Lá cờ ma - Chương 06 - Phần 2

Ngày 17 tháng 7 năm 1928, trời nắng.

Mình vốn không có thói quen ghi nhật kí, nhưng hôm nay xảy ra một chuyện khiến mình hạ quyết tâm phải ghi chép lại. Những dòng này chỉ là điểm khởi đầu, hi vọng mình có thể viết tiếp cho tới điểm cuối cùng. Mình biết tổ tông trên trời cao đang dõi theo mình.

Hôm nay, mình đã gặp Hán Chương tại Tuân Hóa (vốn dĩ tôi không biết Hán Chương là ai, nhưng đọc tới phần sau, Hán Chương có lẽ là tên chữ của Tôn Huy Tổ). Nó kể với mình rằng, mấy hôm trước, nó đã cùng Tôn Điện Anh thực hiện một phi vụ lớn, thu hoạch được vô khối thứ hữu ích. Nó cho mình xem một tá châu báu, đều là những của quý mà bình sinh mình chỉ được ngó qua. Mình hỏi cặn kẽ nó mới biết Tôn Điện Anh mang quân đi đào mộ của Từ Hi Thái Hậu và Hoàng đế Càn Long.

Trông thấy mình, Hán Chương hơi ngạc nhiên. Nó còn kể với mình một chuyện khác. Lúc nó tiến vào mộ thất của Hoàng đế Càn Long đã xảy ra một chuyện quái dị khiến nó sợ mất mật. Tôn Điện Anh đã có nghiêm lệnh, không được để sự việc này đồn thổi ra bên ngoài, nếu mình không phải là đại ca của Hán Chương, có lẽ nó sẽ không nói cho mình biết.

Khi đám người tiến vào gian mộ thất cuối cùng của lăng mộ Hoàng đế Càn Long và cho bom nổ tung cánh cửa đá, Hán Chương là người đầu tiên định nhào vào bên trong, nhưng chưa kịp bước được một bước, nó đã hãi hùng tới nỗi ngồi phịch xuống đất.

Nếu không phải do Hán Chương chính miệng kể lại với mình thì mình sẽ không dám tin tam đệ của mình lại có thể thất kinh đến thế.

Tất cả những người theo ngay sau Hán Chương lúc đó, kể cả Tôn Điện Anh gan lớn tày trời cũng sợ run người.

Có điều, đám người đó chỉ trông thấy một lá cờ mà thôi. Trên bức tường ở phía trong cùng của gian mộ thất có treo một lá cờ lớn. Hán Chương hồn xiêu phách tán là do nó nhìn thấy lá cờ đó. Những người khác cũng thế. Lúc đầu, tất cả mọi người cứ ngỡ, Hoàng đế Càn Long nổi giận và bọn họ đã bị trúng lời chú nguyền.

Lúc đó, không một ai dám bước vào. Tôn Điện Anh phải mời mấy công binh của doanh trại công binh tới tương trợ. Ba người đầu tiên cầm súng bắn liên hồi, song không dám bước vào. Tới người thứ tư, anh ta đành miễn cưỡng bò vào. Lúc sau, anh ta mới rõ, lá cờ đó từ xa nhìn lại sẽ hồn phách rụng rời nhưng lại gần thì không sao cả.

Hán Chương không phải là con trưởng nên nó tuy biết sự huy hoàng của gia tộc Tôn Thị cuối thời nhà Hán, nhưng có một số bí mật thì chỉ con trưởng mới đủ tư cách được biết.

Hán Chương lần đầu tiên trông thấy mình thất sắc như thế. Trong mắt của nó, người anh cả như mình bao giờ cũng vững như Thái Sơn.

Có lẽ nên gọi Lão Nhị và Lão Tứ tới. Lá cờ đó đã xuất hiện thì cơ hội của gia tộc Tôn Thị cũng tới.

Chỉ cần bốn anh em nhà mình tìm thấy cuốn sách đó.

Ngày 9 tháng 8 năm 1928, trời âm u, có sấm khan.

Cuối cùng, Hán Thăng cũng đã tới, huyết mạch trên dương gian của gia tộc Tôn Thị chỉ còn lại bốn anh em nhà mình.

Trời không mưa mà có sấm khan, hẳn nhiên là một điềm báo.

Cơ hội cuối cùng đã tới và điều cấm kị chỉ truyền lại cho con trưởng của gia tộc đã bị phá bỏ. Tất cả mọi người trong gia tộc Tôn Thị đều phải phấn đấu vì mục tiêu này, đáng tiếc là chỉ còn lại có bốn anh em nhà mình.

Mình đã kể hết với các em.

Liệt tổ liệt tông đã dốc hết tâm cơ mà vẫn không thể tìm thấy ngôi mộ cổ đó, bây giờ mọi hi vọng đều gửi cả vào lá cờ này.

Nhưng lá cờ đó hiện nay đang ở trong tay Tôn Điện Anh. Dù Hán Chương đi theo Tôn Điện Anh đã nhiều năm nhưng nếu hỏi xin lá cờ một cách thẳng thắn, Tôn Điện Anh có lẽ sẽ không gật đầu.

Bốn anh em bàn bạc cả một buổi chiều, vẫn chưa ngã ngũ.

***

Ngày 13 tháng 11 năm 1929, trời nhiều mây.

Hán Chương vẫn không có được lá cờ đó. Tôn Điện Anh cất giấu những bảo bối như thế rất kĩ.

Rốt cuộc thì phải chờ đợi thêm bao nhiêu lâu nữa? Rốt cuộc thì gia tộc Tôn Thị nhà mình còn có cơ hội phục hưng nữa hay không? Câu hỏi ấy luôn dằn vặt mình từng giây từng phút, nhưng mình không thể để lộ cho các em thấy, trước mặt chúng, mình vẫn phải tỏ ra tự tin.

Nhưng vì sao để mình thấy hi vọng rồi lại làm cho niềm hi vọng ấy mỗi lúc một mịt mờ?

Chỉ có thể trách ông trời thôi!

***

Ngày 17 tháng 3 năm 1934, trời nhiều mây.

Hôm nay nhận được điện khẩn của Hán Chương: việc đã thành.

Mình không kìm nén được, òa khóc nức nở.

Mình cứ tưởng sẽ không còn cơ hội để ghi chép thêm điều gì vào cuốn sổ này nữa, đã hơn năm năm rồi.

Mình phải mau chóng lên đường.

***

Ngày 20 tháng 3 năm 1934, trời hửng nắng.

Mình không ngờ lại gặp Hán Chương trong bệnh viện. Nó bị đạn găm vào phổi. Lúc trò chuyện với nó, nó bảo, thân thể có cường tráng rắn rỏi đến đâu đi nữa cũng chẳng nhằm nhò gì so với mấy viên đạn.

Nhưng cũng nhờ viên đạn đó mà bốn anh em nhà mình mới lại được thấy niềm hi vọng.

Nó đã đỡ viên đạn ấy thay cho Tôn Điện Anh.

Tôn Điện Anh là người ân trả nghĩa đền, ông ta bảo Hán Chương, nó muốn gì, ông ta cũng thỏa nguyện.

Vì thế, ông ta hứa sẽ cho Hán Chương lá cờ đó, nhưng phải chờ sau khi nó ra viện.

Việc cần làm bây giờ là chờ đợi.

Đành chờ đợi.

***

Ngày 3 tháng 5 năm 1934, trời mưa.

Cuối cùng cũng có được lá cờ đó.

Dù đã chuẩn bị về mặt tâm lí nhưng khi đứng cách xa lá cờ đó ba mươi mét, mình vẫn sợ đến nỗi nằm bẹp xuống đất.

Có điều, mình vui lắm, vì nó đúng là lá cờ đó. Tay phất lá cờ, ngàn quân đại bại.

Hi vọng là lá cờ này sẽ giúp anh em mình tìm thấy cuốn sách đó, hi vọng là những suy đoán của tổ tiên hoàn toàn đúng.

Nhưng bây giờ thì chưa được, vẫn phải chờ đợi và chờ đợi, đợi cơ hội Hán Chương và lá cờ đó mất hút khỏi tầm mắt của Tôn Điện Anh.

Đã đợi lâu như vậy rồi, anh em mình cách mục tiêu không xa nữa.

***

Ngày 18 tháng 1 năm 1935, trời có tuyết.

Tôn Điện Anh thất thế đã được một quãng thời gian, mình có cảm giác như thời khắc đã điểm.

Phải bàn bạc với tụi Hán Chương, có thể bắt tay vào hành động được rồi.

Chỉ đợi trận tuyết này ngừng rơi.

***

Ngày 20 tháng 1 năm 1935, trời hửng nắng.

Kế hoạch mượn lửa chạy trốn thành công.

Hán Chương đi theo Tôn Điện Anh bao nhiêu năm như vậy, ông ta không thể ngờ rằng, một Tôn Huy Tổ trung thành theo ông ta tới tận Sơn Tây sau khi ông ta thất thế lại có thể mượn lửa đào tẩu.

Có lẽ ông ta chỉ có thể khóc rống lên thôi. Những người đi theo ông ta năm xưa giờ không còn một ai, ngoại trừ Hán Chương.

Cũng may là mấy anh em tìm được một người có thân hình giống với Hán Chương để chết thay.

Từ hôm nay trở đi, anh em mình có thể thực hiện bước tiếp theo của kế hoạch rồi.

Ở vào thời hoàng kim, thế lực của Tôn Điện Anh cũng không thể vượt qua sông Trường Giang nên mấy anh em nhà mình sẽ an toàn.

***

Tôi lật từng trang, từng trang của cuốn nhật kí, có lúc phải dùng móng tay để cạo bớt những vết máu che lấp nét chữ, đầu móng tay đã chuyển sang màu đỏ sậm.

Mấy chục trang tiếp theo ghi lại những hành động của bốn anh em nhà họ Tôn trong khoảng thời gian hơn một năm. Họ đã đặt chân tới mọi thành phố, huyện thị, làng xã khắp miền Giang Nam, đã đi qua từng tấc đất của hai tỉnh Giang Chiết[2]. Rõ ràng, các vị tổ tông của họ cũng không biết vị trí chính xác của ngôi mộ cổ đó.

[2] Giang Chiết: tức tỉnh Giang Tô và Chiết Giang.

Đáng tiếc, tôi không tìm thấy câu trả lời cho bất kì một câu hỏi quan trọng nào, ví dụ như ngôi mộ cổ đó rốt cuộc là mộ của ai chẳng hạn. Từ đầu tới cuối, Tôn Diệu Tổ chỉ dùng những từ như “ngôi mộ cổ đó”, hay “ông ấy” để ám chỉ mà không hề viết rõ ràng. Cả cụm từ “cuốn sách đó” cũng tương tự như thế.

Con người ta khi viết nhật kí, nếu đối diện với những sự việc bí ẩn không thể diễn tả bằng lời thường dùng một cách nói mơ hồ nào đó để thay thế, họ muốn né tránh nó như một bản năng, và trường hợp tôi đang gặp phải là một ví dụ như thế.

Xét trên tổng thể thì cuốn nhật kí này cũng giúp tôi giải đáp một số nghi vấn, như vì sao Tôn Huy Tổ lại là người vác cờ?

***

Ngày 24 tháng 2 năm 1935, trời mưa nhỏ.

Ngày mai đến lượt Lão Tứ vác cờ, nhưng nó không vui vẻ lắm.

Nó và Lão Nhị có chung một ý kiến là nên cố định một người vác cờ, như thế sẽ giúp người vác cờ có nhiều cơ hội để gần gũi lá cờ hơn. Nghe nói, những thần binh lợi khí trong truyền thuyết đều có ý thức và cảm nhận riêng của nó, có lẽ làm như thế sẽ tạo ra mối giao cảm giữa người vác cờ và lá cờ, nhờ đó việc tìm thấy ngôi mộ cổ đó sẽ dễ dàng hơn.

Việc này thì chỉ có Lão Tam mới đảm đương nổi, vì lá cờ đó tính cả cán dễ có đến hơn 30 cân[3] trọng lượng, mình mới chỉ vác một ngày đã thấy mệt rã rời. Lão Nhị và Lão Tứ cũng chẳng khá khẩm hơn mình.

[3] Một cân Trung Quốc bằng 0,5kg.

Việc này cứ quyết định như thế, từ nay về sau, Hán Chương sẽ là người vác cờ.

Có một điều tuy mấy đứa chúng nó không nói với mình nhưng mình vẫn biết.

Ấy là vác lá cờ này có phần huênh hoang quá.

Tôn Diệu Tổ chỉ viết đến đây thì ngừng. Có lẽ, cả ba người còn lại đều được đọc cuốn nhật kí này nên Tôn Diệu Tổ không viết quá chi tiết.

“Có phần huênh hoang quá”, nghĩa là như thế nào nhỉ? Tôi thử suy ngẫm một chút, vác một lá cờ to như thế đi trên những con phố của thành phố, những cánh đồng của làng xã, người người trông tỏ, họ không thể xem như đang đi giữa chốn không người, Lão Nhị và Lão Tứ nhà họ Tôn tất nhiên cảm thấy xấu hổ. Đây có lẽ mới là nguyên nhân thực sự khiến bốn anh em nhà họ Tôn quyết định để Tôn Lão Tam vác cờ.

Thì ra bốn anh em nhà họ Tôn không phải tất cả đều chung một lòng, chỉ có Tôn Diệu Tổ và Tôn Huy Tổ là người kiên định nhất.

Trong cuốn nhật kí, Tôn Diệu Tổ không dành một phần riêng để nói rõ mối dây liên hệ giữa việc vác lá cờ đó đi trên đường với việc phát hiện vị trí của ngôi mộ cổ. Ông ta chỉ ghi chép lại việc mình đã từng sáu lần giải thích điều đó với ba đứa em trước và sau khi sự việc xảy ra. Xâu chuỗi chúng lại với nhau, tôi cũng nắm được đại ý.

Lá cờ đó có mối liên hệ mật thiết với một đồ vật nào đó trong ngôi mộ cổ, khả năng cao nhất chính là cuốn sách đó, hoặc có thể là đồ vật khác, điều này không được Tôn Diệu Tổ ghi chép tỉ mỉ, nhưng ắt hẳn phải có nguyên nhân sâu xa nào đó, có thể chúng cùng nguồn gốc, hoặc chúng có một tác dụng tương tự như nhau. Các vị tổ tiên của nhà họ Tôn suy đoán, giữa hai vật này có thể có tác dụng cộng hưởng hoặc có lực hấp dẫn lẫn nhau, giống như hai cục nam châm khi để chúng ở một khoảng cách nhất định sẽ xảy ra hiện tượng khác lạ và nhờ đó có thể đoán định được vị trí đại khái của ngôi mộ cổ.

Suốt hơn một năm ròng, lá cờ đó không phát sinh một hiện tượng khác lạ nào, chỉ trừ việc khiến cho những người lần đầu trông thấy nó kinh hoàng khiếp đảm, tuyệt nhiên không thấy nó có sự cộng hưởng hay có lực hút với vật khác. Bởi thế, nỗi hoài nghi của mấy anh em nhà họ Tôn về lời suy đoán của liệt tổ liệt tông ngày một nặng nề thêm và đó cũng là nguyên nhân khiến Tôn Diệu Tổ phải giải thích với các em tới sáu lần.

Tôi có thể thấu hiểu, khi đó bốn anh em nhà họ Tôn ngày nào cũng vác lá cờ đi khắp nơi, những mảnh đất mà họ chưa đặt chân đến ngày càng ít dần, nhưng lá cờ đó vẫn không hề có phản ứng như trong tâm tưởng của họ, hẳn nhiên họ sẽ băn khoăn không biết lời suy đoán của tổ tông có đúng hay không. Thậm chí họ sẽ nghĩ, lẽ nào tổ tông của họ đã dùng đủ mọi biện pháp thực tế mà vẫn thất bại, nhưng vì không muốn con cháu đời sau từ bỏ hi vọng tìm kiếm ngôi mộ cổ đó nên tổ tiên họ đã thêu dệt nên câu chuyện kì quái này?

Nếu lá cờ đó bản thân nó không mang những điều thần kì, e rằng anh em nhà họ Tôn đã từ bỏ công cuộc tìm kiếm ngôi mộ đó rất lâu rồi.

***

Ngày 14 tháng 7 năm 1936, trời nổi sấm, mưa.

Sắp sửa tiến vào Đại Thượng Hải.

***

Ngày 15 tháng 7 năm 1936, trời mưa.

Hán Chương bảo với mình là nó cảm thấy hơi khang khác.

Nó nói, nó không rõ đó là cảm giác gì, chỉ biết rằng cảm giác của nó khi vác lá cờ không giống như trước đây nữa.

Còn mình, Lão Nhị và Lão Tứ thì lại chẳng có cảm giác gì cả. Hi vọng không phải là ảo giác của Hán Chương.

***

Ngày 7 tháng 8 năm 1937, trời nhiều mây.

Hán Chương lại có cảm giác. Và cảm giác lần này mạnh hơn lần trước.

Nơi này chính là Sạp Bắc của Thượng Hải.

Nghe Hán Chương nói thế, mình, Lão Nhị và Lão Tứ cơ hồ cũng có cảm giác khác lạ. Không phải là do tác động tâm lí chứ?

Hi vọng càng nhiều, thất vọng càng lớn.

Nếu lần này mà vẫn không thành công nữa thì…

***

Ngày 11 tháng 8 năm 1937, trời nắng.

Cuối cùng cũng tìm thấy rồi!

Đúng là có sự thay đổi dị thường! Tất cả mọi người trên phố trông thấy lá cờ đều sợ tới nỗi phát điên, giống hệt như một cơn bão táp tinh thần đang hoành hành vậy! Nhưng bốn anh em mình đứng ngay dưới lá cờ đó lại không hề hấn gì. Không, nói đúng hơn thì vào khoảnh khắc đó, trong lòng mình thấy dạt dào sức mạnh.

Sức mạnh. Giây phút đó, mình tưởng như có một sức mạnh vô song khiến mình dám thách thức cả thế giới.

Mình tin là ngày này sẽ không còn xa nữa, ngôi mộ cổ đang nằm dưới chân mình rồi.

Nét chữ trên trang nhật kí này run run. Khi viết những dòng này, Tôn Diệu Tổ xúc động đến nỗi tì rách một số chỗ trên trang giấy. Niềm hi vọng vốn dĩ ngày càng trở nên mịt mờ bỗng chốc lại trở thành hiện thực và thành công đã cận kề, làm sao người ta không xúc động được?

Còn với một người ngồi đây đọc lại cuốn nhật kí này sau nhiều năm như tôi, tôi biết rằng, thực ra họ đang tiến gần tới cái chết.

Những trang sau của cuốn nhật kí ghi chép những điều cơ bản tôi đã biết: việc bốn anh em nhà họ Tôn tạo mối quan hệ với chính quyền, di dân đi nơi khác, xây dựng “khu ba tầng”, thỉnh mời bác Chung Thư Đồng, Đại sư Viên Thông, “Vua trộm mộ” Vệ Bất Hồi, đào đường hầm trong lòng đất dưới vỏ bọc đào hầm trú ẩn, vận chuyển số đất đào được ra bên ngoài, lấp ao Khâu Gia, phát hiện ra vị trí cụ thể của ngôi mộ cổ, sự kiện quân xâm lược Nhật ném bom, lời tiên đoán chẳng lành của Đại sư Viên Thông…

Tôi giở tới trang cuối cùng của cuốn nhật kí.

Ngày 4 tháng 9 năm 1937, trời nhiều mây.

Chuẩn bị xuống dưới lòng đất.

Đây là thời khắc cuối cùng rồi, nhưng tâm trạng của mọi người hình như có chút…

Có lẽ không nên mời Đại sư Viên Thông tới.

Hi vọng Vệ Bất Hồi có thể trợ giúp anh em mình, dù dưới lòng đất ẩn chứa điều gì đi nữa, anh em mình cũng không còn đường lùi nữa rồi. Bốn anh em mình gánh trên vai niềm kì vọng của gia tộc Tôn Thị từ cả ngàn năm trước. Liệt tổ liệt tông đang dõi theo mình.

Cũng may, bốn anh em không băn khoăn điều gì.

Tôi gấp cuốn nhật kí lại. Đồng hồ chỉ hơn một giờ sáng. Với tôi, thời điểm đó không phải quá muộn, nhưng lúc này, tôi cảm giác mệt mỏi rã rời, không phải sự mệt mỏi trên cơ bắp mà là sự mệt mỏi từ sâu trong đầu óc lan tỏa, khiến tôi không thể tiếp tục tư duy được nữa.

Tôi đã suy nghĩ quá nhiều và những suy nghĩ đó cứ vấn vít vào nhau, rối như tơ vò khiến tôi trong chốc lát đã mất đi khả năng phân tích rõ ràng từng sự việc.

Thôi, cứ đi ngủ trước vậy.

Tôi thường ngủ để né tránh một số chuyện, song trên thực tế thì tôi không có cách nào thoát khỏi chúng được.

Trên các đầu móng tay của tôi thoang thoảng mùi máu tanh.

Tôi vùi hai bàn tay xuống dưới gối.

Tôi không nhớ rõ mình chìm vào giấc ngủ từ khi nào. Hình như, tôi chưa hề ngủ. Có những cảnh tượng cứ lướt qua trong đầu, bóng dáng của Vệ Tiên, hình hài của bốn anh em nhà họ Tôn và cả cái đầu lâu đó nữa. Từ rất lâu rồi, tôi chưa có một giấc ngủ nào trằn trọc và khổ sở như giấc ngủ đêm qua. Lúc tôi lồm cồm bò dậy, toàn thân ướt đẫm những giọt mồ hôi lạnh và dính nhơm nhớp.

Kim đồng hồ chỉ 7 giờ 15 phút. Với tôi, giờ này hơi sớm để thức dậy, nhưng không thể nấn ná thêm trên giường được nữa, vì khi mi mắt tôi vừa khép lại, thì những hình ảnh hỗn loạn lại thi nhau ào tới.

Tôi tắm nước lạnh rồi cố gắng ép mình xốc lại tinh thần. Bây giờ chưa phải là thời điểm thích hợp để gọi điện cho bác Chung Thư Đồng. Tôi không muốn giở cuốn nhật kí màu đỏ sậm đó ra xem lại lần nữa.

Nội dung của cuốn nhật kí đã giúp tôi hình dung ra đại thể chuyện xảy ra năm xưa. Tuy thế, tác dụng của nó cũng không quá lớn, nhất là trong tình cảnh tôi vốn dĩ cho rằng mình có thể tìm ra manh mối để trả lời câu hỏi vì sao Vệ Tiên tự sát từ cuốn nhật kí đó, nhưng bây giờ tôi lại chẳng nghĩ ra điều gì cả.

Điều gì đã dồn Vệ Tiên tới chỗ chết, khiến anh ấy không có dũng khí để phản kháng, thậm chí không cầu cứu tới tôi?

Tôi nhớ lại, ở vào phút cuối cùng, gương mặt của Vệ Tiên đột nhiên trở nên hoảng hốt và tuyệt vọng, điều này phải giải thích thế nào? Lúc đó, ánh mắt của anh ta nhìn chòng chọc vào tôi.

Một ý nghĩ vụt hiện lên trong đầu khiến tôi kinh ngạc. Không lẽ Vệ Tiên đang sợ tôi?

Anh ấy sợ tôi nên mới im lặng với tôi. Ở giây phút cuối cùng của đời mình, Vệ Tiên đã sợ hãi khi nhìn thấy tôi?

Tôi nhìn hình ảnh mình đang mặc quần áo trong gương. Vẫn như bình thường, chỉ có điều hơi tiều tụy một chút.

Tôi đi đi lại lại trong phòng. Có một thứ áp lực không rõ từ đâu dồn lên trong lòng làm tôi không tài nào cảm thấy thoải mái được, tôi biết chắc chắn là có chỗ nào đó bất ổn, nhưng tôi không thể nắm bắt được nó.

Tôi cảm nhận nguy hiểm đang rình rập, song lại hoàn toàn không biết mối nguy ấy từ đâu tới.

8 giờ 15 phút, cuối cùng, tôi không thể chờ đợi thêm được nữa, tôi nhấc điện thoại lên và gọi cho bác Chung Thư Đồng. Người già thường hay dậy sớm.

Bác Chung Thư Đồng bắt máy rất nhanh. Xem ra, tôi không quấy nhiễu giấc ngủ của bậc đại học giả là bác. Vừa nghe thấy tôi nói việc điều tra có bước tiến mới, bác vội vã bảo tôi tới nhà bác kể cho bác nghe, bác cơ hồ sốt sắng hơn cả tôi.

Tôi rửa những bức ảnh đã chụp bằng chiếc máy ảnh kĩ thuật số ra khổ lớn, cho vào trong túi rồi không đủ kiên nhẫn đợi xe bus, tôi gọi taxi tới nhà bác Chung Thư Đồng.