất dữ dội xảy đến với hắn.”

“Chẳng hạn cái gì?”

“Chẳng hạn bị bắt cóc hoặc bị kẻ nào đó ngược đãi tình dục, đại loại thế.”

Khi nghe chính mình nói vậy, có điều gì đó bỗng trở nên rất sáng tỏ trong tôi.

Đôi khi vẫn xảy ra những việc như thế. Tự mình nói ra, rồi tự mình bị thuyết phục. Tôi chợt hiểu, ở đó đã có sẵn cái gần giống với câu trả lời. Nhất định là như thế. Nhưng dù sao tôi vẫn phải tiếp tục câu chuyện.

“Hơn nữa, hắn lại rất khác thường, nói như thế nào nhỉ, kiểu như luôn lánh xa phù trần. Hay nói đúng hơn, ở hắn có một vẻ siêu việt. Cứ cho là chưa từng có chuyện gì xảy ra với hắn, thì tớ vẫn cảm thấy tư chất ấy đã tiềm tàng sẵn trong con người hắn rồi. Dù sao cũng không vội, tớ sẽ chờ xem thế nào. Bọn tớ đều là kiểu người phải mất nhiều thời gian để quen nhau, cũng như để nghe được câu chuyện của nhau hoặc để làm bất cứ điều gì khác.”

Trong lúc nói, tôi dần nhận ra rằng không phải mình không suy nghĩ một cách nghiêm túc về chuyện của Nakajima. Tâm trạng vừa như muốn biết, vừa như không muốn biết.

Chính vì vậy mà tôi cảm nhận được. Rất có thể bản thân tôi đang bắt đầu một quyết định thực sự.

Có thể tôi đang thích, không biết tự bao giờ, nhưng có thể tôi đang thích hắn rất nhiều. Có thể lần đầu tiên trong đời tôi đang thích một chàng trai với tư cách một cô gái theo đúng nghĩa, chứ không phải chơi bời.

Tôi nhận ra điều đó bởi lẽ sự thận trọng của tôi thật giống cung cách của mẹ đối với bố.

Càng yêu bao nhiêu càng thận trọng bấy nhiêu cũng là đặc trưng của mẹ.

“Thế còn tiền? Cậu ta có tiền chứ?”

“Có. Hắn bảo cha hắn sẽ chu cấp cho tới khi hắn hoàn thành chương trình tiến sĩ, vả lại hình như mẹ hắn cũng có tài sản để lại. Hiện giờ hắn vẫn có một căn hộ riêng, nhưng hắn bảo vì buổi tối ở nhà tớ nên góp chung tiền ăn và tiền điện nước. Tháng nào hắn cũng tính toán một cách cẩn thận, rạch ròi đến phát sợ, rồi đưa tiền đầy đủ cho tớ. Chính xác tới từng giờ, tới từng đồng yên một.”

“Nghĩa là về khoản ấy cậu ta rất sòng phẳng.”

“Đi hỏi cả chuyện này nữa, tớ thấy Sayuri đúng là người lớn rồi đấy.”

“Vậy thì còn vấn đề gì nữa nào? Cậu có thể cứ sống như thế đến hết đời. Cậu ta khác người, nhưng vừa khít với một kẻ khác người như cậu đấy chứ.”

“Ừ, thực tình thì tớ đang nghĩ mình sẽ cứ như thế này tiến tiếp thêm một thời gian.” Tôi nói, nhưng bụng bảo dạ, với điều kiện là có thể tiến tiếp được.

“À mà Sayuri này, chẳng phải cậu bảo gọi tớ tới đây vì có việc muốn nói à?”

“Có đấy, tớ xin lỗi vì bắt cậu lên ti vi cho vụ vẽ tranh tường lần này.”

“À, chuyện ấy thì có gì đâu.”

“Bây giờ cậu thành ra cực kỳ nổi tiếng rồi. Lại được dành hẳn một phóng sự đặc biệt trong chương trình tin tức nữa chứ.” Sayuri nói.

Tôi cười.

“Làm gì mà cực kỳ nổi tiếng cơ chứ.”

“Ở cái thành phố này thì như thế đủ để là người nổi tiếng rồi. Có một vài người cho rằng, khi cậu vẽ tranh tường và việc này thu hút sự chú ý của dư luận thì tòa nhà sẽ không bị phá dỡ.”

“Tớ hiểu.”

“Tớ muốn xin lỗi cậu là vì thực lòng không định lôi kéo cậu vào chuyện này.”

“Sayuri nghĩ thế nào về tòa nhà?”

“Tất nhiên tớ cũng mong nó không bị phá dỡ. Bởi lớp học vỡ lòng có một ý nghĩa rất lớn với cuộc đời tớ. Rất nhiều em đã tới đây học tập trong suốt nhiều năm. Nhưng tớ nhờ đến cậu không phải vì chuyện ấy. Mà bởi lẽ, tớ muốn thấy tranh của Chihiro được vẽ thật to ở nơi tớ làm việc, thế thôi, đó mới là mục đích thực sự. Tớ không định lợi dụng Chihiro, cũng không định bắt cậu phải sáng tạo một tác phẩm mà biết thừa là rồi sẽ biến mất.” Sayuri nói.

Tôi tin những lời này là thật lòng. Vì chúng được Sayuri nói ra. Vì Sayuri đang cụp mắt nhìn xuống để tôi có dịp ngắm kỹ những sợi lông tơ xung quanh vành tai cùng đôi lông mày đậm nét, những chi tiết khiến tôi cảm thấy lời Sayuri nói là thật lòng. Chắc chẵn đã có rất nhiều người đưa ra vô số đề nghị với cô, song Sayuri vẫn âm thầm dành công việc cho tôi.

“Không sao, nếu là về tranh thì tớ có thể tham gia bất cứ cuộc phỏng vấn nào. Còn về những vấn đề ngoài hội họa thì phải xin lỗi vì tớ chẳng biết gì hết.” Tôi nói.

“Cảm ơn cậu. Và tớ cũng thành thật xin lỗi nếu một ngày không xa tòa nhà bị phá bỏ và bức tường không còn nữa. Nhưng tớ sẽ ráng bảo vệ chừng nào còn ở đây.” Sayuri nói.

“Thôi nào, tớ vẽ đâu phải vì muốn để đời. Hơn nữa, chuyện đó mà xảy ra thì cũng không phải do lỗi của Sayuri.”

“Dù thế nào tớ cũng sẽ chụp thật nhiều ảnh và yêu cầu lưu trữ tại trung tâm tư liệu thành phố. Chắc chắn thế.”

Sẽ là nói dối nếu bảo rằng tôi hoàn toàn không muốn tranh mình được lưu trữ. Nhưng càng không thật lòng nếu nói rằng tôi muốn nó được bảo tồn mãi mãi. Chỉ đơn giản là do tôi thích cảm nhận điều mới mỗi ngày và ghi chúng lại dưới dạng một bức tranh khổ lớn. Mong muốn của tôi chỉ có vậy. Xét đến cùng, đó là một thái độ không nghiêm túc.

Thái độ của tôi thì như thế, còn Sayuri luôn luôn nghiêm túc và đối xử với bọn trẻ chân thành đến rụng cả tóc khiến tôi tự thấy ăn năn trong dạ.

Thú thật, với tôi thì thế nào cũng được. Mặc lòng bức tường bị phá bỏ hay tôi bị đánh giá ra sao. Và tôi tin rằng, ngay cả khi lớp học vỡ lòng mất đi, song nếu vẫn còn những người tốt bụng và những người thông minh, thì chắc chắn họ sẽ lại gieo mầm hy vọng.

Có thể tôi sợ cái ý nghĩ cột cứng rằng: “Nhất định phải là như thế.” Tôi lúc nào cũng muốn để mặc mình trôi đi như nước và ngắm nhìn dòng chảy đó mãi không thôi.

Cứ như vậy, mặc dù trong lòng cảm thấy thân thiết, nhưng tôi không có người bạn nào hòa hợp với mình từ sâu tận tâm hồn. Tôi luôn cảm thấy có gì khó lòng với tới.

Thành thử đối với tôi, Nakajima là người bạn đầu tiên trong đời… Tôi có cảm giác ấy. Hắn cực kỳ yếu đuối, nhưng lại chứa đựng trong mình một cái gì thật vững chắc.

Nó khiến tôi như được soi mình trong gương. Để biết bản thân không sai. Và cảm thấy yên tâm.

Hơn nữa, từ trước tới nay, vì không ở gần mẹ nên tôi tưởng như mình đã tự lập, song giờ đây, khi còn lại một mình, tôi mới hiểu mẹ đã là chỗ dựa tinh thần lớn lao biết nhường nào.

Mặc dù không bao giờ hỏi ý kiến mẹ, nhưng tôi sẽ gọi điện để kể những chuyện chẳng đâu vào đâu, hoặc trở về nhà để được nhìn thấy gương mặt mẹ mỗi khi gặp những thay đổi như thế này đây. Khi mẹ không còn nữa, tôi mới nhận ra rằng nhờ vào cách ấy mà tôi có thể quay trở về với trục quỹ đạo của mình… và dù tốt hay xấu thì đó cũng là gốc quy chiếu của tôi. Tôi thậm chí còn không hiểu nổi một điều: gốc quy chiếu ấy đã có từ trước khi tôi chào đời.

Thời thơ ấu, tôi xác định vị trí của mình bằng cách nhìn lại gương mặt mẹ, còn giờ đây, tôi phải tự bản thân xác định điều ấy. Tất nhiên tôi có thể thông qua Nakajima để xác định, nhưng biết đâu chỉ cần tôi rời mắt đi là hắn sẽ biến mất. Về bản chất, hắn khác với sự tuyệt đối của mẹ.

Bởi đã chứng kiến quá tường tận những gì mẹ trải qua trước khi chết, nên giờ đây tôi không thể nhớ lại ánh sáng linh hồn mẹ lúc còn khỏe. Tôi chỉ nhớ được những thứ như hơi thở khó nhọc lúc lâm chung, mùi của một con người đang đi dần về phía cái chết đang tràn ngập trong phòng bệnh. Điều đó gợi lại trong tôi không gì hơn là cảm giác bất lực, rằng mẹ đã phải đau đớn một mình, và mình chẳng thể làm chỗ dựa cho mẹ trong cái thế giới ấy.

Tôi từng đọc một câu trong sách, rằng nếu cố níu kéo người đã mất thì người ấy sẽ không thể siêu thoát, và câu này cứ bám trụ một cách kỳ lạ trong đầu tôi, làm tôi không dám khóc nhiều mà chỉ lặp đi lặp lại những lời cảm ơn đối với mẹ. Giờ đây, tôi chỉ biết tự trách mình đã thật ngu ngốc. Giá tôi cứ khóc thật nhiều. Giá tôi cứ bám chặt lấy quan tài mà khóc tu tu như bố. Giá tôi cứ phớt lờ ánh mắt và quan niệm của người đời để được sống đúng là mình.

Và như thế, chắc chắn mẹ đã chẳng xuất hiện trong giấc mơ vì lo ngại rằng tôi không thể đem lòng yêu Nakajima.

“Tớ định đi gặp bạn cũ, nhưng tớ sợ đi một mình, cậu đi cùng tớ được không?”

Khoảng hai tuần sau đó, Nakajima đánh tiếng với tôi như thế.

Từ hôm ấy, chúng tôi không làm tình với nhau thêm lần nào nữa, nhưng đêm nào Nakajima cũng ngủ lại nhà tôi. Hắn còn bảo: “Tớ sẽ tính lại tiền điện nước cho đầy đủ.”

Sang tuần cuộc sống vẽ tranh tường mới bắt đầu nên thời gian này tôi đang rảnh rỗi.

Nhờ rảnh rỗi mà tôi có thì giờ để chế biến các món ăn từ chỗ giăm bông nhập khẩu cao cấp mà bố gửi rất nhiều cho tôi: nào cơm rang giăm bông với dứa, nào bít tết giăm bông, rồi cơm om giăm bông, nói chung là đủ loại.

Tôi liên tục sáng tạo ra các món mới, đến nỗi ngay cả một kẻ hoàn toàn thờ ơ và dễ dãi với việc ăn uống như Nakajima cuối cùng cũng phải thốt lên: món giăm bông như vậy có lẽ là đủ rồi!

Tiếp theo là quãng thời gian vui vẻ khi đi mua màu nước cùng cậu đàn em nhờ tôi phụ giúp việc vẽ tranh tường, hay khi sắp xếp, chuẩn bị cọ vẽ, hoặc lúc chúi mũi xuống bàn để dựng phác thảo.

Lúc cắm cúi vào phác thảo, tôi thấy vui như đang làm thiết kế cho một mô hình thu nhỏ. Tôi sẽ không chép y nguyên phác thảo đó lên tường, nó chỉ là bức vẽ nháp cho dễ hình dung, tuy nhiên việc vẽ mọi thứ ở kích thước nhỏ cũng đem đến cho tôi một niềm vui riêng. Một niềm vui giống như chơi đồ hàng hồi bé. Các chi tiết nhỏ mà người cũng nhỏ. Song ở trong đầu, tất cả đã được chuyển sang kích thước thật.

Bức tường dùng để vẽ tranh thấp và chạy dài, nên tôi định sẽ vẽ những chú khỉ ồn ào tiếp nối nhau thành một dòng chảy, nhưng lại chưa nghĩ ra được một ý tưởng cụ thể tuyệt vời hay phù hợp nhất cho địa điểm đó. Chính tôi cũng cảm thấy ngạc nhiên vì sự nghèo nàn trong sáng tạo của mình và đắn đo không biết có nên tham khảo ý kiến bọn trẻ trước hay cứ đợi tới nơi rồi hẵng tính. Dù không phải là hoàn toàn, nhưng tôi đang bế tắc về ý tưởng.

Nếu chỉ vẽ những thứ giống như dân không chuyên thì thà để cho người của tòa thị chính thành phố vẽ còn nhanh hơn. Tôi cần một ý tưởng mang tính cá nhân và khác biệt. Ý tưởng đó là gì? Tôi từng có kỉ niệm gì với lũ khỉ? Lần cuối cùng tôi nhìn thấy khỉ là khi nào? Liệu có cần phải tới vườn thú để tìm hiểu về chúng hay không? Giữa lúc bối rối như vậy, một chuyến đi xa để thay đổi tâm trạng thật vừa khéo.

“Đồng ý, vậy thì chúng mình sẽ làm một chuyến pích ních?” Tôi trả lời mà mắt thì nhìn tạp chí.

Nhưng khi bất giác ngẩng lên, nhận ra sắc mặt Nakajima, tâm trạng ngọt ngào của tôi tắt ngấm. Sắc mặt hắn nói rằng đó chẳng phải là chuyện chơi.

Để tôi kể thêm khi đó hai chúng tôi đang làm gì. Buổi sáng, trong bối cảnh mối quan hệ của chúng tôi hoàn toàn không có tiến triển gì hơn, tôi thức giấc, làm món ốp lết bằng một quả trứng duy nhất (tất nhiên có cả giăm bông) và chia đôi, trong khi tôi đang sơn móng chân ở một tư thế không lấy gì làm dễ coi thì Nakajima chú mục vào chiếc PowerBook viết báo cáo. Và đúng lúc tôi định đi pha trà vì thấy Nakajima buông tiếng thở dài thì hắn đưa ra đề nghị đó với tôi.

Đúng như Sayuri nói, hắn đang theo học ở quận bên trong một trường mà chỉ những kẻ xuất sắc mới có thể vào được, chứ không phải thứ đại học nghệ thuật làng nhàng như của tôi và Sayuri.

Tất nhiên tôi từng hỏi hắn:

“Làm thế nào để học giỏi như cậu? Có phải từ nhỏ cậu đã thích học rồi không?”

Thoạt tiên hắn nghĩ rất lung, rồi trả lời tôi:

“Chợt có một ngày, tớ bỗng nhiên thích học để lấy lại cái gì đó.”

“Sau khi mẹ cậu mất?” Tôi hỏi.

“Đúng thế. Bố mẹ tớ bắt đầu lục đục từ khi tớ vắng mặt, đến một hồi thì ở riêng, rồi cuối cùng ly hôn. Vì thế mà hoàn cảnh của tớ có phần giống với Chihiro. Đến giờ, tớ vẫn phải xin tiền sinh hoạt và học phí, thỉnh thoảng tớ cũng có gặp bố, nhưng thôi, chưa nhắc đến chuyện đó vội, hồi mẹ mất tớ đã vào cấp ba rồi, tớ quyết định không sống cùng bố nữa… thì cậu bảo từ ngày ly hôn, bố tớ toàn sống ở quê, chỗ tỉnh Gunma. Tớ chả muốn bỗng nhiên phải chuyển nhà. Vả lại, bố tớ thì đã đi bước nữa và có con riêng. Thành ra tớ quyết định sống một mình, nhưng không thiếu tiền đến mức phải đâm đầu đi làm thêm, cũng chẳng có duyên với sự xa xỉ nên bỗng dưng cực kỳ rảnh rỗi. Vì thế tớ đã suy nghĩ rất nhiều. Tớ muốn sống một cuộc đời không quá sa đà vào trần thế, chỉ dừng lại ở mức tối thiểu, được làm những gì là của mình và cố gắng làm một vài điều nho nhỏ có ích cho người khác. Và thế là, sau khi tìm hiểu rất nhiều, tớ quyết định nghiên cứu về gien.”

“Tớ không hiểu tại sao cậu lại chọn một ngành khó như vậy, có người nào đó thân thiết với cậu làm nghiên cứu trong lĩnh vực này đúng không?” Tôi hỏi.

Nakajima lại trả lời bằng cái cách lúng búng trong miệng:

“Ừm, trong thời gian xa cách bố mẹ, có một người lớn duy nhất mà tớ kết thân vốn học ngành di truyền, rất nhiều câu chuyện tớ nghe được từ người này đã khiến tớ có ý nghĩ biết đâu học ngành này sẽ thú vị.”

“Sau khi mẹ mất, chỉ còn lại một mình, buồn bã rảnh rỗi nên tớ cắm đầu vào học điên cuồng. Tất nhiên, tớ chỉ đặt duy nhất một mục tiêu là thi đỗ, hơn nữa do ngại giao tiếp với mọi người nên tớ đã quyết định tự học chứ không đến lớp luyện thi.”

Sau đó hắn cặn kẽ, tỉ mỉ giải thích cho tôi phương pháp tự học của mình.

Tôi tự hỏi: “Trong thời gian xa cách bố mẹ nghĩa là thế nào?”, nhưng chỉ im lặng nghe hắn giải thích.

Hắn nói có thể tách rời đầu óc khỏi thân xác để tập trung. Nhưng cũng thêm vào rằng, việc đó đối với hắn tuy không khó, nhưng rồi hắn nhận ra là sẽ rất nguy hiểm nếu làm thế trong thế giới thực.

Cách kể của Nakajima càng bình thản bao nhiêu, câu chuyện của hắn càng trở nên kỳ vĩ bấy nhiêu.

Trong thời gian từ khi bắt tay vào học cho tới lúc thi đậu vào ngôi trường mục tiêu, hắn đã giảm mất hai mươi ki lô cân nặng. Hắn cũng kể rằng, sau đó hắn chẳng ăn được gì nên đã ngã gục trên đường, rồi đến bệnh viện, nhờ được truyền dinh dưỡng mà sống sót cho đến ngày nay.

“Muốn trở thành bác sĩ mà cậu lại để mình như thế sao?”

Hắn cười như nắc nẻ khi tôi hỏi vậy. Hắn bảo hiện hắn đang học tại Bộ môn Nghiên cứu Y học nằm trong Khoa Y học, tức là sau đại học, nhưng đó không phải nơi người ta học để trở thành bác sĩ mà để trở thành nhà nghiên cứu.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3