Lá cờ ma - Chương 09 - Phần 1

Chương 9: Bí mật “con mắt thứ ba”

Cuối cùng cũng về đến Thượng Hải. Ngồi trên taxi ra khỏi sân bay, gương mặt xanh xám của Hạ Hầu Anh hơi hồng hào trở lại.

Ban nãy, lúc máy bay sắp tới Thượng Hải, gương mặt của Hạ Hầu Anh đột nhiên tái nhợt, mồ hôi tuôn ra như suối, hay tay bấu chặt vịn trên ghế ngồi, đường gân xanh ở hai bên huyệt Thái Dương phập phồng. Tôi thảng thốt khi thấy bộ dạng đó của cô ấy, vội vàng hỏi sự thể ra làm sao. Hạ Hầu Anh bảo đó là chứng bệnh đau đầu di truyền, một lúc nữa sẽ hết.

Cơn đau đầu của cô ấy hẳn là phải ghê gớm lắm vì cứ trông dáng vẻ của cô thì đủ biết. Con người dù bản lĩnh cao cường đến đâu vẫn có những mối âu sầu không thể tự mình gỡ bỏ được. Ngay cả bản thân Hạ Hầu Anh cũng đành bó tay trước chứng bệnh của mình thì y học hiện đại có lẽ vô phương cứu chữa.

Trên đời này, những kì nhân dị sĩ nếu muốn sẽ chẳng bao giờ thiếu tiền tiêu, những gã tầm thường như tôi chỉ có thể thở than vì tài hèn sức mọn. Hạ Hầu Anh nghỉ tại khách sạn Bốn mùa, một trong những khách sạn sang trọng và đắt đỏ nhất Thượng Hải. Tôi hẹn Hạ Hầu Anh 9 giờ sáng hôm sau gặp nhau ở cổng khách sạn và chúng tôi sẽ thực hiện cuộc thám hiểm ngôi mộ cổ đó lần thứ hai. Tôi nay tôi có việc khác cần phải giải quyết.

Hạ Hầu Anh có thể phá giải những kí hiệu ám thị - thứ vũ khí vô hình và thần bí nhất mang sức mạnh giết người trong mộ thất đó, những tôi vẫn chưa quên được mấy chục vết thương hữu hình mà Tôn Huy Tổ phải chịu. Khả năng giết người của những cơ quan ngầm được chôn giấu trong mộ thất đó đã trở thành truyền thống, khiến Vệ Tiên phải bỏ mạng và Hạ Hầu Anh phải rầu rĩ. Vốn dĩ, Hạ Hầu Anh muốn tới mộ thất quan sát trước, nhưng tôi tình nguyện mời cao nhân tới giúp sức.

Người có tài năng đó và không cần tôi phải giải thích nhiều về nội tình sự việc còn ai ngoài ông lão Vệ Bất Hồi?

Tôi gõ cửa căn phòng của ông lão Vệ Bất Hồi trên tầng hai của tòa nhà ba tầng trung tâm. Tôi đã chuẩn bị sẵn những câu từ cần nói, thậm chí dự đoán những phản ứng của ông lão Vệ Bất Hồi khi lại trông thấy tôi, nhưng câu nói đầu tiên của ông lão khiến tôi mơ hồ.

“Ta đợi anh đã lâu rồi.” Khi nói câu ấy, ông lão Vệ Bất Hồi vẫn đứng chắn ngay trước cửa ra vào và hình như không có ý xê dịch.

“Bác đợi cháu ấy ạ?”, tôi nhìn ông lão Vệ Bất Hồi đang hiện diện trước mặt mình. Vẻ xa vắng, lạnh lùng thường ngày vẫn bao trùm quanh người ông lão khi rõ ràng lúc mờ mịt và ánh nhìn ảm đạm trong đôi mắt có thần giờ biến mất hoàn toàn.

“Anh định bao giờ thì xuống dưới đó lần nữa?”, ông lão Vệ Bất Hồi hỏi ngay, không để tôi kịp thở một giây nào. Chừng như ông lão biết trước ý định của tôi khi tới gõ cửa nhà ông lão.

“Dạ… ngày mai, khoảng chín rưỡi sáng ạ.”

“Được, ta sẽ đi.” Một tiếng “uỳnh” vang lên nối tiếp câu nói vừa dứt. Cánh cửa gỗ màu đỏ sậm đóng sầm ngay lại, bỏ mặc tôi đứng bên ngoài.

Ông lão dồn tôi vào thế bị động và câu nói chắc nịch như vậy, lẽ nào “Vua trộm mộ” mai danh ẩn tích hơn sáu mươi năm trời nay đã tái xuất giang hồ?

Tại sao ông lão Vệ Bất Hồi biết tôi muốn thâm nhập ngôi mộ cổ đó lần nữa nhỉ? Ông ấy ôm nỗi kinh hoàng hơn sáu mươi năm có lẻ, sao bây giờ bỗng chốc không khiếp sợ nữa? Những câu hỏi này vần vũ trong đầu tôi trên suốt quãng đường về, có điều tôi nghĩ mãi vẫn không tìm ra lời giải.

9 giờ sáng hôm sau, tôi gặp Hạ Hầu Anh như đã hẹn. Tôi ngạc nhiên thấy cô mặc một chiếc áo cánh dài tay rộng thùng thình. Hôm nay nhiệt độ ngoài trời lên tới 36 độ C! Chiếc váy của cô ấy còn khoa trương hơn cả chiếc áo cánh. Nó là một chiếc váy dài màu xanh nước biển. Cô nàng ngỡ mình đi dự vũ hội chắc?

“Thế này… em có cần thay trang phục không?”, tôi không nén được, bật hỏi.

“Không sao đâu anh, chúng ta xuất phát thôi”, Hạ Hầu Anh không để tâm tới lời nhắc nhở của tôi, cô giơ tay vẫy một chiếc taxi.

Cô chui vào trong xe, quay đầu lại nhìn, thấy tôi vẫn đứng tần ngần bèn tủm tỉm: “Anh yên tâm, em không phải mấy cô nàng vì một chữ đẹp mà không biết cân nhắc thiệt hơn đâu.”

Cô ấy đã nói như thế. Tôi đành bước chân lên xe dù trong lòng còn nhiều nghi hoặc.

Tôi bước vào tòa nhà ba tầng trung tâm, nhìn đồng hồ, 9 giờ 34 phút.

Tôi đang định lên tầng hai mời ông lão Vệ Bất Hồi thì bỗng nghe thấy tiếng nói vọng ra từ bên trong cái bóng mờ mờ xam xám của chiếc cầu thang dẫn vào gian phòng âm: “Ta ở đây rồi.”

Ông lão Vệ Bất Hồi mặc toàn đồ đen. Trong cái bóng u ám, tôi chỉ trông thấy đôi mắt sáng ngời vẻ tinh anh.

Có thật ông lão Vệ Bất Hồi đã là một cụ già tuổi ngoài tám mươi? Tôi bất giác hoài nghi sự thật đó.

“Vị này là ‘Vua trộm mộ’ Vệ Bất Hồi, còn vị này là Hạ Hầu Anh, cô ấy có thể hóa giải những ám thị chết người trong ngôi mộ”, tôi thay mặt hai con người mới gặp nhau lần đầu giới thiệu ngắn gọn.

Cánh cửa gian phòng âm mở rồi đóng. Thình lình, tôi trông thấy những kí hiệu sáng lấp lánh giữa không gian đen đặc.

Sau phút giật mình, tôi nhận ra Hạ Hầu Anh đã cởi bỏ chiếc áo cánh bên ngoài, để lộ chiếc áo phông trắng bên trong vẽ chi chít những kí hiệu bằng thứ bút màu phát sáng. Một chiếc quần tương tự xuất hiện ngay sau đó, dĩ nhiên là Hạ Hầu Anh cũng vừa trút chiếc váy dài khỏi cơ thể.

“Bác và anh vẫn có thể nhìn thấy những kí hiệu này ngay cả trong điều kiện không có ánh sáng. Chúng sẽ giúp hai người định tâm an thần, không bị tác động bởi những kí hiệu ám thị khác, đương nhiên về bản chất chúng cũng là một dạng ám thị.”

Tôi nhìn vào những kí hiệu đó một lúc và thấy vững tâm hơn rất nhiều.

Tôi khom lưng bước đi trong dũng đạo mà bốn anh em họ Tôn đã tạo ra năm xưa. Cuối cùng, tôi đã vỡ lẽ vì sao ông lão Vệ Bất Hồi đoán biết tôi sẽ còn trở lại thám hiểm nơi này.

Sau lần diện kiến ông lão Vệ Bất Hồi, anh chàng Vệ Tiên tức thì thông báo với người trong gia tộc về tình hình của nhân vật huyền thoại này. Sau đó, Vệ Tiên chết bất đắc kì tử. Tuy phía cảnh sát không thể điều tra rõ thân phận của người chết trong một thời gian ngắn, nhưng gia tộc trộm mộ đông đảo của Vệ Tiên ngày một ngày hai biết được tin dữ ấy, họ kể với ông lão Vệ Bất Hồi khi thỉnh mời bậc đức cao vọng trọng của gia tộc trở lại gia tộc. Và tất nhiên, những thông tin về Na Đa, tức là tôi đây, cũng có liên quan tới chuyện ấy.

Hơn sáu mươi năm sau, cháu mình lại chết vì ngôi mộ cổ đó, tin dữ này làm quặn đau cả những sợi dây thần kinh nằm khuất lấp ở nơi sâu nhất trong tâm tư của ông lão Vệ Bất Hồi.

"Ta nghĩ là ta sẽ chôn thây dưới lòng đất nên bao nhiêu năm qua, ta không còn đủ can đảm để trộm mộ nữa, nhưng hôm nay hãy để ngôi mộ cổ này chứng kiến sự trở lại của ta.”

Ông "Vua trộm mộ" chọn nơi năm xưa từng khiến ông cam chịu nỗi thất bại đau đớn nhất trong cuộc đời làm điểm mở màn cho cuộc tái ngộ nghề cũ.

Ông lão Vệ Bất Hồi không phải là kẻ vô mưu. Ông biết rằng muốn khám phá ngôi mộ cổ đó lần nữa phải đợi tôi quay trở lại.

Tôi tin chắc một điều, hẳn có trong tay ông lão những thông tin hết sức chi tiết về tôi, nhờ đó ông có thể đoán định, nếu tôi may mắn sống sót, nhất định tôi sẽ quay trở lại. Đương nhiên, khi ấy tôi đã phải chuẩn bị thật cẩn thận.

Ông lão tin rằng tôi không phải là kẻ yểu mệnh, vì thế, ông một mực đợi tôi quay trở lại.

Cuối cùng, chúng tôi cũng đứng trước phiến đá dày và chiếc cầu thang làm bằng đá đen dẫn xuống bên dưới.

"Ở bên dưới này phải không anh?”, Hạ Hầu Anh lên tiếng hỏi.

"Ừ”, tôi đáp.

Ông lão Vệ Bất Hồi thở một hơi thật dài, hơi thở mà ông phải kìm nén trong lòng hơn sáu mươi bảy năm trời đằng đẵng. Ông lão xung phong đi đầu, tôi và Hạ Hầu Anh bước ngay theo sau.

"Bụp, bụp”, những âm thanh nối nhau vang lên, những chiếc đèn liên hoàn vạn năm đồng loạt cháy rực, làm cả mộ đạo bừng sáng.

Ánh lửa bập bùng rọi hắt lên những hoa văn in trên nền đá cẩm thạch, bộ xương trắng vẫn nằm bất động ở phía xa xa. Tôi bước đi giữa không gian ma quái, thấy nhịp tim trở lại bình thường sau khi liếc nhìn Hạ Hầu Anh.

"Trong mộ đạo này không chôn giấu bẫy ngầm nào, chúng ta cứ thẳng tiến nhé”, ông lão Vệ Bất Hồi cất lời.

Hạ Hầu Anh gật đầu. Ba người chúng tôi đẩy những bước chân về phía trước. Hạ Hầu Anh đi giữa, tôi và ông lão Vệ Bất Hồi đi hai bên, tiến sau cô độ nửa bước chân. Ám thị được tạo bởi những kí hiệu chằng chịt trên áo quần của cô ấy đã ngấm dần vào trí não tôi nên tôi không nhất thiết phải dán mắt vào chúng mỗi giây mỗi phút. Mặc dù thế, nhưng tôi vẫn nghĩ, không rời mắt khỏi chúng sẽ tốt hơn, vì chúng làm tôi thêm vững lòng.

Hạ Hầu Anh bước từng bước chậm chạp, hết sức chú ý tới những kí hiệu do những nét vẽ trên tường và những hoa văn trên đá cẩm thạch xoắn xuýt vào nhau tạo thành. Tôi quan sát thấy cô ấy khe khẽ gật đầu, như để chứng thực những suy đoán của mình từ trước.

Chúng tôi đang tiến rất gần tới cửa mộ. Tôi đưa ánh mắt về phía ông lão Vệ Bất Hồi. Ông lão gật đầu. Lần này, tôi không còn cảm giác thấp thỏm kinh sợ như lần trước nữa.

Bộ xương trắng của Tôn Huy Tổ nằm sõng soài ngay bên cạnh.

"Ơ, cái đầu này là thế nào hả anh?”, Hạ Hầu Anh chỉ vào cái đầu lâu Tôn Huy Tổ đang nằm riết trong bàn tay và hỏi. Cái đầu lâu có "con mắt thứ ba"!

Tôi sực nhớ, hôm đó khi kể lại câu chuyện cho Hạ Hầu Anh, tôi đã quên mất chi tiết này.

"Có lẽ nó là cái đầu của chủ nhân ngôi mộ cổ này, không biết tại sao lại bị Tôn Huy Tổ vặt mất và lôi ra tận đây.”

Hạ Hầu Anh ngồi xổm xuống, nhìn trân trân vào cái đầu lâu. Không, nói đúng hơn là cô ấy đang chăm chú quan sát cái lỗ tròn thứ ba.

Tôi thấy cô ấy hơi run rẩy.

Ông lão Vệ Bất Hồi hơi thở dài. Thuở xa xưa, cái đầu này uy phong lẫm liệt là thế, mà giờ phải chịu cảnh đầu lìa khỏi xác.

Hạ Hầu Anh đứng dậy, khẽ khàng nói: "Không ngờ, truyền thuyết đó lại là sự thật”, cơ thể cô hơi loạng choạng, tôi vội vàng đỡ lấy.

"Sao thế em?”, tôi hỏi.

"Em không sao, chỉ hơi thất vọng thôi anh ạ”, gương mặt Hạ Hầu Anh lộ rõ vẻ ủ dột, tâm trạng ấy đâu chỉ là nỗi thất vọng thoảng qua.

"Chúng ta vào trong thôi. Tuy mục đích ban đầu của em đã sụp đổ, nhưng em vẫn cần lấy cuốn sách đó”, vừa nói, Hạ Hầu Anh vừa cất bước đi tiếp.

Tôi đi theo sau ông lão Vệ Bất Hồi và Hạ Hầu Anh, tiến vào cửa mộ.

Mộ thất bên trong cũng được trang bị hệ thống đèn liên hoàn vạn năm. Ông lão Vệ Bất Hồi tìm thấy ngay nút khởi động, những ngọn đèn sáng bừng trong tích tắc.

Đồ nghề thám hiểm của ông lão Vệ Bất Hồi đơn giản hơn của Vệ Tiên nhiều, chỉ là một chiếc gậy kim loại. Sau mấy tiếng gõ "boong, boong" xuống nền đất, ông lão ngẩng đầu lên rồi thình lình nhảy lùi lại phía sau nửa bước, ngoái đầu nhìn Hạ Hầu Anh, chính xác hơn thì ông lão nhìn những kí hiệu trên quần áo của Hạ Hầu Anh.

"Là nỗi khiếp sợ”, Hạ Hầu Anh nói, "ám thị được tạo bởi những kí hiệu trên bốn bức tường trong gian mộ thất này chính là nỗi khiếp sợ đấy!"

Tôi cũng có cảm giác ấy khi những ngọn đèn vừa được thắp lửa, nhưng nó chỉ nhè nhẹ cồn lên trong lòng. Hẳn nhiên là nhờ tác dụng quan trọng của những kí hiệu ám thị trên quần áo của Hạ Hầu Anh.

Ông lão Vệ Bất Hồi cười hì hì: "Xem chừng lão già này lo sợ hão huyền rồi.” Ông lão đắn đo một hồi trước gian mộ thất trống trơn rồi bảo: "Gian mộ thất này có lẽ không chôn giấu bẫy nào, hai người cẩn thận theo sau ta nhé!"

Hạ Hầu Anh gật đầu: "Không có bẫy ngầm cũng là điều rất bình thường thôi. Khả năng tác động của những kí hiệu ám thị vẽ ẩn trên bốn bức tường khá mạnh, ngay cả những người được bảo vệ liên tục bằng ám thị định tâm an thần của cháu như bác và anh vẫn cảm biết, người bình thường khi bước vào đây, dù không thắp lửa để nhìn thấy những kí hiệu chằng chịt đó, nhưng vẫn bị chúng làm cho hồn xiêu phách lạc mà phải lùi bước, cộng thêm với những ám hiệu chết chóc ở mộ đạo phía bên ngoài thì sớm muộn gì họ cũng biến thành hồn ma cho dẫu đã quay trở lại với thế giới trên mặt đất.”

Gian mộ thất rộng chừng bốn, năm mét vuông này trông giống như một mảnh ruộng không có hình thù rõ rệt, bên trong không bày biện bất cứ vật trang trí nào, phía đối diện lại có một cổng vòm nữa.

"Hai người nhìn này!”, ông lão Vệ Bất Hồi chỉ tay xuống dưới đất.

Tôi nhìn theo hướng tay ông lão chỉ và nhận thấy nền nhà lát đá cẩm thạch từ chỗ chúng tôi đứng tới cổng vòm ở phía đối diện rải rác những vệt màu đen sậm. Vết tích rất mờ nhạt nên phải quan sát thật kĩ mới trông rõ.

"Là vệt máu của Tôn Huy Tổ”, tôi buột miệng.

Ông lão Vệ Bất Hồi gật đầu: "Máu thấm vào đá cẩm thạch, nhưng không có bất cứ dấu hiệu nào cho thấy các bẫy ngầm đã bị khởi động.”

"Chúng ta đi thôi bác. Ở mộ đạo phía ngoài là ám hiệu chết chóc, trong đây là ám hiệu khiếp sợ, bác cháu mình đi qua cái cổng vòm phía trước mặt, có lẽ sẽ gặp phải một ám hiệu khác”, Hạ Hầu Anh nói.

Nghe Hạ Hầu Anh nói thế, trước khi tiếp tục tiến lên phía trước, ông lão Vệ Bất Hồi làm một động tác giống hệt tôi: nhìn đăm đăm vào bộ quần áo của Hạ Hầu Anh.

Ba người chúng tôi đã tới trước cổng vòm thứ hai. Ông lão Vệ Bất Hồi không bước ngay vào bên trong mộ thất, tôi và Hạ Hầu Anh đứng khựng lại ngay bên cạnh.

Bên trong là một gian mộ thất, nhưng nói đúng hơn thì nó là một mộ đạo gấp khúc.

Trên nền đá vẫn rải rác những vệt máu khiến tôi bất giác tưởng tượng ra cảnh Tôn Huy Tổ mình dầm dề máu cuống cuồng hoảng loạn chạy ra ngoài.

Có lẽ nút khởi động hệ thống đèn liên hoàn vạn năm ở cổng vòm thứ nhất đã cùng lúc thắp sáng tất cả đèn trong các gian mộ thất. Có điều, mộ đạo này ngoắt ngoéo quá nên không thể nhìn thấy điểm cuối của nó.

“Bác ơi, cháu thấy hình như cũng không có dấu hiệu nào cho thấy các bẫy ngầm đã bị khởi động, chẳng lẽ mộ đạo này cũng không có bẫy ngầm nào hả bác?”

Ông lão Vệ Bất Hồi ngồi xổm xuống, hai mắt dán chặt xuống nề nhà một hồi lâu, ông gõ gõ cây gậy kim loại mấy lần rồi đứng lên và nói: “Có đấy, nhưng chưa từng được khởi động”, vẻ mặt ông lão hơi nghiêm trọng.

“Chưa từng khởi động, tại sao lại như thế được nhỉ, chẳng lẽ Tôn Huy Tổ năm xưa chưa từng chạm đến các cơ quan đó ạ?”, lần này là Hạ Hầu Anh lên tiếng hỏi.

“Cơ chế khởi động của những bẫy ngầm được chôn giấu ở đây tương đối khác lạ. Loại bẫy này không thể được khởi động bằng cách đi bộ bình thường hoặc chạy nhanh được mà phải đứng yên một chỗ.”

“Thế thì đúng rồi!”, câu nói của Hạ Hầu Anh khiến tôi và ông lão Vệ Bất Hồi sửng sốt.

“Bác và anh không nhận thấy cảm giác của hai người lúc này đã khác trước rồi sao ạ?”

Ban nãy, lúc tiến lên phía trước, tôi thấy trong lòng có những cảm giác hơi khang khác, nhưng nhờ những kí hiệu hộ thân của Hạ Hầu Anh nên cảm giác khang khác đó chỉ như một làn gió thoảng. Giờ nghe Hạ Hầu Anh nói, tôi vừa đưa mắt nhìn về phía mộ đạo trước mặt, vừa từ từ cảm nhận trong lòng.

Đúng là có cảm giác khác so với cảm giác sợ hãi ban nãy thật. Nhưng nếu bảo tôi phải diễn tả nó bằng một từ ngữ nào đó, tôi không biết phải dùng từ gì. Tôi ngó sang ông lão Vệ Bất Hồi. Ông lão cũng chung tâm trạng với tôi.

“Bác và anh chỉ bị tác động một chút thôi nên rất khó nhận ra. Những kí hiệu ám thị ở phía trước khiến con người ta cảm thấy chán nản.”

“Chán nản à?”, tôi thử so sánh với cảm giác trong lòng mình. Quả nhiên không sai.

“Ta biết rồi”, ông lão Vệ Bất Hồi lên tiếng, giọng trầm đục, “người bình thường khi chán nản cùng cực thường ngồi xổm xuống, ôm đầu khóc lóc thảm thiết, nếu là người tinh thần dẻo dai sẽ ngồi trong tư thế ấy một lúc, mà hễ ngồi như thế sẽ làm các bẫy ngầm lập tức khởi động.”

Hạ Hầu Anh gật đầu đồng tình: “Những ám thị không thể khiến người ta chết ngay tức khắc nhưng nếu kết hợp với các cơ quan, nơi này sẽ biến thành tử địa không người sống sót.”

“Nhưng tại sao năm xưa, bốn anh em nhà họ Tôn lại bình an vô sự nhỉ?”, câu hỏi vừa buột khỏi miệng, tôi đã có ngay đáp án.

“Là nhờ….”, Hạ Hầu Anh chưa nói hết câu tôi đã tiếp: “Lá cờ.”

“Đúng rồi đấy anh ạ. Em nhìn qua nửa lá cờ đó biết rằng, nếu kí hiệu trên đó kết hợp hoàn chỉnh với những kí hiệu trên nửa lá cờ bị mất thì chúng sẽ tạo hiệu quả giống như những kí hiệu em vẽ trên quần áo, có thể tác động tới những người ở quanh lá cờ. Nhưng lá cờ đó lại kèm cả ám hiệu gây khiếp sợ cho những người đứng ở xa nên khả năng tác động của nó không mạnh bằng khả năng tác động của những ám thị em tạo ra.”

Nhắc tới nửa lá cờ, đầu óc tôi bất giác lại hiện lên một câu hỏi không thể kìm nén được và bật ra ngoài: “Năm xưa, bốn anh em nhà họ Tôn vác lá cờ đi khắp nơi để tìm kiếm vị trí của ngôi mộ cổ này, khi tới khu vực gần với vị trí ngôi mộ cổ, họ nhận thấy có điềm báo; hơn nữa ám hiệu khiếp sợ của lá cờ đột nhiên bùng phát mạnh hơn bình thường cả chục lần, em giải thích hiện tượng này thế nào?”

Hạ Hầu Anh tư lự hồi lâu rồi nói: “Em cũng không mấy chắc chắn về nguyên lí hoạt động của nó, bởi lẽ có nhiều thứ lắm, em chỉ biết một vài điều chứ không thể biết tất cả. Nhưng…”, Hạ Hầu Anh chỉ tay về mộ đạo phía trước, tiếp tục: “Lát nữa đi tiếp, bác và anh phải có sự chuẩn bị tâm lí trước đấy nhé, vì nỗi chán chường sẽ tăng lên nhiều so với lúc chúng ta đứng ở đây và nhìn vào nó. Bác và anh phải nhớ đừng đứng ngây ra để làm khởi động các hệ thống đấy nhé!”

“Ồ?”

“Nếu chỉ là một vài kí hiệu ám thị đơn giản thì về cơ bản, chúng chỉ phát huy tác dụng khi bị nhìn thẳng bằng mắt thường. Khi nhiều kí hiệu được xếp đặt san sát nhau theo một quy luật đặc biệt nào đó, chúng sẽ tự phát huy tác dụng. Nguyên lí này hơi giống với nguyên lí của những trận pháo ở thời Trung Quốc cổ đại. Nhưng anh đừng vơ đũa cả nắm chúng với những trận chiến của quân đội thời cổ, vì đó là hai việc hoàn toàn khác nhau.”

“Anh biết điều này mà. Còn nhớ, năm xưa anh từng bị vây khốn tới mức suýt bỏ mạng trong hang người trong ngọn núi Thần Nông, chẳng phải vì Khốn Long Mặt Trận của Tiêu Tú Vân hay sao?”

Hạ Hầu Anh hơi bất ngờ: “Xem ra anh cũng đi nhiều biết rộng đấy nhỉ! Nếu phải dùng một từ ngữ gần nghĩa nhất để lí giải theo khoa học hiện đại bây giờ thì đó chính là lực trường. Những kí hiệu này có thể tạo ra một lực trường tâm lí ở bên ngoài hình vẽ của chúng, có thể tác động tới những người ở cách trung tâm lực trường một khoảng nhất định. Nếu hai lực trường như thế gặp nhau có thể sẽ trung hòa và không xảy ra chuyện gì, hoặc cũng có thể…”

Hạ Hầu Anh không nói tiếp nhưng tôi đã hiểu những lời dang dở của cô ấy. Sự việc bất ngờ xảy ra năm xưa là kết quả của việc hai lực trường tâm lí tạo ra từ lá cờ và từ ngôi mộ cổ dưới lòng đất gặp nhau. Chỉ có điều, vì sao sau khi hai trường lực tâm lí này gặp nhau, trong khoảnh khắc lại tạo ra một lực trường có khả năng gây ra nỗi kinh hoàng lớn đến thế cho con người rồi ngay sau đó lại trở về trạng thái ban đầu, câu hỏi này e rằng những con người như chúng ta không thể giải thích rõ được nếu chỉ dựa vào những suy đoán đơn giản. Chí ít, chúng ta cũng phải hiểu nguyên lí tạo ra những kí hiệu đó.

“Đi nào, nhớ đừng dừng lại đấy!”

Chúng tôi bước những bước gấp gáp theo sau ông lão Vệ Bất Hồi và đi hết con đường khúc khuỷu với tốc độ của những người thi đi bộ. Vì đã chuẩn bị tâm lí trước nên nỗi chán nản tăng lên chút đỉnh trong lòng không mang lại quá nhiều phiền phức cho chúng tôi. Qua một lối rẽ chuyển tiếp, chúng tôi lại thấy một cổng vòm. Ông lão Vệ Bất Hồi ra hiệu và thế là ba chúng tôi đứng song song nhau ngay dưới cổng vòm.

Không gian phía trước mặt là một hình tam giác dài và hẹp, nằm giữa mộ thất và mộ đạo. Chiếc cổng vòm chúng tôi đang đứng là nơi rộng nhất, càng về phía trước đường càng hẹp, ở đỉnh tam giác là một chiếc cổng vòm khác, hẹp đến nỗi chỉ đủ một người đi lọt.

Trong gian mộ thất này, tôi trông thấy ba bộ xương trắng. Và cả những mũi tên bằng sắt ngắn củn. Giống như những mũi tên găm lên thi thể của Tôn Huy Tổ.

Ba bộ xương trắn đó dĩ nhiên là ba người còn lại trong số bốn anh em nhà họ Tôn.

“Tức giận”, Hạ Hầu Anh nói.

Cả tôi và ông lão Vệ Bất Hồi đều hiểu ý của Hạ Hầu Anh. Những kí hiệu trong gian mộ thất phía trước mặt chúng tôi tạo ra ám thị khiến con người tức giận.

Thực ra tôi đã cảm thấy bực bội trong lòng trước khi Hạ Hầu Anh nói ra điều ấy.

Tôi trông thấy một mảnh vải chưa bị mục nát nằm giữa ba bộ xương trắng. Mảnh vải được làm bằng chất liệu thần kì như thế chỉ có thể là nửa lá cờ còn lại.

“Chỉ dựa vào chút bản lĩnh học được từ ta, bốn anh em nhà họ Tôn đương nhiên không thể vượt qua gian mộ thất này. Ở chốn này, chỉ cần đi lệch nửa bước chân sẽ khiến các bẫy ngầm khởi động ngay”, ông lão Vệ Bất Hồi cất lời.

“Nhưng cháu thấy những phiến đá cẩm thạch trên bốn bức tường rất nhẵn, vậy những mũi tên này được bắn ra từ đâu hả bác?”

“Anh chàng ngốc ạ, có rất nhiều chỗ đều là những phiến đá rời, chúng sẽ xoay lật lại khi các bẫy ngầm vừa khởi động.”

Tôi cười hinh hích. Ngay cả “Vua trộm mộ” Vệ Bất Hồi nếu không có ám thị định tâm an thần của Hạ Hầu Anh bảo vệ, khi bước chân tới đây sẽ cảm thấy phẫn nộ khi công tâm, đâu còn tâm trí nào phân biệt chỗ nào đi được, chỗ nào không, kết cục vẫn cứ bị tên găm tua tủa. Bốn anh em nhà họ Tôn tuy có lá cờ làm bùa hộ mệnh, nhưng vì không am tường các bẫy ngầm nên rốt cuộc đều phải về với hoàng tuyền, không chỗ vùi xác. Thậm chí, trước lúc chết, họ tức tối tới mức xé rách lá cờ.

Ông lão Vệ Bất Hồi đang lúi húi tìm thứ gì đó trong ba lô. Tôi ngắm nghía gian mộ thất phía trước mặt, bất chợt nảy ra một ý nghĩ: “Từ lúc bước vào đây tới giờ, hình dạng của những gian mộ thất gần giống với một chữ Hán, chí ít thì con đường ngoằn ngoèo ban nãy và gian mộ thất hình tam giác trước mặt hợp lại với nhau sẽ tạo thành một nét móc câu, bác và em có cảm thấy như vậy không?”

Ông lão Vệ Bất Hồi ngừng tay, ngẩng đầu nhìn tôi.

“Anh cũng nhận ra rồi à?”, nói rồi Hạ Hầu Anh giơ ngón tay lên viết một chữ Hán trên không trung.

Gian mộ thất đầu tiên trông giống như một mảnh ruộng không có hình thù rõ rệt, thực ra là một nét chấm; gian mộ thất tiếp theo cong cong uốn lượn là nét móc câu; chữ Hán mà Hạ Hầu Anh vừa viết lên không trung là một chữ “tâm” theo thể chữ Hành.

“Mọi ám hiệu trong ngôi mộ này đều tác động lên tâm của con người”, Hạ Hầu Anh lạnh lùng giải thích.

“Không phải là đại não hả em?”, tôi hỏi vặn lại.

“Có thật là khoa học hiện đại có thể chứng minh được những suy nghĩ, thậm chí linh hồn của con người đều nằm ở đại não không? Không thể, đúng không? Chữ ‘tâm’ mà em nói tới ở đây không phải là buồng tim, mà là nơi khởi nguồn của linh hồn và trí tuệ con người. Tuy người ta chưa biết rốt cuộc nó là cái gì và nằm ở đâu, nhưng chắc chắn một điều là nó tồn tại.”

“Theo suy đoán của em thì còn hai nét chấm nữa và nét chấm cuối cùng có lẽ là nơi quàn quan tài của chủ nhân ngôi mộ cổ này.”

Hạ Hầu Anh gật đầu: “Thường thì nơi cuối cùng bao giờ cũng là nơi quàn quan tài, không có kí hiệu ám thị. Ngoài gian mộ thất trước mặt chúng ta còn một gian mộ thất nữa có kí hiệu ám thị. Tính đến lúc này, những ám hiệu lần lượt là khiếp sợ, chán nản, tức giận, ám thị tiếp theo chắc cũng là một trạng thái tâm lí tiêu cực.”