Gió qua rặng liễu - Chương 06 part 2

“Tuy thế, tớ vẫn e rằng cậu bận tâm về nỗi phiền toái này,” thằng Cóc uể oải trả lời. “Tớ có thể hiểu rõ điều đó. Cũng là lẽ tự nhiên thôi mà. Cậu mệt mỏi vì bận tâm về tớ. Tớ không thể đề nghị cậu làm thêm bất kỳ việc gì nữa. Tớ là một nỗi phiền toái, tớ biết chứ.”

“Quả đúng là thế,” Chuột Nước nói. “Nhưng hãy nghe tớ nói, tớ sẵn lòng làm bất kỳ công việc khó nhọc nào trên đời vì cậu, giá như cậu là một con vật biết điều.”

“Chuột Nước ơi, thế thì nếu tớ nghĩ rằng,” thằng Cóc thều thào yếu ớt hơn bao giờ hết, “tớ sẽ cầu xin cậu – có thể là lần cuối – rảo bước thật nhanh vào làng – thậm chí bây giờ có thể đã quá muộn – và tìm bác sĩ. Nhưng cậu đừng bận tâm. Việc đó chỉ gây phiền toái, và có lẽ chúng mình cũng có thể cứ để cho mọi việc tiến triển một cách tự nhiên.”

“Sao, cậu cần bác sĩ để làm gì?” Chuột Nước vừa hỏi vừa tiến lại gần hơn và xem xét. Rõ ràng là thằng Cóc đang nằm bẹp không nhúc nhích, còn giọng nói của nó thì yếu hơn và thái độ của nó đã thay đổi nhiều.

“Chắc chắn là gần đây cậu đã để ý – “ thằng Cóc thều thào. “Nhưng không – việc gì cậu phải để ý? Để ý đến mọi sự chỉ thêm phiền toái. Chắc chắn ngày mai cậu có thể tự nhủ, ‘Ồ, giá mà mình để ý sớm hơn! Giá mà mình đã làm một điều gì đó!’ Nhưng mà, không; việc đó chỉ gây phiền toái. Đừng bận tâm – hãy quên cái việc tớ đã đề nghị đi”

“Hãy nghe tớ nói, anh bạn thân mến,” Chuột Nước nói, bắt đầu thấy khá hoảng hốt, “cố nhiên tớ sẽ tìm bác sĩ cho cậu, nếu cậu nghĩ rằng cậu thật sự cần. Nhưng cậu đâu có thể ốm yếu đến mức cần đến bác sĩ bây giờ. Chúng mình hãy nói chuyện gì khác nhé.”

“Anh bạn thân mến, tớ sợ,” thằng Cóc vừa nói vừa mỉm cười buồn rầu, “rằng ‘nói chuyện’ chẳng có tác dụng gì đối với một trường hợp như thế này – mà cả các bác sĩ cũng vậy, đối với căn bệnh này; nhưng mà còn nước thì ta còn phải tát. À, nhân thể – trong lúc cậu tiến hành việc đó – tớ rấtkhông thích gây thêm phiền toái cho cậu, nhưng tớ bỗng nhớ ra là cậu sẽ đi ngang qua nhà ông luật sư – phiền cậu vui lòng mời giúp ông ấy nữa nhé? Như thế sẽ thuận tiện cho tớ, và có những khoảnh khắc – có lẽ tớ phải nói có một khoảnh khắc – khi người ta phải đối mặt với những nhiệm vụ khó chịu, bằng bất cứ giá nào, vào lúc sức cùng lực kiệt!”

“Một luật sư! Ồ, cu cậu hẳn phải thật sự nguy kịch lắm!” Chuột Nước thất kinh tự nhủ trong lúc hối hả rời khỏi phòng, tuy vẫn không quên khóa cửa lại cẩn thận.

Ra đến bên ngoài, nó dừng lại suy tính. Hai người bạn kia đang còn ở tận đẩu tận đâu, nó chẳng có ai để mà hỏi ý kiến.

“Tốt nhất là phải chắc chắn,” nó nói sau khi đã cân nhắc kỹ. “Mình biết trước kia thằng Cóc đã bỗng dưng tưởng tượng là nó ốm nặng; song mình chưa bao giờ nghe nó đề nghị cho gặp một luật sư cả! Nếu sự thể không có gì nghiêm trọng, bác sĩ sẽ bảo nó là đồ đại ngu xuẩn, và khích lệ nó; và như thế sẽ là một điều có ích. Mình cứ chiều ý nó mà đi thì tốt hơn; cũng chẳng mất nhiều thì giờ lắm.” Thế là nó vội vã chạy tới ngôi làng kia với một mục đích từ thiện.

Thằng Cóc đã nhẹ nhàng nhảy ra khỏi giường ngay lúc nó nghe tiếng chìa khóa vặn trong ổ khóa, hí hửng theo dõi từ trên cửa sổ cho tới khi bạn mình khuất dạng cuối con đường dành cho xe ngựa. Rồi, vừa cười vang hoan hỉ, nó vừa mặc thật nhanh bộ cánh bảnh nhất mà nó có thể tìm được

vào lúc ấy, nhét đầy các túi số tiền nó lấy trong chiếc ngăn kéo nhỏ của cái bàn trang điểm, và sau đó buộc thắt nút những tấm khăn trải giường với nhau và cột một đầu sợi dây tự tạo ấy vào chấn song giữa của cái cửa sổ được xây theo phong cách Tudor(23) tạo ra một nét riêng cho phòng ngủ của nó, rồi nó trèo ra ngoài và nhẹ nhàng tụt xuống đất. và, nhằm hướng ngược chiều với Chuột Nước, nó vừa vô tư đều đều tiến bước vừa huýt sáo một giai điệu tươi vui.

Bữa trưa hôm ấy đối với Chuột Nước thật là buồn chán khi mà rốt cuộc bác Lửng và Chuột Chũi cũng trở về, và nó phải đối mặt với chúng cùng câu chuyện tệ hại và không có sức thuyết phục của mình. Những lời nhận xét vừa chua cay lại vừa thô bạo của bác Lửng thì ta có thể hình dung được và chẳng phải bàn nhiều; nhưng thật đau xót cho Chuột Nước là ngay cả Chuột Chũi vẫn luôn hết sức ủng hộ nó, cũng không thể không nói, ‘Dạo này cậu là một kẻ hơi vô dụng đấy, Chuột Nước à! Thằng Cóc cũng vậy, vô dụng nhất trong các loài vật!”

“Nó diễn kịch khéo kinh khủng,” Chuột Nước tiu nghỉu nói.

“Nó lừa cậu khéo kinh khủng!” bác Lửng nóng nảy đốp lại. “Tuy nhiên, tranh cãi cũng chẳng cải thiện được tình hình. Lúc này nó đã đi khá xa rồi, chắc chắn là như thế; và khả năng tệ hại nhất là nó sẽ quá tự phụ về những gì mà nó cho là trí thông minh của mình đến nỗi có thể gây ra bất kỳ hành động ngu xuẩn nào. Có điều an ủi là lúc này bọn mình đang rỗi rãi và không cần phải uổng phí chút thời gian quý báu nào vào cái việc làm lính gác nữa. Nhưng bọn mình cũng nên ngủ lại Lâu đài Cóc thêm một lát. Có thể thằng Cóc sẽ được đưa trở về bất kỳ lúc nào – trên một cái cáng, hoặc giữa hai viên cảnh sát.”

Bác Lửng nói vậy vì bác cũng không biết rồi còn có sự kiện gì bất ngờ hay không, hoặc còn phải xảy ra bao nhiêu sự cố tệ hại nữa(24) rồi thằng Cóc mới lại được thanh thản ngồi trong tòa Lâu đài của tổ tiên nó để lại.

Cùng thời gian này, thằng Cóc hớn hở và vô trách nhiệm đang bước nhanh trên đường quốc lộ, cách nhà nó vài dặm. Thoạt đầu, nó men theo những đường mòn và băng qua nhiều thửa ruộng và thay đổi hướng đi vài lần để đề phòng trường hợp bị đuổi bắt; nhưng lúc này, cảm thấy đã an toàn và không thể bị bắt lại, và mặt trời mỉm cười rạng rỡ với nó, và tất cả Thiên nhiên đều đồng thanh với bài hát tự ca ngợi bản thân đến nỗi nó thấy trái tim mình ca vang, nó hầu như nhảy múa trên đường, lòng chứa chan mãn nguyện và tự hào.

“Màn kịch ấy hay thật!” nó vừa tự nhận xét vừa tủm tỉm cười. “Trí tuệ đối chọi với sức mạnh vũ phu – và trí tuệ ấy đã thắng – lẽ thường là phải thế. Tội nghiệp anh bạn Chuột Nước! Trời ơi! Cu cậu sẽ lãnh đủ khi bác Lửng trở về! Chuột Nước ơi, cậu là một người bạn đáng kính nể, với nhiều phẩm chất tốt, nhưng lại quá ít thông minh và hoàn toàn vô học. Một ngày nào đó mình sẽ phải rèn cho cu cậu xem có khôn ra được một chút không.”

Đầu nó đầy ắp những ý nghĩ cao ngạo như thế trong lúc nó sải bước trên đường, lòng lâng lâng, cho tới khi đến một thị trấn nhỏ, tại đó tấm biển “Sư tử đỏ” đu đưa ngang đường ở quãng giữa phố chính nhắc nhở nó rằng ngày hôm đó nó chưa ăn điểm tâm và nó đã đói quá chừng sau cuộc bộ

hành dài. Nó bước vào quán trọ đó và gọi một bữa ăn trưa ngon nhất mà người ta có thể chuẩn bị thật gấp theo yêu cầu của nó rồi ngồi ăn trong phòng uống cà-phê.

Nó còn đang dở bữa chưa xong thì một âm thanh quá ư quen thuộc mỗi lúc một đến gần và xuôi về cuối phố khiến nó giật mình và toàn thân run rẩy. Cái âm thanh píp-píp ấy cứ đến gần mãi và có thể nghe thấy tiếng chiếc xe hơi đó rẽ vào sân quán trọ rồi dừng lại, còn thằng Cóc phải bám chặt lấy chân bàn để giấu đi nỗi xúc động không thể nào kiềm chế được của mình. Lát sau, một tốp người bước vào phòng cà phê, vừa đói bụng vừa hớn hở và ba hoa liến thoáng về những điều họ nếm trải trong buổi sáng hôm đó và về công lao của chiếc xe đã chở họ đi thật là nhanh. Thằng Cóc háo hức lắng nghe thật chăm chú một lúc; cuối cùng nó không thể nào chịu ngồi yên được nữa. Nó lặng lẽ lẻn ra khỏi phòng, thanh toán hóa đơn tại quầy rượu, và vừa ra đến bên ngoài nó đã lặng lẽ tản bộ quanh sân quán trọ. “Cũng chẳng có gì tai hại,” nó tự nhủ, “nếu mình chỉ nhìn ngắm nó một chút!”

Chiếc xe đậu ở giữa sân, toàn bộ bọn trông nom chuồng ngựa và những kẻ theo đóm ăn tàn khác đều đang dùng bữa. Thằng Cóc chậm rãi bước vòng quanh chiếc xe, vừa xem xét vừa bình phẩm vừa suy nghĩ rất lung.

“Không biết,” lát sau nó tự nhủ, “không biết loại xe này có dễ khởi động không?”

Sau đó, chẳng biết loay hoay thế nào, nó đã thấy mình nắm lấy cái cần gạt mà xoay xoay. Khi cái âm thanh quen thuộc kia bật ra, nỗi đau xưa lại ập đến và hoàn toàn chế ngự thằng Cóc. Không biết làm sao, cứ như thể trong một giấc mơ, nó thấy mình ngồi vào ghế tài xế; cứ như thể trong một giấc mơ, nó kéo cái cần điều khiển và lái xe vòng trong sân rồi lao vút ra ngoài qua cổng tò vò; và, cứ như thể trong một giấc mơ, tất cả mọi ý thức về phải trái, tất cả nỗi sợ về những hậu quả hiển nhiên dường như tạm thời lắng xuống. Nó tăng tốc, và trong lúc chiếc xe hơi nuốt chửng đường phố và ào ào lao trên xa lộ qua vùng đồng không mông quạnh, nó chỉ biết rằng một lần nữa nó lại là anh chàng Cóc, Cóc – nỗi kinh hoàng xa lộ, bá chủ đường mòn mà tất cả các xe khác đều phải nhường đường nếu không muốn bị đập tan tành để văng vào cõi hư vô và đêm trường vĩnh cửu. Nó hát vang trong lúc lái xe như bay, và chiếc xe đáp lại bằng tiếng ù ù vang vang; những dặm dài bị nuốt chửng dưới gầm xe khi nó tăng tốc chạy bừa chẳng biết về đâu, chỉ để thỏa mãn bản năng của mình, sống những phút giây của mình, chẳng cần biết điều gì có thể xảy đến với nó.

* * *“Theo tôi nghĩ,” Chủ tịch Hội đồng Thẩm phán vui vẻ nhận xét, “khó khăn duy nhất này sinh trong cái vụ lẽ ra đã rất rõ ràng này là ở chỗ chúng ta có thể bằng cách nào tỏ ra đủ nghiêm khắc đối với gã bất lương không thể sửa chữa này, tên vô lại lì lợm này – kẻ mà chúng ta thấy đang co rúm lại trong vành móng ngựa trước mặt chúng ta đây. Để tôi xem nào: gã đã bị tuyên là phạm tội với bằng chứng rành rành, thứ nhất, về việc ăn trộm một chiếc xe hơi có giá trị; thứ hai, về việc lái xe gây nguy hiểm cho công chúng; và thứ ba, về thái độ láo xược với cảnh sát nông thôn. Ông Lục sự, xin ông cho chúng tôi biết mức hình phạt nghiêm khắc nhất mà chúng ta có thể áp dụng đối với từng tội một trong số đó là thế nào? Cố nhiên là không thể chấp nhận tù nhân đó vô tội vì thiếu bằng chứng rõ ràng, bởi chúng ta có đủ bằng chứng.”

Viên Lục sự gãi gãi cái mũi bằng cây bút của mình. “Vài người có thể sẽ coi,” ông nhận xét, “việc trộm chiếc xe hơi là tội nghiêm trọng nhất, và quả đúng là thế. Nhưng láo xược với cảnh sát hiển nhiên là phải chịu hình phạt nghiêm khắc nhất; mà phải như thế. Giả sử các ông sắp sửa tuyên mười hai tháng về tội ăn trộm, như thế là nhẹ, ba năm về tội lái xe bạt mạng, như thế là khoan dung, và mười lăm năm tù về hành vi hỗn xược, theo những gì chúng ta đã nghe được từ hàng ghế nhân chứng thì sự hỗn xược này khá là tồi tệ, nếu như các ông thậm chí chỉ tin một phần mười những điều đã nghe, còn tôi chẳng bao giờ tin nhiều hơn – những con số đó nếu cộng lại thật chính xác sẽ là mười chín năm…”

“Rất giỏi!” ông Chủ tịch nói.

“Vậy tốt hơn là các ông cứ tuyên tròn hai mươi năm cho chắc ăn,” ông Lục sự kết luận.

“Gợi ý thật tuyệt vời!” ông Chủ tịch nói, vẻ tán thưởng.

“Thằng tù kia! Hãy bình tĩnh và cố đứng thẳng người lên. Lần này mày sẽ lĩnh án hai mươi năm tù. Mà hãy nhớ, nếu mày còn xuất hiện trước mặt chúng tao vì bị buộc bất kỳ tội gì, thì chúng tao sẽ xử trí mày rất nghiêm đấy!”

Sau đó bọn thuộc hạ của pháp luật xông vào thằng Cóc bất hạnh, xiềng xích chân tay nó và lôi nó ra khỏi Tòa án, cu cậu vừa la hét vừa van nài vừa phản kháng; giải nó qua khu chợ, tại đó đám dân thường – bao giờ cũng nghiêm khắc với tội phạm đã bị bắt đồng thời cũng cảm thông và đỡ

đần khi một người nào đó chỉ bị truy nã – đã tấn công nó bằng những tiếng cười nhạo báng, những củ cà rốt và những câu vè dân giã; rồi qua đám học sinh đang la ó, mặt chúng rạng rỡ lên mỗi khi được khoái chí nhìn một người cao sang lâm cảnh khốn cùng; lại qua cây cầu kéo phát ra một âm thanh trầm trầm vô cảm phía dưới tấm khung lưới sắt lởm chởm sắc nhọn, qua cái cổng tò vò đang cau mày của tòa lâu đài cổ ảm đạm với những cái tháp cổ kính vút lên trời; qua những phòng danh cho lính gác đầy những lính tráng hết phiên đang toe toét cười, qua những người lính gác – bọn này ho hắng châm chọc dễ sợ, bởi trong lúc đứng gác, một người lính chỉ dám thể hiện sự khinh bỉ và ghê tởm tội ác đến mức ấy; lên những cầu thang ngoằn ngoèo đã cũ mòn vì thời gian, ngang qua những kị binh vận giáp trụ bằng thép đang quắc mắt nhìn giận dữ qua tấm che mặt của họ; qua những cái sân, tại đó những con chó giữ nhà to lớn ráng sức kéo căng dây buộc để nhảy chồm vào nó; qua những người giám ngục đã dựng giáo mác vào tường và đang vừa lơ mơ ngủ vừa ăn bánh nướng nhân thịt bên một bình rượu bia nâu; cứ tiếp tục đi mãi, qua phòng cực hình trói đánh và phòng cực hình kẹp ngón tay, qua chỗ ngoặt dẫn tới đoạn đầu đài bí mật, cho tới khi chúng đến cửa ngục tối nghiêm ngặt nhất nằm chính giữa tòa tháp trong cùng. Rốt cuộc, chúng dừng lại ở đó, nơi một lão cai ngục đang mân mê một chìm chìa khóa to tướng.

“Này lão cai ngục!” viên trung sĩ cảnh sát vừa nói vừa bỏ cái mũ sắt ra và lau trán. “Hãy tỉnh táo lên, lão khùng, để còn tiếp quản giúp chúng tôi cái thằng Cóc đốn mạt này, một kẻ phạm tội cực kỳ nghiêm trọng, ranh ma xảo quyệt vô cùng. Lão phải canh gác và cảnh giác với hắn bằng tất cả kỹ năng của mình đấy. Mà xin lưu ý, lão râu bạc, nếu xảy ra bất kỳ chuyện gì thì lão phải chịu trách nhiệm bằng cái mạng già của mình – nếu không cả hai sẽ toi đời đấy!”

Lão cai ngục vừa nghiêm nghị gật đầu vừa đặt bàn tay khô héo của mình lên vai thằng Cóc bất hạnh. Chiếc chìa khóa han gỉ kêu cót két trong ổ khóa, cánh cửa lớn lại loảng xoảng sau lưng bọn họ; và thằng Cóc trở thành một tù nhân bất lực trong ngục tối biệt lập nhất của tòa tháp được can gác cẩn mật nhất trong cái lâu đài vững chãi nhất trên toàn cõi Anh quốc vui vẻ trẻ trung.

———————————-

22. Trường Chủ nhật: trường dạy về tôn giáo cho trẻ em vào các ngày Chủ nhật ở nước Anh. Câu này hàm ý thằng Cóc tỏ ra rất ngoan – ND

23. Tudor: kiểu kiến trúc cổ ở Anh, giữa 1485 và 1603 – ND

24. Trong nguyên tác: còn phải bao nhiêu nước và nước đục cỡ nào chảy qua cầu. (How much water, and of how turbib a character, was to run under the bridges).