Lớn lên trên đảo vắng - Phần I - Chương 05
I - Chương 5
BẮC CẦU QUA SUỐI – BỘ YÊN CHO LỪA VÀ BÒ CÁI – CHUYỂN NHÀ – CON NHÍM – RỪNG LAU SẬY – CUNG VÀ TÊN – CHIẾC THANG DÂY – DỰNG NHÀ TRÊN CÂY – ĐÊM THỨ NHẤT TRONG NGÔI NHÀ CHÒI.
Sáng hôm sau, dậy rất sớm, tôi bàn với vợ tôi về việc dời nhà. Thực ra thì cũng không đơn giản như vợ tôi tưởng. Tuy nhiên, vợ tôi đã tha thiết muốn như thế thì chúng tôi cũng sẽ cố gắng thực hiện cho được để cho ổn thỏa cả mọi đường. Chúng tôi dựng một nếp nhà dưới bóng cây khổng lồ bên kia, đồng thời vẫn giữ cái lều bên này làm kho chứa đồ đạc và nơi phòng thủ nếu bị tấn công. Nhưng trước hết phải lo bắc một chiếc cầu qua con suối để mở đường chuyên chở vật liệu. Vả lại muốn con lừa hoặc con bò cái tải được đồ đạc thì cũng phải kiếm cho chúng nó bộ yên cưỡi hoặc yên thồ. Trong khi vợ tôi lo cắt may những bộ yên đó thì mấy bố con lo việc bắc cầu. Cầu bắc xong sẽ dùng được mãi mãi. Con suối này thực ra là một cái khe. Gặp tiết mưa, nước lũ dồn về dâng lên, chỗ lội kia sẽ bị ngập hoặc sẽ trở nên vô cùng nguy hiểm, nếu liều mạng lội qua có thể bị dòng nước cuốn đi mất.
Vợ tôi tỏ vẻ nóng ruột nhưng cũng hiểu rõ không thể làm khác được và đành phải trả lời:
-Thôi được! Thế nào cũng đành! Nhưng bây giờ thì mấy bố con phải nhanh bắt tay vào việc đi thôi. Cần gấp lắm rồi!
Chúng tôi đánh thức lũ trẻ dậy và nói cho chúng biết rõ dự định dời nhà. Thấy được dời chỗ ở và đi dựng nhà dưới bóng mát những cây khổng lồ tươi đẹp kia, chúng vui mừng vô kể. Nhưng nghe nói đến việc bắc cầu để mở đường vào “xứ hạnh phúc” thì chúng nó có vẻ hơi xìu đi vì nhìn thấy ngay ở đó một công trình khó khăn và nặng nhọc cho mấy bố con trong những ngày sắp tới.
Trong khi vợ tôi vắt sữa bò và dê để nấu một nồi cháo sữa ăn sáng, tôi cùng lũ trẻ lấy đá bỏ vào thuyền cho đằm để trở ra ngoài tàu kiếm gỗ ván về làm cầu.
Một lát sau, vợ tôi gọi cả nhà về ăn một bữa sáng thanh đạm mà hương vị đã gợi lại những buổi sáng ở quê hương Thụy Sĩ. Sau bữa ăn, tôi cùng Phrê-đê-rích và Éc-nét xuống thuyền đi ngay. Hai đứa sẽ giúp tôi chèo chống đắc lực bởi vì thế nào số gỗ mang về cũng khá nặng, khiến cho thuyền đi chậm và khó khăn. Éc-nét rất phấn khởi được chú ý đặc biệt như vậy; nó vớ lấy mái chèo và chèo lấy chèo để rất đều tay và khéo léo. Tới cửa suối, thuyền theo dòng nước trôi ra phía chiếc tàu. Đi ngang đảo Cá Mập, chúng tôi nhận thấy trên đó đầy những thanh gỗ đủ loại, đủ hình dáng và đủ cỡ, chắc hẳn từ những chiêc tầu đắm nào đó bị sóng đánh dạt vào đảo. May mắn quá! Đỡ cho chúng tôi khỏi phải cất công ra tận chiếc tàu! Chúng tôi ghé ngay vào đảo, chọn lấy những gỗ ván tốt và thích hợp cho công tình sau này của chúng tôi hơn hết. Chọn xong, chúng tôi dùng một bộ kích và hai thanh sắt nâng chúng lên khỏi đám cát lấp phủ rồi đẩy ra tận mặt nước cho nổi lên. Xong xuôi, chúng tôi lấy dây buộc liền những thanh gỗ lại, ken ván khít lên trên, dùng chốt đóng chặt lại với nhau thành một chiếc bè gỗ, buộc vào sau thuyền rồi giương buồm quay về.
Muốn đỡ vất vả, tôi tìm cách bắt được luồng gió nồm thổi vào bờ, và sau một vài lần điều chỉnh cũng khá chắc tay, chúng tôi reo mừng thấy cánh buồm đã căng lên, uốn cong và chiếc thuyền đĩnh đạc lướt sóng tiến vào bờ.
Chúng tôi ghé vào cái vịnh nhỏ rất yên ổn. Tôi hạ buồm, neo thuyền vào chỗ cũ, bốn giờ đồng hồ sau lúc ra đi. Chẳng ai ra đón nhưng sự vắng mặt ấy không làm cho tôi lo lắng như lần trước. Chúng tôi đồng thanh cất cao tiếng gọi và nghe tiếng trả lời ngay; tiếp đó, vợ tôi và hai đứa nhỏ chạy tới. Nhưng vợ tôi lại quay trở về để sửa soạn cơm trưa, còn chúng tôi thì lo chuyển lên bờ tất cả số gỗ dùng để bắc cầu. Trong khi chúng tôi đi vắng, Ruýt-ly đã tìm được một chỗ thuận tiện và bây giờ nó chỉ cho tôi biết. Quả nhiên chỗ đó có nhiều thuận lợi nhưng lại khá xa cái bè. Để chở số gỗ đó tới nơi bắc cầu, tôi bèn nghĩ ngay đến cái kiểu vận chuyển đơn giản cua người La-pông (Gần Bắc Cực, xứ La-pô-ni), dùng con tuần lộc kéo những chiếc xe quẹt. Tôi bèn áp dụng thử vào con lừa và con bò cái, cuộc thí nghiệm đã thành công rực rỡ. Sau dăm ba chuyến đi về, tất cả vật liệu làm cầu đều được chuyển đến nơi đã định. Éc-nét tìm được một cách rất tốt và cũng rất đơn giản để đo bề rộng con suối. Nó buộc một hòn đá vào đầu một sợi dây nhỏ rồi ném sang bờ bên kia, sau đó kéo hòn đá trở về và đo chiều dài những quãng dây tức là từ bờ này sang bờ kia được tám bộ. Muốn cho vững vàng thì cầu phải gối sâu vào trong, đặt lên trên bờ đất mỗi đầu chừng ba bộ nữa. Chúng tôi bèn chọn những thanh gỗ dài từ hai mươi bốn bộ trở lên. Bây giờ lại phải tìm cách nào vắt trên hai bờ suối lởm chởm kia những cây gỗ nặng và dài từ hai mươi lăm đến ba mươi bộ. Nghĩ mãi chưa ra thì nghe tiếng vợ gọi về ăn trưa. Trước khi ăn, vợ tôi giới thiệu “công trình” đã chiếm hết thì giờ buổi sáng của bà: hai cái bao tải lớn bằng vải buồm khâu bằng dây gai nhỏ dùng cho con lừa và con bò cái. Tôi tỏ ý kính phục lòng nhẫn lại của bà: thiếu cả dùi lẫn kim khâu, bà đã phải lấy đinh dùi vải cho thủng từng lỗ rồi kiên nhẫn xâu dây gai vào mà hoàn thành “công trình”. Điều đó chứng tỏ rằng với óc sáng tạo và chí kiên cường, không gì không làm được.
Bữa ăn cũng nhanh bởi chúng tôi muốn hoàn thành công việc trước khi trời tối. Vừa ăn, chúng tôi vừa bàn cách lao xà dọc cầu và cuối cùng đã nảy ra được sáng kiến.
Tôi buộc một dây thừng lớn khá dài vào cái xà, cầm đầu dây sang bờ bên kia rồi luồn bộ ròng rọc đã buộc trước ở một cây to bên đó rồi lại đưa đầu dây về bên này, mắc vào con bò cái và con lừa, đánh chúng đi ngược với bờ suối. Hai con vật gò lưng kéo căng sợ dây lên và sợi dây chạy dần dần trên ròng rọc, kéo theo cái xà gỗ. Cái xà từ từ chuyển rồi lao dần dần sang bờ bên kia, đúng chỗ đã định.
Lao xong cái xà thứ nhất, công việc trở nên dễ dàng hơn. Chúng tôi đã lao tất cả bốn cái xà theo cách ấy. Lũ trẻ thích thú quá không thể tự kiềm chế được nữa. Chúng chạy như vượn trên những thanh xà dọc ấy, vượt qua cái cầu còn cheo leo mà sang bên kia hò nhau sửa chữa móng cầu cho vững chãi còn tôi thì lo sửa móng bên này. Xong xuôi, chúng tôi lát ván lên trên xà, từ bên này qua bên kia, nhưng không đóng chặt ván xuống xà. Như vậy khi cần thiết có thể trong giây phút lột ván phá cầu, cắt ngang con đường qua lại để bảo vệ chúng tôi chống một cuộc xâm nhập bất ngờ nào đó.
Công việc nặng nhọc suốt ngày đó làm cho rã rời chân tay. Chúng tôi trở về lều ăn cơm tối rồi nằm lăn trên giường lót rêu đánh một giấc say sưa.
Hôm sau, trước hết tôi gọi mấy đứa trẻ lại và nói cho chúng biết rõ thái độ cần thiết trong hoàn cảnh hiện nay: Chúng ta sẽ dời nhà đến một chỗ có thể đẹp và thích thú hơn, nhưng chưa chắc đã yên ổn bằng ở đây. Chúng ta chỉ mới biết được ít nhiều tài nguyên nhưng chưa biết được tất cả những sự nguy hiểm có thể xảy ra ở đó. Mỗi người đều phải thận trọng và sẵn sàng tự vệ, nhất là trong lúc đi đường, không ai được đi tách ra hoặc lùi lại sau. Các con tôi đều nhất nhất hứa tuân theo lời căn dặn ấy.
Cơm nước xong, chúng tôi sửa soạn lên đường, lũ gia súc đều được tập hợp cả lại; con bò cái và con lừa thì chở những vật nặng, mỗi con mang trên lưng một cái bao tải lớn may kín bốn phía nhưng xẻ ở giữa để chứa được nhiều thứ mà không lo bị rơi. Lần này chúng tôi chỉ mới mang đi những thứ cần thiết nhất: đồ làm bếp, lương thực như bánh khô, bơ, pho mát, và những tấm bánh bột khô để nấu canh, một ít thuốc đạn ngoài số vũ khí thường dùng, cuối cùng là võng và chăn len.
Thu xếp gần xong thì vợ tôi ở đâu chạy đến, cái túi thần kỳ dưới cánh tay, nằng nặc đòi dành cho một chỗ:
- Chưa xong đâu! Còn phải lo đưa lũ gà đi nữa chứ! Chỉ cần để lại đây một tối là đi đời hết với lũ chó rừng cứ rình mò suốt đêm.
Chúng tôi bèn buộc chân lũ gà lại rồi ném tạm chúng vào một cái thúng đặt trên lưng con bò cái, đậy kín lại vì chỉ trong buồng tối, lũ gia cầm lắm mồm và khó chịu đó mới không làm ồn lên. Sau hết, chúng tôi chất vào trong lều tất cả những thứ còn tạm để lại, cài chặt cửa, đem tất cả hòm và thùng xếp xung quanh rồi bỏ mặc đó mà lên đường.
Chúng tôi ra đi, ai cũng đem theo khí giới và mang trên lưng một túi lương ăn. Vợ tôi và Phrê-đê-rích đi đầu. Phrít cưỡi con lừa nối gót cùng với con bò cái. Ruýt-ly chăn lũ dê cái và con lợn là đoàn thứ 3, trong đó có con khỉ con cưỡi trên lưng mẹ nuôi nó và nhăn nhó đến hay. Éc-nét “tiên sinh” đạo mạo lùa bọn cừu cái. Cuối cùng là người bố, lanh lẹ và âu yếm, đi đoạn hậu. Hai con chó đi kèm hai bên đoàn lữ hành, chạy lên chạy xuống giữ trật tự đắc lực lắm.
Đoàn chúng tôi tiến bước thong thả nhưng rất trật tự. Qua bên kia suối, tự nhiên Ruýt-ly cao hứng chui ngay vào trong đám cỏ cao và rậm. Nhưng nó đã lại chạy vụt ra ngay, vừa chạy vừa kêu: “Bố ơi! Một con nhím to lắm, lông nó dài bằng cả cánh tay con. Vào đây! Vào đây mau lên!”
Phrê-đê-rích rút khẩu súng tay cài ở thắt lưng ra, lên đạn, nhảy vào trong đám cỏ bắn vào đầu con nhím. Chúng tôi đặt thêm con nhím vào khối đồ đạc rồi cả đoàn tiếp tục đi.
Chúng tôi đã đến dưới những cây khổng lồ, đích của cuộc di cư này. Những cây này lại còn cao và to hơn tôi tưởng tượng. Éc-nét phải kinh ngạc kêu lên:
- Gớm! Cây gì thế này! Đúng là những cây khổng lồ chính cống! Chúng nó thuộc vào loại gì thế bố nhỉ?
- Có lẽ là loại cây đa to lớn ở đảo Ăng-ti (Quần đảo ở gần lục địa châu Mỹ)!– Tôi nói với vợ tôi lúc bà đang tỏ vẻ vui mừng vì thấy tôi vừa ngạc nhiên lại vừa “choáng mắt” – Nhưng bất luận nó thuộc loại gì cũng phải thừa nhận rằng tìm ra những cây này và nghĩ ra chuyện dựng nhà tại đây mà ở thật đáng cho mẹ nó tự hào đây! Chắc chắn là trước hết chúng ta có thể ở tầng dưới, giữa những cái rễ trông cũng đã giống như một cái sườn sẵn sàng cho ta làm nhà rồi. Nhưng nếu rồi đây có thể trèo lên được trên cao thì chúng ta hoàn toàn không phải lo lằng gì về lũ thú dữ nữa! Ngay cả giống gấu ở núi rừng nước ta vốn quen leo trèo cũng khó mà bám được vào cái thân cây to lớn và trơn trụi không chỗ bấu víu này!
Chúng tôi lần lượt dỡ đồ đạc xuống và mở dần ra. Muốn giữ không cho gia súc đi ra xa, chúng tôi chằng hai chân trước mỗi con với nhau, trừ con lợn vốn cứng đầu nên đành mặc kệ nó. Gà qué, chim chóc thì được thả tự do, đậu vào chỗ nào thuận tiện mặc ý.
Thu xếp tạm ổn như vậy, chúng tôi mới lo đến ăn uống. Tôi làm thịt con nhím rồi chặt một nửa đưa cho vợ tôi nấu xúp, con nửa kia ướp muối để dành đến mai. Cách một quãng ngắn, một dòng suối nhỏ lặng lẽ chảy, nước trong vắt. Chúng tôi lại bờ suối nhặt đá về dựng bếp, kiếm cành khô nhóm nửa rồi để đó cho vợ tôi nấu nướng. Trong khi chờ đợi, tôi lấy mấy cái lông nhím nhỏ nhất, tìm cách làm thành kim khâu tặng vợ tôi và nhờ bà khâu cho những dây thắng dài rất cần để thắng yên ngựa. Tôi lấy một cái đinh to, nung đỏ mũi nhọn lên mà dùi vào lông nhím để khỏi bị dập. Thế là tôi có một số kim khâu đủ cỡ lớn nhỏ, xâu sợi gai rất tốt. Tuy chỉ mới xâu được sợi gai thôi nhưng vợ tôi cũng rất mừng vì nhờ những cái kim có vẻ thô kệch ấy, bà sẽ nhẹ tay được nhiều việc.
Luôn luôn suy nghĩ đến ngôi nhà trên không, tôi muốn làm một cái thang dây. Trước hết phải tìm cách vắt qua những cành thấp nhất một sợi dây thừng mà kéo cái thang lên. Tôi bèn bày cho mấy đứa trẻ ném những hòn đá buộc vào một sợi dây dài, nhưng những cành thấp nhất cũng cao hơn mặt đất đến ba mươi bộ và chẳng có hòn đá nào ném tới cả. Thế là tạm hoãn để nghĩ cách khác. Vừa hay vợ tôi gọi cả nhà vào ăn bữa tối. Thịt nhím nấu lên thật đậm đà, tuy có hơi cứng một chút nhưng quả là một món xúp tuyệt ngon. Vậy mà vợ tôi vẫn không sao nhai được nên đành dùng tạm một lát thịt đùi lợn sấy kèm pho mát Hà Lan.
Cơm nước xong, tôi lo sửa soạn chỗ trú đêm nay. Tôi treo tất cả mấy cái võng vào dưới vòm rễ cây khổng lồ và phủ một tấm vải buồm lớn lên trên. Thế là tạm xong một túp lều để che sương đêm và tránh muỗi đốt cho cả nhà. Công việc xong xuôi, vợ tôi lại cần cù làm nốt mấy bộ yên cho con lừa và con bò cái để ngày mai chúng sẽ kéo những xà và ván gỗ về xây dựng ngôi nhà trên không. Tôi cùng Phrê-đê-rích và Éc-nét ra bờ biển xem xét những vật liệu trôi dạt ở đó và cũng để tìm những thứ dùng làm thang dây. Vô số ván rời nằm la liệt trên bãi biển, nhưng hầu hết đều ít thích hợp với công việc tội định làm. Vừa may Éc-nét chỉ cho tôi một đống lớn tre nứa bị vùi kín dưới bùn và cát. Đúng là những thứ cần thiết. Tôi lôi đám tre ra, gạt sạch lá rồi chặt mỗi cây ra thành nhiều đoạn dài chừng năm bộ, bó làm ba bó để đem về cho dễ. Tôi lại lách vào các bụi lau cố tìm vài cây thân rỗng và nhẹ dùng để làm tên. Tất cả những thứ ấy đều nằm trong kế hoạch tấn công khu vực cao trên cây khổng lồ.
Chúng tôi đi thẳng tới một bụi đã nhắm trước. Tôi chặt mấy cây lau già đã có hoa, thổ dân châu Mỹ vẫn dùng để làm tên rất tốt, rồi vác tre và lau về nhà.
Lũ trẻ láu táu đem buộc nói mấy cây lau dài lại với nhau, dựng lên ngỡ rằng có thể dùng cách ấy để đo chiều cao thân cây khổng lồ. Thế rồi chúng nó vừa cười vừa chạy lại báo cho tôi biết phải cao gấp mười như thế họa may mới chấm được cành thứ nhất. Tôi để chúng nó cười cho chán rồi mới giảng cho biết là tôi sẽ dùng phương pháp hình học… dựa theo đặc điểm tam giác mà đo chiều cao thân cây. Sau khi đo và tính toán, tôi tuyên bố với các chú nhỏ, rất chăm chú theo dõi công việc của tôi. Rằng nền nhà tương lai sẽ cao hơn mặt đất 30 bộ. Kết quả đó khiến chúng nó sửng sốt kỳ lạ và gợi cho chúng thích môn hình học.
Nắm vững được chiều cao khá chính xác rồi, tôi bảo Phrê-đê-rích đo xem tất cả có bao nhiêu dây thừng. Bọn nhỏ thì cuôn dây gai lại thành từng búp để chờ khi cần đến. Xong xuôi, tôi ngồi phệt trên đám cỏ non lấy một thanh tre cứng, buộc dây hai đầu nó lại uốn cong thành cánh cung. Tiện tay, tôi lấy ra mấy cây lau già, chặt luôn dăm mũi tên bằng đầu, buộc thêm vào dưới một túm lông hồng hạc để giúp cho tên bay nhanh hơn và thẳng hơn. Thế là bộ vũ khí thô sơ của tôi đã xong, cũng khá tươm tất. Khi quay trở lại gần tôi và thấy bộ cung tên, lũ trẻ hí hửng nhảy như choi choi và kêu ồn cả lên.
- Ồ bố ơi! Cho con bắn nhá!
- Không! Bố để cho con…
- Thong thả! Các cậu! Hãy thong thả! Bố phải được quyền dùng sáng kiến của mình trước chứ! Vậy thì tôi sẽ bắn trước, các cậu hãy bằng lòng vậy nhá! Các cậu phải hiểu rằng tôi không định làm thứ đồ chơi trẻ con đơn giản đâu nhá, mà chính là một dụng cụ có ích cho công việc trước mắt của chúng ta đấy! Nào, nữ thần Ê-li-da-bét – Tôi gọi vợ tôi – Bà có thể ban cho chúng tôi một cuộn dây sợi nhinh nhỉnh và bền không đấy?
- Chả hiểu cái túi thần kỳ của tôi có sẵn sàng cấp cho các người vật quý ấy không! – Bà trả lời – Nào, túi thần kỳ, hãy tỏ ra xứng đáng danh hiệu đó! Chúng tôi cần một cuộn sợi thật bền! - Bà lắc cái túi một lúc rồi thò tay vào tận đáy lôi ra đúng vật cần thiết.
- Đấy! Các người xem – Bà vừa cười vừa nói tiếp - Cái túi của tôi quả là kỳ diệu đấy chứ?
Tôi tháo cuốn sợi ra và buộc một đầu vào đuôi một mũi tên. Đặt tên vào cung, tôi nhắm phía trên cành cây lớn mà bật dây cung. Mũi tên kéo theo sợi dây, bay vượt cành cây, từ từ rơi xuống bên kia. Thích thú với kết quả đó, tôi vội vàng làm cái thang dây. Phrê-đê-rích đã lôi lại hai cuộn dây thừng lớn, mỗi cuộn dài trên dưới bốn mươi bộ. Vừa khéo! Tôi cho kéo thẳng cặp dây thừng song song cách nhau độ một bộ. Phree-đê-rích chặt những dóng tre dài chừng hai bộ để làm bậc thang và đưa cho Éc-nét ôm dần lại cho tôi. Tôi dùng kiểu nút “thuyền thoi” để buộc những đoạn tre ấy vào hai chiếc dây thừng trên những khoảng cách khá đều. Xong mỗi dóng là Ruýt-ly dọt ngay hai chiếc đinh lớn vào hai đầu để giữ không cho nó tuột ra được. Cứ thế, chỉ một loáng đã xong chiếc thang dây. Tôi nối một sợi dây gai lớn vào sợi dây nhỏ ở mũi tên và kéo nó qua cành cây; đến lượt nó lại lôi theo một dây thừng khá chắc chắn đủ sức đưa cái thang dây lên và giữ thang lại. Khi đầu thang dây đã vắt qua cành cây, tôi buộc chặt chiếc dây thừng ấy vào một cái rễ lớn, đồng thời cũng néo chắc dóng thang cuối cùng ở gần mặt đất để thang khỏi đu đưa, trèo lên dễ dàng và vững vàng hơn. Tôi vừa buông tay, bọn trẻ con đã tranh nhau đòi leo thang, nhưng tôi chỉ cho phép Ruýt-ly, nhỏ bé và nhanh nhẹn nhất được trèo lên trước. Thằng bé gan góc ấy vẫn tập thể dục đều đặn nên rất dẻo dai và khéo léo. Nó leo thang như một con mèo, thoăn thoắt bậc này qua bậc khác tới cành cây lớn rất yên ổn. Đến lượt Phrê-đê-rích trèo lên, mang theo búa đinh và một mớ đinh đóng chặt đầu trên cái thang dây vào cành cây. Nó khéo đóng nên thang rất chắc, tôi không còn ngại gì nữa và đã leo ngay lên miền “rẻo cao” ấy. Cành cây to, vững và chi chít đến nỗi tôi có thể ngồi khá dễ dàng. Tôi cũng ước lượng rằng thế này thì chẳng cần bắc gỗ ngang dọc mà chỉ cần đẽo gọt qua một số cành cho phẳng phiu rồi ken ván lại là đủ thành sàn nhà vững chãi.
Tôi với lấy cái búa, làm ngay cái việc đẽo gọt ấy. Bọn trẻ chỉ ở lại thêm vướng, tôi bảo chúng nó xuống. Tôi lại buộc chặt một cái ròng rọc vào một cành to ở trên cao, ngày mai sẽ dùng nó để kéo và chuyển những tấm ván cùng tất cả thứ cần thiết lên cho dễ. Thế là tạm hết việc ngày hôm nay. Trăng đã lên cao, tôi quay trở xuống với gia đình, mệt lử nhưng trong lòng rất khoan khoái và tràn trề những hy vọng êm đềm nhất. Chúng tôi đốt một đống lửa lớn và giữ cho cháy suốt đêm để xua đuổi thú dữ. Vợ tôi gới thiệu với tôi công trình của bà trong buổi chiều: Bà đã dùng những chiếc kim lông nhím may xong một bộ yên đầy đủ cho hai con vật kéo xe. Tôi cũng bảo đảm với bà là chỉ nội ngày mai là xong xuôi nhà mới. Éc-nét sức không kham nổi những việc nặng nhọc, cũng ngồi dưới gốc cây với mẹ và đã cùng với Phrít thay mẹ nấu ăn: trên bếp lửa đương quay một tảng lớn thịt nhím béo ngậy, mùi thơm ngạt ngào bốc lên điếc cả mũi. Một miếng khác cũng đương luộc trong nồi. Bàn ăn là một miếng vải lớn trải lên thảm cỏ xanh; đùi lợn sấy, một góc pho mát, bơ và bánh khô đã được trịnh trọng bày sẵn. Chúng tôi còn dựng nhiều những khúc củi nhỏ chung quanh lều vải mới, xem xét kỹ lưỡng lũ gia súc đã tập hợp đông đủ bên dưới cái vòm rễ khổng lồ hay chưa. Chúng tôi cũng tạm ngủ đêm nay ở đó – bồ câu và gà mái đã vào tổ hay là đậu trên cành bên cạnh? Xong xuôi mọi việc tỉ mỉ đó, chúng tôi mới ngồi vào bàn ăn.Trăng tròn chiếu sáng vằng vặc, nhưng rồi câu chuyện vui vẻ ồn ào cứ dịu dần, điểm những cái ngáp liên tiếp giục mọi người đi ngủ. Tôi còn thức lại, đốt một khúc củi, đi dạo quanh chỗ ở để xem xét và sau khi tin chắc là ít ra trong lúc này cũng chưa thể có gì nguy hiểm cho gia đình, tôi mới vào giường.
Cho tới nửa đêm, tôi vẫn không thể nào yên tâm được: một tiếng động nhỏ, gió lay cành cây, tiếng sóng rì rào xa xa, tất cả đều gợi cho tôi những mối lo ngại. Mỗi lúc thấy khúc củi cháy sắp hết, tôi vội bỏ tiếp ngay một khúc khác. May mắn thay, không có việc gì xảy ra cả! Gần sáng mệt quá, tôi không cưỡng lại được nữa và ngủ thiếp đi đến nỗi không phải là tôi đánh thức bọn trẻ dậy mà lại chính chúng nó gọi tôi khi trời đã sáng rõ.
Vợ tôi đã bắt tay vào công việc hàng ngày: vắt sữa bò, sữa dê, cho gia súc ăn rồi dọn ăn sáng cho cả nhà. Xong xuôi, bà gọi Éc-nét và Ruýt-ly lại giúp đặt bộ yên thồ lên lưng con lừa và con bò cái rồi kéo nhau ra bãi biển lấy những gỗ ván cần thiết đưa về cho tôi dựng nhà.
Trong lúc đó, tôi cùng với Phrê-đê-rích trèo lên cây tiếp tục công việc hôm qua. Chúng tôi khử tất cả những cành vô ích, chỉ trừ lại dăm cành, cao hơn những cành bên dưới chừng sáu bộ để mắc võng và một số khác ở cao hơn để đỡ cái mái tạm thời bằng vải buồm. Công việc vừa lâu vừa nhọc. Vợ tôi đã đem về khá nhiều những tấm ván và những thanh xà nhẹ. Chúng tôi dùng ròng rọc chuyển dần lên trên đám cành cây. Chúng tôi ken ván thành một mặt sàn bằng phẳng và vững chãi. Dần dần “biệt thự” của chúng tôi thành hình: Ngôi nhà dựa vào cái thân cây khổng lồ, tấm vải buồm căng trên những cành cây phía trên rủ xuống hai bên trái và và phải thành hai bức vách; phía trước để trống, đón gió mát từ biển vào. Ở chỗ này cao nên vẫn thấy biển ngoài xa một màu xanh biếc. Xong mấy việc đó thì bóng chiều đã ngả. Chúng tôi mải miết lao động, chỉ dừng tay một lúc để ăn chút thức ăn nguội, không tưởng đến một bữa ăn hẳn hoi nữa. Tôi dựng một hàng lan can khá cao ở hai bên và trước ngôi nhà chòi. Để đề phòng mọi tai nạn, tôi lấy đinh đóng chặt ngay mép vách vải buồm vào bờ trên hang lan can, chúng tôi lại dùng ròng rọc chuyển lên mấy cái võng, chăn và tất cả mọi đồ dùng cần thiết đem theo tất cả lên những cành cây dành cho chúng, rồi quét dọn sạch sẽ những lá, rác rưởi, vỏ bào trên sàn nhà. Xong xuôi, hai cha con mới trèo trở xuống và trịnh trọng tuyên bố với cả nhà rằng “biệt thự” mới đã sẵn sàng đón tiếp các vị quý khách. Còn vài tiếng đồng hồ nữa mới tối; vừa thấy ở gốc cây còn thừa mấy tấm ván, tôi đóng ngay một cái bàn và hai chiếc ghế để cả nhà gồi ăn cho thoải mái hơn. Tôi ngồi lên một chiếc ghế dài, mệt lử, lau mồ hôi chảy dòng ròng trên trán và bảo vợ tôi:
- Quả thật hôm nay tôi làm việc như khổ sai, vì thế đến mai tôi muốn nghỉ suốt ngày.
- Bố nó ạ, bố nó có thể nghỉ ngơi và cần phải nghỉ ngơi nữa là khác. Tôi đã tính toán thời gian từ hôm chúng ta đặt chân lên đây, và nhớ rằng ngày mai chính là ngày chủ nhật thứ nhì mà chúng ta lại sẽ bỏ qua đi mất vì quá bận bịu lo cái ăn nơi ở.
- Ê-li-da-bét yêu quý, chúng ta sẽ không để cho ngày chủ nhật này phải trôi qua như thế. Nhưng mà này, bàn ăn đã đóng xong, bà nội trợ sẽ cho chúng tôi thưởng thức món gì đây? Xin báo cáo là tôi đói cồn cả ruột rồi đấy!
- Thì bố nó gọi các con về mà ăn bữa tối đi thôi.
Cả gia đình quay quần quanh bàn, trên đặt một chiếc đĩa sành lớn, vợ tôi lấy nĩa lớn xúc ra một con chim ninh nhừ trong thật ngon lành, đó là con chim hồng mà Phrê-đê-rích bắn được hôm qua. Éc-nét, cố vấn lành nghề về nấu nướng, đã khuyên mẹ nó nên ninh nhừ hơn là quay rán vì con chim này đã già rồi có thể thịt sẽ cứng.
Chúng tôi vui cười một lúc về cái “đức” sành ăn của Éc-nét ”tiên sinh”, đồng thời rất tán tưởng kết quả lời khuyên đó. Thịt chim hồng ninh nhừ và khéo gia giảm quả là tuyệt ngon và đã chui gọn vào bụng chúng tôi không sót một mẩu.
Cơm nước xong, đàn gia súc đã yên vị dưới mái chuồng rễ cây, tôi đốt một đống lửa để cho cháy suốt đêm đề phòng thú dữ rồi cả nhà lên nhà mới. Ba đứa lớn leo lên thoăn thoắt và chẳng mấy chốc đã chễm chệ trên sàn nhà. Vợ tôi nối gót chúng, leo thong thả hơn nhưng cũng vững vàng vì bực cuối thang vẫn buộc chặt vào rễ cây. Tôi leo lên sau cùng có phần vất vả hơn, cái dây buộc dưới thang đã cởi ra nên chiếc thang đung đưa, tôi lại cõng Phrít trên lưng nên càng khó trèo. Tuy vậy tôi cũng lên tới nhà. Sau khi đặt thằng nhỏ xuống, tôi dùng ròng rọc kéo một đoạn thang lên và móc vào một cành cây. Như vậy, chúng tôi ở yên trong toà nhà trên không chẳng khác gì những lãnh chúa ngày xưa chặn đứng kẻ thù xung quanh lâu đài sau khi đã kéo cao cái cầu treo bắc qua hào. Mặc dầu tin chắc là ở đây rất yên ổn, tôi vẫn lên đạn tất cả súng ống. Nếu kể thù bén mảng tới dưới gốc cây, chúng tôi sẽ nổ súng từ trên cao này xuống cứu viện cho mấy con chó dũng cảm được giao nhiệm vụ canh gác đàn gia súc ở dưới đó. Chuẩn bị xong xuôi, chúng tôi trèo lên võng, đánh một giấc ngon lành không chút lo âu.