Khoảng trống - Phần I - Chương 01 phần 6 - 7

VI

Chiếc xe buýt của trường đã tới Fields, khu nhà tạp nham nằm ở ngoại ô thành phố Yarvil. Mấy căn nhà xám xịt bẩn thỉu, vài căn bị phun sơn mấy chữ cái viết tắt tên riêng hay từ tục tĩu; đây đó vài ô cửa sổ đóng ván chặt, chảo vệ tinh và những bãi cỏ rậm rạp thiếu người chăm tỉa - đối với Andrew, mấy thứ đó cũng chẳng có gì đáng nhìn hơn tòa tu viện đổ nát trắng lóa vì sương giá ở Pagford. Andrew khi trước vừa tò mò vừa sợ khu này, nhưng rồi quen quá hóa nhàm.

Vỉa hè đầy bọn nhóc và đám choai choai đang đổ về trường, nhiều đứa phong phanh mỗi áo thun dù trời lạnh. Andrew nhận ra Krystal Weedon, đầu đề những trò bông đùa tục tĩu của cả bọn. Nó đang vừa khoác lác gì đó vừa cười ầm ĩ giữa một nhóm choai choai đủ loại. Tai Krystal bấm liền mấy lỗ, chiếc quần thể thao lưng trễ không đủ che dây quần lót. Andrew biết con bé từ hồi tiểu học, trong ký ức thời thiếu niên ngông cuồng, Krystal là một trong nhiều thứ để lại ấn tượng đậm nhất. Khi trước, lúc bị lôi tên ra chế nhạo, con bé không khóc như mấy cô bé năm tuổi khác mà vừa hò theo vừa cười ngặt nghẽo “Có lông! Krystal có lông!”. Rồi nó tuột luôn quần giữa lớp... và cô Oates mặt đỏ tận mang tai chạy ngay tới điệu Krystal ra khỏi phòng.

Đến năm mười ha tuổi, Krystal lột xác hoàn toàn thành nữ sinh phổng phao nhất khối, có lần ở cuối lớp, nơi mà tụi học sinh khi làm xong bài tập toán phải đem bài xuống đó rồi đổi lấy tờ bài tập kế tiếp, và Andrew (lúc nào cũng trong nhóm làm toán chậm nhất, như mọi khi) không rõ chuyện bắt đầu thế nào, nhưng khi bước đến chỗ mấy khay nhựa đựng bài tập xếp ngay ngắn trên nóc tủ lớp thì bắt gặp hai thằng mãnh Rob Calder với Mark Richards đang thay nhau sờ ngực con Krystal. Hầu hết bọn con trai trong lớp đang háo hức liếc nhìn, giấu mặt sau sách giáo khoa cho thầy khỏi phát hiện trong khi bọn con gái đỏ tía mặt mày vờ như không thấy. Andrew phát hiện ra hơn nửa đám con trai đều đã thử qua, rõ ràng là tới lượt nó. Andrew chần chừ... Chẳng phải sợ gì, nhưng nó cứ có cảm giác tội lỗi khi vấp phải cái nhìn câng câng thách thức của con nhỏ. Cuối cùng khi ông thầy Simmonds bất lực, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra ngước lên bảo: “Em đứng đó lâu quá rồi Krystal, lấy tờ bài tập rồi ngồi xuống đi”, Andrew thực sự cảm thấy nhẹ cả người.

Từ lâu hai đứa không còn học chung lớp, nhưng do vẫn có vài môn đăng ký chung nên Andrew biết Krystal thỉnh thoảng mới tới lớp, còn thì thường xuyên cúp học và lúc nào cũng dính vào rắc rối. Con bé chẳng biết sợ là gì, cũng như bọn con trai chọn cách xăm mình, Krystal đến trường với đôi môi dập rách ngậm xì gà, hàng đống chuyện đụng độ với cảnh sát, ma túy và tình dục buông thả.

Tòa nhà ba tầng Winterdown Comprehensive nằm ngay trong thành phố Yarvil, trông nó kềnh càng xấu xí với mấy cánh cửa sổ màu lam lắp rải rác. Cửa xe mở ra, Andrew hòa vào đám đông mặc áo khoác blazer đen và đồ ấm bên ngoài tràn qua bãi đỗ xe đổ vào hai cổng trước của trường. Khi sắp chen vào đám đông đang ùn lại ngay cổng, nó thấy một chiếc Nissan Micra đang từ từ lại nên dừng bước chờ thằng bạn thân.

Thằng Stuart Wall có nhiều biệt danh nhất trường: Tubby, Tubs, Tubster, Flubber, Wally, Wallah, Fatboy, Fats. Tướng gầy ngẳng, đi đứng cứ nhún nha nhún nhảy, mặt mày tóp teo nhợt nhạt, tai to tướng, ngoại hình thế đã đủ quái, nhưng chính khiếu hài hước sắc sảo, vẻ phớt đời và cái vẻ tự tin cực kỳ mới là thứ khiến nó nổi bật. Nó nhún vai phớt lờ mọi lời trêu chọc vì là con của ông thầy hiệu phó vừa dốt vừa khó ưa; vì có bà mẹ mập tròn ăn mặc lôi thôi, khéo thế nào lại chính là giáo viên tư vấn định hướng của trường, chuyện này khiến nó bị trêu chọc suốt. Nó vừa xuất sắc vừa độc đáo, là biểu tượng trứ danh của cả trường. Ngay cả mấy đứa khu Fields cũng đều khoái nghe nó chọc cười, nhưng chẳng mấy khi dám cười nó vì nó trả đũa khá cay.

Sáng nay, vẻ phớt tỉnh của thằng Fats càng rõ, vì trước mặt cả đám bạn học đang chen nhau qua cổng không có ông bố bà mẹ nào đi kèm, nó phải chui khỏi chiếc Nissan với cả bố lẫn mẹ, dù bình thường hai người này đi xe riêng đến trường. Vừa nhìn Fats nhún nhảy tiến lại, Andrew vừa mường tượng tới cái dây quần lót của Krystal Weedon.

- Đi chứ mày, Arf? - Fats hỏi

- Chào, Fats.

Hai đứa chen vào đám đông, cặp sách đong đưa trên vai đập cả vào đầu bọn thấp hơn, vạch một khe nhỏ cho hai đứa luồn qua.

- Lão Tủ nhà tao khóc. - Fats nói khi leo lên cầu thang đông nghẹt.

- Cái gì?

- Tối qua lão Barry Fairbrother chết rồi.

- Ờ, tao có nghe vụ này. - Andrew đáp.

Fats liếc Andrew một cái vẻ chế nhạo, ra điều mày-thì-biết-gì-mà-ra-vẻ.

- Thì lúc đưa ổng vào viện mẹ tao đang trực đó mà. - Andrew bực mình bảo - Mẹ tao làm trong bệnh viện, nhớ không?

- Ờ phải. - Thằng Fats đáp, không tỏ vẻ nhạo báng nữa. - Mày biết đó, ổng với ông già nhà tao là bồ ruột mà. Ông già tao sắp thông báo vụ này. Chẳng có gì hay ho cả, Arf.

Tới đầu cầu thang, hai đứa tách ra vào hai lớp khác nhau. Lớp Andrew vào gần đông đủ, ngồi trên bàn đong đưa chân, hay dựa tủ kê cặp tường, túi xách vứt dưới chân. Sáng thứ hai lúc nào cũng thoải mái rôm rả hơn mấy bữa khác, vì hôm nay sinh hoạt đầu tuần, nghĩa là cả đám sẽ đi bộ ra phòng thể thao ngoài trời. Giáo viên đăng ký ngồi sau bàn, đánh dấu điểm danh. Cô không buồn đọc tên điểm danh cho tử tế, đây là một trong nhiều trò hòng lấy lòng học sinh nhưng cả bọn vì thế lại xem thường cô.

Krystal vào lớp đúng lúc chuông reng gọi đi tập hợp. Con bé đứng ở cửa gào lên: “Em tới rồi nha cô”, rồi lại chạy vọt ra. Cả lớp đổ ra theo, vừa đi vừa tiếp tục trò chuyện xôn xao. Andrew và Fats lại gặp nhau ở đầu cầu thang rồi mới hòa cùng đám bạn đi qua cửa sau, băng ngang khoảng sân xám rộng.

Phòng thể thao có mùi mồ hôi lẫn mùi giày, tiếng ồn ĩ của một nghìn hai trăm cô cậu choai choai vang dội những bức tường quét vôi trắng ảm đạm. Sàn phòng trải thảm cứng màu xám công nghiệp đầy đốm bẩn, trên vẽ vạch nhiều màu làm sân cầu lông, tennis, hockey và bóng bầu dục. Sàn này mà đi chân trần lên thì rát, nhưng êm mông hơn sàn gỗ khi phải ngồi sinh hoạt toàn trường. Andrew và Fats nhanh chân giành được chỗ ngồi quý giá trên dãy ghế dài có lưng tựa bằng nhựa kê phía sau phòng, tuổi thọ của chúng chắc cũng cỡ năm sáu năm rồi.

Cô hiệu trưởng Shawcross ngồi ngay cạnh bục gỗ trước phòng, hướng về phía học sinh. Bố của Fats, Colin Wall “Tủ” bước tới ngồi kế bên. Ông khá “dài đòn”, trán cao hói, dáng đi cực dễ bắt chước, vì hai cánh tay cứng đơ cứ giơ lên hạ xuống theo nhịp bước một cách cứng đơ quá lố. Ai cũng gọi ông là thầy Tủ vì ông lúc nào cũng chăm chắm giữ cho mấy hộc tủ gắn trên tường bên ngoài văn phòng mình được gọn gàng. Sổ sách ghi xong có khi bỏ vào đó, có khi chuyển thẳng cho phòng ban cụ thể. “Nhớ bỏ vào đúng hộc nhé Ailsa!” “Kevin, đừng để đồ cheo leo thế, rơi khỏi tủ bây giờ!” “Đừng có bỏ đi ngang thế chứ, em kia! Nhặt lên, bỏ nó vào đây, phải để nó trong tủ chứ!”

Các giáo viên khác đều gọi mấy dãy tủ đó là “chuồng bồ câu”, nghe đồn để không dính dáng gì đến thầy Tủ.

- Ngồi nhích qua, ngồi nhích qua. - Thầy Meacher dạy nghề mộc kêu Andrew và Fats, vì hai đứa bỏ một ghế trống cách Kevin Copper.

Thầy Tủ bước lên trước bục. Thường hễ cô hiệu trưởng lên thì học trò ổn định nhanh hơn. Lúc tiếng xì xào cuối cùng tắt hẳn, cánh cửa bên cánh phải mở ra, Gaia bước vào phòng.

Cô bé nhìn lướt qua phòng (Andrew tự cho phép mình nhìn cô, vì ai cũng đang nhìn mà: cô nàng đi trễ, lại đặc biệt, lại xinh đẹp, mà xét cho cùng thì chỉ mỗi thầy Tủ đang phát biểu chứ có gì quan trọng đâu), rồi bước nhanh nhưng không vội vã (cô nàng cũng được cái phớt tỉnh hệt như Fats) ngang qua đám bạn học. Andrew không dám ngoái cổ nhìn theo cô nàng, rồi bỗng đầu nó nổ bùng một cái: lúc nhích người theo Fats nó đã vô tình chừa một ghế trống ngay bên cạnh.

Andrew nghe tiếng chân nhẹ nhàng nhanh nhẹn tiến lại gần; nàng ngay đó rồi, ngồi sát bên nó. Ghế Andrew hơi xê dịch, cơ thể nàng cũng làm nó chộn rộn. Mũi nó bắt được mùi hương thoang thoảng. Suốt phần người bên trái Andrew nóng rực lên vì cảm thấy sự hiện diện của nàng, nó thầm mừng là gò má trái, phía nàng thấy, đỡ mụn đỏ hơn má phải. Chưa bao giờ Andrew gần nàng thế, nó cũng không biết có dám quay sang nhìn hay chào hỏi gì không; nhưng rốt cục nó thấy mình đơ ra lâu quá lỡ mất cơ hội rồi, giờ mà chào thì lại không tự nhiên.

Andrew vờ giơ tay gãi gãi màng tang, đảo mắt liếc vội xuống tay nàng đang đan nhau hờ hững trong lòng. Móng tay ngắn sạch sẽ, không sơn. Chỉ đeo một chiếc nhẫn bạc trơn đơn giản trên ngón tay.

Fats khẽ thúc khuỷu tay làm Andrew căng thẳng thêm.

- Sau cùng, - Thầy Tủ nói, Andrew nhận ra nó nghe thầy nói chữ này hai lần rồi, tiếng cọ quậy sột soạt bỗng im bặt, cả hội trường lặng phắc căng tai chờ đợi.

- Sau cùng, - Thầy Tủ lặp lại, giọng run run, - tôi có một tin… một tin rất đáng buồn. Ông Barry Fairbrother, huấn luyện viên... cho đội nữ đua thuyền cực kỳ thành công, thành công... của trường ta suốt hai năm qua, ông ấy đã... đã...

Ông nghẹn ngào lấy tay che mắt.

- ... qua đời...

Thầy Wall “Tủ” khóc ngay trước mặt toàn trường. Cái trán hói cao gục xuống ngực. Tiếng xầm xì khúc khích rộ lên, nhiều đứa ngoái lại nhìn Fats, thằng này hơi có vẻ giễu cợt nhưng vẫn điềm nhiên ngồi yên một cách đáng phục.

- Qua đời... tối hôm qua.

Có đứa nào ngồi giữa đám ghế sau hội trường không nhịn nổi kêu ré lên ầm ĩ.

- Trò nào cười đó hả? - Thầy “Tủ” gầm lên, cả hội trường im bặt khoái chí. - SAO DÁM CƯỜI HẢ? Trò nữ nào cười đó? Trò nào?

Thầy Meacher đã đứng phắt dậy, tức giận chỉ tay vào một đứa trên hàng ghế giữa ngay sau Andrew và Fats. Ghế của Andrew lại bị thúc một cái vì Gaia quay hẳn người xuống xem như mọi người. Andrew thấy toàn thân mình trở nên siêu nhạy cảm, nó cảm thấy được cơ thể Gaia đang nhoài sang phía mình. Giờ mà quay về phía cô nàng, hẳn hai đứa chạm ngực được vào nhau.

- Ai cười đó? - Thầy “Tủ” lại quát lên, ráng rướn người trên đầu ngón chân cứ như thể sẽ tóm được đứa mắc lỗi từ trên đó. Thầy Meacher vừa tuôn ra một tràng giáo huấn vừa hăng hái trỏ tay chỉ điểm.

- Đứa nào thế hả thầy Meacher? - Thầy “Tủ” gào lên.

Thầy Meacher có vẻ không muốn nói, vì vẫn chưa bảo được cái đứa mắc lỗi kia ra khỏi chỗ ngồi, nhưng xem ra thầy Tủ đã muốn nhảy khỏi bục mà tự đi điều tra lấy, thế là Krystal Weedon nhảy bật dậy, mặt đỏ tía tai gạt phăng mấy đứa cùng hàng để đi ra.

- Sau buổi sinh hoạt toàn trường em phải lên văn phòng tôi ngay. - Thầy “Tủ” gào lên. - Cái đồ vô ơn, thiếu giáo dục! Đi ra ngoài ngay!

Krystal lúc đó đã đi tới cuối dãy liền dừng phắt lại, làm một cử chỉ bậy bạ hướng về phía thầy “Tủ” và rống lên “NHƯNG MÀ CON NÀY CÓ CƯỜI ĐU CHỨ...”

Cả hội trường phá lên cười và bàn tán ầm ĩ; các thầy cô gắng dẹp loạn mà không nổi, một hai giáo viên bắt đầu rời ghế để ổn định lớp của mình.

Hai cánh cửa sập lại đằng sau Krystal và thầy Meacher.

- Trật tự! - Cô hiệu trưởng nói to, hội trường tạm yên, nhưng tiếng xầm xì rúc rích vẫn cứ dậy lên. Fats vẫn ngồi nhìn thẳng phía trước, chẳng hề biến sắc hay chộn rộn lấy mảy may.

Andrew cảm thấy Gaia đã ngồi lại xuống ghế. Nó gom hết can đảm quay sang trái, nhe răng cười. Cô nàng mỉm cười đáp lại.

VII

Hiệu thực phẩm chế biến Pagford mở cửa lúc chín giờ ba mươi, biết thế nhưng Howard Mollison vẫn đến sớm. Lão năm nay đã sáu bốn tuổi, béo phì béo nộn. Cứ nhìn cái bụng phệ trĩu của lão là bất cứ ai cũng không kìm được mà tự hỏi lần cuối Howard thấy con cò của mình là khi nào, làm sao mà rửa ráy, và nhất là xoay xở ra sao khi cần dụng tới công năng trời ban của nó. Phần vì ngoại hình, phần vì lối trêu cợt khéo léo, lão giỏi khích bác lẫn xoa dịu ngang nhau, thế là đa số khách lần đầu ghé tiệm luôn mua nhiều hơn dự tính. Lúc làm việc lão cứ hềnh hệch ba hoa không ngừng, chốc chốc lại nháy nháy cặp mắt xanh tròn, cái nọng rung rung, ngón tay ngắn mập thành thạo kéo đẩy thoăn thoắt chiếc máy xắt thịt, từng lát dăm-bông đều đặn rơi xuống lớp giấy bóng hứng bên dưới.

Khi đi làm Howard luôn đánh độc một bộ: áo sơ mi trắng, tạp dề vải dày màu lục đậm, quần nhung kẻ, mũ lưỡi trai hai vành đính một mớ mồi câu giả. Lâu lắm rồi chẳng ai còn cười cái mũ ấy của lão nữa. Cứ mỗi sáng trước khi vào làm, lão lại soi vào tấm gương nhỏ trong phòng rửa mặt nhân viên, nghiêm chỉnh chụp nó lên mái tóc xoăn dày xám.

Howard luôn thích cảm giác mở cửa tiệm mỗi sáng. Lão thích đi lòng vòng trong cửa hiệu vắng lặng, âm thanh duy nhất vang lên là tiếng tủ đông rì rầm, tận hưởng cảm giác đánh thức mọi thứ: bật đèn, kéo rèm, mở các nắp đậy để lộ ra niềm tự hào của quầy đông lạnh: nào là bông atisô xám xanh, ôliu đen nhức, cà chua sấy cuộn tròn lại như bầy cá ngựa đỏ ngâm trong dầu trộn rau thơm nghiền.

Nhưng sáng nay nỗi sốt ruột làm lão không tận hưởng trọn vẹn niềm vui thường ngày. Bà bạn làm ăn Maureen đến trễ, mà lão cũng giống Miles hồi sáng nay, cứ lo có ai đó kể trước cho bà cái tin nóng hổi kia vì bà không có điện thoại di động.

Lão dừng bên lỗ trống mới trổ trên bức vách giữa cửa hiệu và tiệm giày cũ nay đang sửa thành tiệm café mới nhất ở Pagford, thử kéo tấm nhựa công nghiệp trong suốt bền chắc nhằm che bớt bụi từ công trình bay qua cửa hiệu thực phẩm. Bên đó tính khai trương quán café trước lễ Phục Sinh, vừa đúng lúc kéo du khách về vùng nông thôn miền Tây, Howard năm nào cũng chất đầy kệ cửa sổ đặc sản rượu táo, phô mai và búp bê ngô.

Có tiếng chuông cửa leng keng, lão quay phắt lại, trái tim từng trải qua ca phẫu thuật háo hức nhảy thùm thụp.

Bà Maureen là vợ góa của ông bạn cùng Howard gây dựng cửa hiệu khi xưa, bà năm nay sáu mươi hai tuổi, người mảnh khảnh, lưng gù. Cái dáng lòng khòng ấy làm bà trông già hơn tuổi thật, dù bà đã làm đủ mọi cách níu kéo tuổi xuân, như nhuộm tóc đen bóng, mặc quần áo sáng màu lại thêm đôi giày gót cao cheo leo, cứ đến cửa hiệu thì bà cởi đôi ấy ra đi sandal.

- Chào chị Mo. - Howard cất tiếng.

Lão quyết không vội vàng mà làm hỏng cái thú báo tin, nhưng chẳng mấy chốc khách hàng sẽ kéo tới mà lão có bao nhiêu chuyện để kể.

- Chị nghe tin gì chưa?

Bà nghi hoặc cau mày.

- Barry Fairbrother vừa mất rồi.

Mồm bà thành chữ O.

- Lẽ nào! Như thế nào?

Howard giơ tay vỗ vỗ đầu.

- Có chuyện. Chỗ này. Thằng Miles có mặt ngay lúc đó. Bãi xe câu lạc bộ golf.

- Lẽ nào! - Bà lập lại.

- Đi kiểu đó là hết cứu! - Howard nhấn thêm, làm như kiểu chết đó của Barry Fairbrother là cái gì thật xấu xa.

Vành môi tô son màu chói của Maureen vẫn trễ ra khi bà làm dấu thánh. Những lúc thế này, tôn giáo của bà luôn có hành động rất lâm ly.

- Cậu Miles cũng ở đó hả? - Bà quàng quạc hỏi. Lão nghe ra được vẻ hau háu khát tin trong cái giọng trầm khào khào của người từng hút thuốc lá đó.

- Hay chị đi bật ấm nước đi, Mo.

Ít ra lão cũng bắt bà chờ thêm được ít phút nữa. Bà ta bị sánh cả trà nóng ra tay vì vội vội vàng vàng trở lại nghe lão kể tiếp. Họ cùng ngồi trên chiếc ghế đặt sau quầy thường để ngồi nghỉ khi vắng khách, Maureen lấy một vốc đá ướp olive đắp vào chỗ tay bỏng. Hai người đưa đẩy vài ba chuyện hay nói trước bi kịch kiểu này: Chị vợ góa (“tội quá, chắc chị ta trống trải lắm, cả đời sống vì chồng mà”); bầy con nhỏ (“bốn đứa còn ăn chưa no lo chưa tới, không có cha thì biết làm sao”); chết sớm (“ổng đâu có già hơn cậu Miles bao nhiêu đâu, phải không?”) cuối cùng họ cũng bỏ qua mấy thứ râu ria để đi vào chuyện đáng quan tâm nhất.

- Rồi bây giờ sao? - Bà Maureen hồi hộp hỏi.

- À thì. - Howard đáp. - Vụ này mới là đau đầu đây. Giờ tự nhiên cánh ta có cái ghế khuyết ngoài dự kiến có khi làm nên chuyện đấy.

- Tự nhiên có cái gì? - Maureen hỏi lại, sợ nghe sót.

- Ghế khuyết ngoài dự kiến. - Howard lặp lại. - Nghĩa là vị trí trong hội đồng bị khuyết vì lý do người đương nhiệm qua đời. Thuật ngữ chuyên môn đấy. - Lão giảng giải.

Howard là chủ tịch hội đồng địa phương, và là người đứng đầu thị trấn Pagford. Chức vị này mang lại cho lão chuỗi mề đay mạ vàng, giờ nằm gọn trong chiếc két sắt nhỏ xíu mà lão và bà Shirley thiết kế dưới đáy tủ âm tường. Giả mà Pagford được nâng cấp lên thành phố thì hẳn lão đã tự gọi mình là thị trưởng rồi, dù vậy xét theo mọi nghĩa lão vẫn là người đứng đầu. Trên website của hội đồng, bà Shirley đã tỏ rõ vị thế đó. Dưới tấm ảnh Howard đầy sung mãn cổ đeo mề đay là đoạn giới thiệu cho biết lão sẵn lòng hợp tác trong các hoạt động cộng đồng lẫn kinh doanh tại địa phương. Mới vài tuần trước, lão đã phát chứng chỉ chạy xe đạp an toàn cho học sinh một trường tiểu học trong vùng.

Howard thong thả nhấp hớp trà, nhếch miệng cho giảm vẻ châm chích trong lời nói, “Cái tay Fairbrother đúng là chết tiệt, thật đấy, chị Mo. Một gã thực sự đáng ghét”.

- Ờ, chứ gì nữa, - Bà đáp. - tôi biết mà.

- Gã mà còn sống là lúc nào đó tôi sẽ làm cho một trận. Cứ hỏi vợ tôi thì biết, thằng cha ấy cứ thậm thà thậm thụt.

- Phải, tôi biết.

- Cứ đợi mà xem. Đợi đấy. Giờ vụ này thế nào cũng xong. Trời, thật ra tôi đâu muốn thắng kiểu này, - Lão thở đánh sượt. - nhưng xét về lợi ích chung cho Pagford... cho bà con…. thì vụ này kể ra cũng có cái may...

Howard nhìn đồng hồ.

- Sắp chín rưỡi rồi kìa.

Hai người họ chưa bao giờ mở trễ đóng sớm, việc kinh doanh chạy đều tăm tắp như lễ đền.

Bà Maureen tập tễnh đứng dậy mở khóa, kéo màn, từ từ mở ra quang cảnh quảng trường phía trước gọn gàng và đẹp mắt, đó là nhờ nỗ lực chung của các gia đình có dinh thự hướng ra quảng trường. Các bồn cây, bồn hoa, giỏ treo trồng đủ loại cây cỏ rực rỡ do mọi người cùng chọn theo từng năm. Quán Black Canon (một trong những quán rượu lâu đời nhất nước Anh) nằm đối diện cửa hiệu Mollision và Lowe phía bên kia quảng trường.

Howard hết ra lại vào, bưng mấy đĩa dài đầy ắp paté tươi xếp gọn gàng trong tủ kính, điểm thêm mấy lát cam và trái mâm xôi rực rỡ vui mắt. Howard hãy còn hơi hổn hển vì đã gắng sức quá nhiều trong mấy cuộc trò chuyện sáng nay, lão bỏ miếng paté cuối cùng xuống, đứng yên nhìn ra tấm bia tưởng niệm chiến tranh đặt giữa quảng trường một lát.

Thị trấn Pagford sáng nay vẫn đáng yêu như bao giờ, Howard cảm thấy rõ ngay lúc này niềm vui sống hiện hữu trong lão lẫn trên mảnh đất quê hương, sống động như nhịp tim đang đập... Lão đứng đây, say sưa tận hưởng - những chiếc ghế dài đen bóng, đám hoa tím đỏ chen nhau, ánh mặt trời lấp lánh viền đỉnh cây thập tự bằng đá - và Barry Fairbrother đã biến mất. Lão và Barry đã đấu đá nhau suốt bấy lâu nay, nên rõ ràng có thể hình dung cục diện khác hẳn nhờ sự cố bất ngờ này.

- Ông Howard. - Bà Maureen giật giọng. - Kìa ôngHoward!

Một phụ nữ đang sải bước băng ngang quảng trường; vóc người bà gầy guộc, mái tóc đen với làn da nâu, vạt áo choàng đập phần phật vào đôi bốt theo nhịp bước chân.

- Ông nghĩ cô ta có...? Cô ta đã nghe chuyện chưa? - Maureen thì thầm hỏi.

- Tôi làm sao biết được. - Howard đáp.

Bà Maureen sáng giờ vẫn chưa kịp đổi sang đôi giày sandal, suýt tí nữa trật mắt cá chân khi vội vàng rời cửa sổ quay về trước quầy. Howard đĩnh đạc đi sau, chiếm lĩnh hoàn toàn khoảng không sau quầy tính tiền như tay xạ thủ lão luyện vào vị trí.

Chuông cửa rung lên, bác sĩ Parminder Jawanda mặt mày khó đăm đăm đẩy cửa bước vào. Bà không mảy may liếc mắt tới hai người chủ cửa hàng, xăm xăm đi thẳng tới kệ đựng dầu ăn. Bà Maureen đảo mắt nhìn theo chăm chắm như chim ưng đang nhắm đến chú chuột đồng.

- Sáng nay đẹp trời nhỉ. - Howard lên tiếng khi bà Parminder cầm một chai dầu bước tới quầy tính tiền.

- Chào ông.

Bác sĩ Jawander hiếm khi nhìn thẳng vào lão, dù họ đụng mặt nhau tại hội đồng địa phương hay bên ngoài nhà thờ. Howard luôn khoái nhìn cái vẻ chán ghét không giấu nổi của bà, vậy nên lão đâm ra vui tính và cực kỳ lịch thiệp.

- Hôm nay chị không phải đi làm sao?

- Không. - Bà Parminder lục ví.

Bà Maureen không nhịn được nữa.

- Có chuyện khủng khiếp lắm, - Bà lên tiếng, giọng khàn khàn. - về Barry Fairbrother.

- Ờ. - Parminder ừ hữ cho qua, rồi hỏi thêm. - Chuyện gì?

- Về ông Barry Fairbrother.

- Ông ta thì làm sao?

Khẩu âm vùng Birmingham của bà Parminder vẫn còn khá rõ dù bà sống ở Pagford đã được mười sáu năm. Nếp nhăn sầu thường trực giữa cặp chân mày khiến bà trông lúc nào cũng căng thẳng như đang bực tức hay tập trung.

- Ông ấy chết rồi. - Maureen trả lời, háo hức dán mắt vào gương mặt đang cau có kia. - Tối qua. Ông Howard mới kể tôi nghe.

Bà Parminder sững lại, bàn tay còn nguyên trong ví. Mắt bà đảo sang phía Howard.

- Ông ấy gục xuống rồi đi luôn, ở bãi đậu xe câu lạc bộ golf. - Howard nói. - Lúc đó thằng Miles nhà tôi cũng có mặt chứng kiến.

Thêm vài giây ngột ngạt trôi qua.

- Nói đùa đấy hả? - Cuối cùng bà Parminder quát lên the thé.

- Tất nhiên là không rồi. - Bà Maureen thích thú đáp dù vừa bị xúc phạm. - Ai lại lấy chuyện này ra mà đùa chứ?

Bà Parminder đặt chai dầu đánh cốp xuống mặt quầy bằng kính rồi bước thẳng khỏi tiệm.

- Thế đấy. - Bà Maureen khoái trá dè bỉu. - “Nói đùa đấy hả”, lịch sự ghê!

- Thì bị sốc mà. - Howard ra vẻ hiểu biết, nhìn theo bóng Parminder vội vã băng ngang quảng trường, áo choàng bay phần phật phía sau. - Bà ấy cũng buồn chẳng kém gì bà vợ đâu. Rồi xem, vụ này sẽ hay lắm đây, - Lão nói thêm, gãi gãi cái bụng lúc nào cũng ngưa ngứa, - để xem bà ta có...

Lão bỏ lửng câu nói, nhưng chẳng hề gì, bà Maureen hoàn toàn hiểu. Cả hai cùng suy tính về cái ghế tự nhiên khuyết khi nhìn dáng bà ủy viên hội đồng Jawanda khuất sau ngã rẽ. Đối với họ, cái ghế trống chẳng khác nào chiếc túi ảo thuật thần kỳ chứa đầy những điều bất ngờ.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3