Những người khốn khổ - PHẦN IV - Quyển VI - Chương 02 phần 1

II

CHÚ GAVRỐT TÍ HON LỢI DỤNG NAPÔLÊÔNG VĨ ĐẠI

Mùa xuân ở Pari thường có một thứ gió may cắt da thịt, nó không làm cho người ta giá lạnh, nó làm cho người ta thành băng. Có gió ấy, những ngày tươi đẹp bỗng nhiên biến thành ảm đạm: nó tựa như một luồng khí lạnh lọt qua khe cửa đóng dối vào gian phòng ấm áp. Tuồng như cái cửa mùa đông còn để hở cho nên gió lạnh thổi về từ phía ấy.

Mùa xuân năm 1832, vào độ vụ dịch lớn đầu thế kỷ ở châu Âu, gió ấy gay gắt, lạnh lùng hơn bao giờ hết. Rõ ràng là có một cái cửa nào lạnh hơn cửa mùa đông nữa đã bỏ ngỏ. Đó là cửa nghĩa địa. Trong gió may đó, người ta nghe thấy hơi thổi của ôn thần thổ tả.

Đứng về khí tượng mà nói thì các thứ gió lạnh ấy có một đặc điểm là không loại trừ điện thế cao trong không khí. Vào thời kỳ đó có nhiều trận giông tố đã xảy đến với chớp giật và sấm sét.

Một buổi tối, gió may thổi gắt gao đến nỗi người ta tưởng tháng giêng đã trở lại và bọn tư sản đều lấy áo choàng ra mặc. Chú bé Gavrốt vẫn run cầm cập trong bộ đồ rách nát và vẫn vui tươi, chú đứng ngây ngất trước cửa hàng một người thợ cạo. Chú mang một cái khăn quàng phụ nữ bằng len nhặt ở đâu không biết mà chú đem dùng làm khăn quàng cổ. Chú có vẻ say sưa ngắm một cái tượng cô dâu mặc áo cưới bằng sáp, áo hở ngực, tóc cài hoa cam. Cái tượng quay vòng đằng sau cửa kính, giữa hai ngọn đèn dầu và cười duyên với khách qua đường. Dáng thì thế, nhưng thật thì Gavrốt đang quan sát cửa hàng để xem có cách gì “xoáy” một bánh xà phòng trong quầy để đem bán một xu cho người thợ hớt tóc ngoại ô. Đã nhiều lần chú ăn sáng một cái bánh như thế. Chú có biệt tài về ngón “xoáy” ấy, mà chú gọi bóng là “sửa râu cho bác thợ cạo”.

Vừa ngắm tượng cô dâu mới và liếc bánh xà phòng chú vừa lẩm bẩm trong miệng: - Ngày thứ ba. Không phải ngày thứ ba - Có ngày thứ ba không ấy? - Có lẽ là thứ ba, - Ừ phải. Thứ ba.

Không ai biết chương độc thoại ấy nói về việc gì!

Hôm ấy đúng là ngày thứ sáu. Phải chăng chú bé nói về cái ngày cuối cùng mà chú được ăn tối, cách đây ba hôm.

Trong hiệu có lò sưởi ấm áp, bác phó đương cạo mặt cho một khách hàng. Thỉnh thoảng bác liếc nhìn ra tên kẻ thù tức là chú bé rét xo và trâng tráo. Chú bé hai tay thọc túi nhưng trí thì chắc đã ra ngoài vỏ não từ bao giờ.

Trong lúc Gavrốt ngắm nhìn tượng cô dâu, tủ kính và những bánh xà phòng Anh, chợt có hai đứa bé đến, một đứa lớn một nhỏ nhưng đều bé hơn Gavrốt, một thằng độ bảy tuổi, một thằng năm. Chúng nó ăn mặc cũng khá. Chúng rụt rè vặn quả nắm rồi đi vào hiệu. Miệng chúng lẩm nhẩm cái gì như là một tiếng rên hơn là một lời cầu khẩn. Chúng xin cái gì không biết, có lẽ chúng xin ăn. Hai đứa cùng nói một lúc. Chúng nó nói cái gì không nghe rõ vì thằng bé vừa nói vừa khóc, thằng lớn vừa nói răng vừa va vào nhau cồm cộp. Người phó cạo ấy quay lại vẻ mặt giận dữ. Không rời bỏ con dao nơi tay, ông lấy tay trái xô thằng lớn, lấy đầu gối đẩy thằng nhỏ ra tận ngoài đường, rồi đóng sầm cửa lại mà bảo:

- Đồ quỷ, tự nhiên đem gió lạnh vào nhà người ta.

Hai đứa bé vừa đi vừa khóc. Có đám mây bay tới hạt mưa bắt đầu rơi lác đác.

Gavrốt chạy theo chúng, gọi:

- Hai thằng kia, chúng mày làm sao thế?

Thằng lớn đáp:

- Chúng tôi không có chỗ ngủ.

- Có thế thôi à? Tưởng là gì cơ! Có thế mà cũng khóc được. Hai đứa mày còn khờ quá.

Chú lấy giọng kẻ cả, vừa cao đạo vừa ỡm ờ, xúc động, dịu dàng và che chở, chú bảo:

- Oắt con, thôi đi về với tao.

Thằng lớn nói:

- Thưa ông, vâng.

Thế là hai thằng bé đi theo Gavrốt như đi theo một vị tổng giám mục. Chúng không khóc nữa.

Gavrốt dắt chúng đi ngược phố Xanh Ăngtoan, về hướng nhà lao Bátxi.

Gavrốt vừa đi vừa quay nhìn hiệu tên thợ cạo một cách tức tối. Chú lầm bầm:

- Con ngợm ấy thực chẳng có chút nhân tình nào.

Gặp chúng đi thành hàng một, có Gavrốt dẫn đầu, một cô gái điếm cười phá lên. Cái cười ấy thật là bất kính với đoàn của chú, cho nên Gavrốt đối phó:

- Chào cô “Xe đò” ạ.

Một lát sau, nhớ lại tên thợ cạo, chú nói thêm:

- Gọi là ngợm thì cũng chưa đúng. Nó là một con rắn. Thằng thợ cạo kia, ta sẽ gọi tên thợ khóa đến gắn cho mày một cái nhạc ở đằng đuôi (có một giống rắn hổ mang có dây vảy ở đằng đuôi có thể bật lên tiếng kêu, người ta bảo vảy ấy là nhạc).

Tên thợ cạo đã làm cho Gavrốt trở nên hiếu chiến.

Khi bước qua rãnh nước, Gavrốt gặp một bà gác cổng có râu đang xách chổi đi, có vẻ như đi gặp Faust ở Quỷ tụ sơn.

- Bà ơi, bà cưỡi ngựa đi đấy à?[184] - Gavrốt hỏi.

[184] Theo dị đoan châu Âu người ta bảo rằng ngày hội quỷ sứ các mụ phù thủy cưỡi chổi làm ngựa đi dự hội. Faust là một nhân vật huyền thoại Đức, tương truyền đã bán linh hồn cho quỷ sứ. Nhà văn Đức: Gớt, đã đưa nhân vật Faust vào một vở kịch lớn cùng tên.

Vừa lúc ấy nó làm té bùn lên đôi giày bóng của một ông khách qua đường. Ông cáu lên, quát:

- Thằng quái này!

- Ông tố ai đấy?

- Mày chứ còn ai nữa!

- Hết giờ rồi, văn phòng đã đóng cửa, tôi không nhận đơn đâu.

Đi một quãng nữa, chúng gặp một con bé hành khất độ mười ba mười bốn tuổi đang rét cóng dưới một cái cổng, váy cũn cỡn, để lòi hai đầu gối. Con bé đã quá lớn, mặc váy để đầu gối ra ngoài không tiện nữa. Tuổi lớn lên dễ gặp những chuyện oái oăm như thế đấy! Chính lúc thấy lõa lồ là xấu hổ thì cũng là lúc chiếc váy trở nên quá ngắn. Gavrốt nói:

- Thương hại con bé, ngữ ấy cũng không có quần áo đâu. Thôi hãy cứ lấy cái này mà dùng.

Chú bé nói thế rồi cởi ngay tấm khăn len ấm quàng quanh cổ, chú vứt lên đôi vai gầy gò tím ngắt của con bé ăn mày.

Chiếc khăn len trên vai con bé trở lại nguyên hình thành một chiếc khăn quàng phụ nữ.

Con bé lặng lẽ nhận chiếc khăn quàng và ngơ ngác nhìn Gavrốt. Khi đã quá chừng túng quẫn, người nghèo khổ sống trong hãi hùng thì bị bạc đãi vẫn không biết rên, được giúp đỡ cũng quên cảm tạ.

Cho khăn quàng rồi, Gavrốt xuýt xoa vì rét, rét hơn thánh Máctanh,[185] vì tuy thế mà thánh Máctanh còn giữ nửa chiếc áo choàng.

[185] Thánh Máctanh đi đường thấy có người rét, cắt nửa vạt áo choàng của mình cho.

Vừa khi Gavrốt xuýt xoa thì mưa xuống tầm tã. Trời xấu hại người lành. Gavrốt kêu:

- Ô hay! Thế này là nghĩa làm sao? Lại mưa. Chúa phúc đức ơi! Nếu cứ như thế này thì tôi phải hủy việc mua mưa dài hạn.

Chú lại đi. Chú liếc nhìn con bé hành khất đương thu mình trong chiếc khăn quàng và nói:

- Cũng cóc cần. Con bé này được tấm áo ấm đấy.

Rồi chú ngửa mặt nhìn trời, thét:

- Thua nhé.

Hai đứa bé nối gót chú.

Chúng đi qua một tấm lưới sắt. Tấm lưới sắt ấy chăng trước một cửa hiệu bánh mì, bởi vì người ta cất bánh cũng như cất vàng, đằng sau rào sắt. Gavrốt ngoái lại:

- Ơ này, nhóc con, bay đã ăn tối chưa?

- Thưa ông - Thằng lớn thưa - Từ sáng đến giờ chúng cháu chưa có hột nào vào bụng.

Rất uy nghi, Gavrốt nói:

- Thế ra chúng mày không có cha mẹ gì cả à?

- Xin ông tha lỗi. Chúng cháu có ba, có mẹ đấy ạ, nhưng không biết ở đâu rồi.

Gavrốt vốn là một nhà tư tưởng nên chú nói:

- Nhiều khi không biết cha mẹ ở đâu lại hơn!

- Chúng cháu đi như thế này đã hai tiếng đồng hồ rồi. Chúng cháu cũng cố tìm cái ăn bên các mốc trụ nhưng không có.

- Tao biết! Chó nó ăn tuốt, chả còn gì.

Ngừng một lát chú nói tiếp:

- Ra thế! Các ông nhóc lạc mất tác gia của mình, các ông nhóc không biết họ đi đằng nào. Như vậy rất không tốt các ông nhóc ạ! Ai lại để lạc mất người lớn như vậy? Mất thế thì lấy cóc khô gì mà liếm?

Tuy nói vậy Gavrốt cũng không hỏi hai đứa bé thêm nữa. Lang thang không nhà thì cũng là chuyện thường thôi.

Thằng lớn đã hoàn toàn trở lại với tính vô tư lự của tuổi trẻ thơ. Nó bảo:

- Cũng lạ thật! Thế mà mẹ bảo chủ nhật lễ lá này mẹ dắt đi xin lá thánh.

- Nước mẹ gì! Gavrốt kêu.

- Mẹ là một bà, ở với ả Mitxơ.

- Phớt!

Gavrốt nói thế rồi dừng lại. Từ nãy chú sờ hết túi này tới túi khác, hết các ngóc ngách trong bộ quần áo tã của chú.

Cuối cùng chú ngẩng đầu lên, chỉ muốn tỏ là mình vừa ý, nhưng thật ra mặt chú lại hân hoan rạng rỡ như một kẻ chiến thắng.

- Hai cậu chớ lo nữa. Cái này đủ để ba ta xơi tối.

Vừa nói chú vừa móc túi lấy ra một đồng xu.

Hai thằng bé chưa kịp kinh ngạc thì Gavrốt đã đẩy chúng vào hàng bánh, đặt đồng xu lên bàn và gọi:

- Bồi, một xu bánh.

Người bán hàng vốn là chủ tiệm, lấy một cái bánh và một con dao.

Gavrốt dặn:

- Bồi, cắt làm ba.

Chú nói thêm một cách oai vệ.

- Bọn này ba người.

Sau khi nhìn kỹ ba đứa trẻ, người chủ hiệu lấy một cái bánh đen. Thấy thế, Gavrốt thọc sâu một ngón tay vào lỗ mũi, hùng dũng hít một hơi dài, như vua Phrêđêric vĩ đại hút thuốc lá - rồi chú ném vào mặt anh chủ hiệu câu hỏi căm phẫn này:

- Têlatênao?

Có bạn đọc đoán rằng đó là tiếng Nga hay tiếng Ba lan, hay là tiếng kêu của các bộ tộc man rợ dùng để gọi nhau từ bên này sông qua bên kia sông trong cảnh vắng. Tôi xin nói với các bạn rằng đây chỉ là một câu các bạn dùng thường ngày, rút lại thành một tiếng, câu ấy là: Thế là thế nào? Người hàng bánh hiểu rõ, đáp:

- Hừ! Đây là bánh chứ còn là thế nào? Bánh hạng nhì rất tốt.

Gavrốt thản nhiên và khinh khỉnh:

- Anh muốn nói bánh đen à? Không đâu, bồi, đây ưng bánh trắng, bánh thượng hảo hạng. Đây thết anh em kia mà.

Người hàng bánh không thể mỉm cười. Khi ông cắt bánh trắng, ông nhìn ba đứa trẻ một cách đáng thương hại. Cái nhìn ấy chạm lòng tự ái của Gavrốt:

- Này, cái anh hàng bánh này! Can gì anh nhìn chúng tôi từ đầu đến chân như đo vậy?

Thật ra, chồng ba đứa lên nhau, chúng cũng không cao quá hai thước.

Bánh cắt xong, người hàng bánh cất đồng xu, còn Gavrốt thì bảo hai đứa trẻ:

- Chén thôi.

Hai đứa bé ngẩn ngơ nhìn chú. Chú bật cười.

- Ừ nhỉ! Các chú còn non quá, đã hiểu gì đâu.

Rồi chú nói lại:

- Ăn đi.

Vừa nói chú vừa đưa cho mỗi đứa một miếng bánh. Chú nghĩ rằng thằng anh xứng đáng nói chuyện với chú hơn, phải khuyến khích nó và làm cho nó ăn uống mạnh dạn. Chú đưa miếng bánh to nhất cho nó và bảo:

- Tọng vào nòng súng đi.

Trong ba phần bánh, có một phần bé nhất, chú lấy phần ấy.

Mấy đứa bé khổ sở đói meo, kể cả Gavrốt. Chúng ăn ngốn ngấu và đứng dàn ra chật cửa hàng. Người chủ tiệm đã lấy tiền rồi nên nhìn các chú một cách bực bội.

Gavrốt hiểu ý bảo:

- Chúng ta trở về đường phố thôi.

Chúng lại đi về hướng nhà ngục Bátxi.

Chốc chốc, khi qua các cửa hiệu đèn sáng, thằng bé nhất dừng lại, giở cái đồng hồ chì buộc lủng lẳng trên cổ ra xem giờ. Gavrốt bảo:

- Quả thật thằng này chưa biết gì cả.

Rồi nghĩ ngợi, chú lầm bầm:

- Chà, nếu mà ta có con, thì ta phải giữ gìn kỹ hơn kia.

Khi ba đứa ăn hết bánh thì cũng vừa hết chỗ rẽ sang con đường Ban-lê buồn bã, ở cuối đường có nhà lao La Phoócxơ với cái cửa thấp, rất dễ ghét. Lúc ấy có tiếng ai reo:

- Ô, kìa, Gavrốt, mày đấy ư?

Gavrốt cũng bảo:

- Ô kia, Môngpácnát hóa ra cậu ư?

Kẻ gọi Gavrốt là một người lớn, chính là Môngpácnát chứ không ai khác, nhưng Môngpácnát cải trang, mắt đeo kính xanh, cải trang mà Gavrốt vẫn nhìn ra.

- Chó ngao ơi! Áo choàng của cậu màu thuốc cao, cậu lại đeo kính xanh, trông có vẻ là một ông lang quá! Già này bảo thật, cậu trông ra phết lắm!

- Suỵt! Khẽ chứ!

Thế rồi Môngpácnát kéo Gavrốt ra khỏi chỗ ánh đèn các cửa hiệu. Hai đứa bé như máy, tay cầm tay, bước theo.

Khi chúng đã núp dưới vòm cuốn của một cái cổng tối om, không bị mưa mà cũng không ai nom thấy, Môngpácnát mới hỏi:

- Gavrốt mày có biết tớ đi đâu không?

- Đi lên máy chém.

- Láo, tớ đi tìm Babe.

- Thế ư? Ra ả tên là Babe.

Môngpácnát hạ giọng:

- Không phải ả mà là gã.

- À ra thằng Babe.

- Phải, thằng Babe.

- Tao nhớ nó bị còng rồi cơ mà!

- Phải, nhưng nó đã cởi còng.

Môngpácnát thuật vắn tắt cho Gavrốt biết rằng ngay buổi sớm hôm ấy, trong khi dời tù qua nhà lao khác, lúc đi qua “Hành lang Dự thẩm” đáng lẽ sang phải thì Babe bẻ ngoặt sang trái mà chuồn.

Gavrốt khâm phục tài năng của Babe. Chú bảo:

- Thánh như một anh nhổ răng!

Môngpácnát kể thêm một vài chi tiết nữa rồi kết thúc:

- Ô! Tao đã nói hết đâu, còn nhiều chuyện lắm.

Gavrốt vừa nghe vừa cầm lấy cây gậy của Môngpácnát. Tự nhiên chú kéo đầu gậy lên và thấy hiện ra một lưỡi dao găm. Chú vội vàng đẩy lưỡi dao và nói:

- Ồ! Cậu lại mang theo cả tên sen đầm trá hình làm tư sản này.

Môngpácnát nheo mắt làm hiệu. Gavrốt tiếp:

- Chà chà! Cậu lại tính choảng nhau với bọn cớm kia à?

Môngpácnát trả lời như không để ý:

- Cũng chẳng biết đâu đấy. Lúc nào cũng sẵn có một đinh ghim trong người thì vẫn hơn.

Gavrốt căn vặn:

- Đêm nay cậu định làm vụ gì đấy?

Môngpácnát lại lấy giọng trầm hùng nói ấm ứ:

- Khối!

Bỗng hắn đột ngột quay sang chuyện khác:

- Mày này!

- Cái gì?

- Cái chuyện hôm trước. Mày tính tao gặp một lão tư sản. Lão tặng tao một túi bạc và một bài giảng đạo đức. Tao bỏ túi. Một phút sau tao sờ túi thì chẳng còn gì.

- Ngoài cái bài giảng đạo đức, phải không?

Môngpácnát hỏi lại Gavrốt:

- Còn mày, mày đi đâu bây giờ?

Gavrốt chỉ hai đứa bé.

- Tớ đưa hai đứa này đi ngủ.

- Đi ngủ? Ngủ ở đâu?

- Nhà tớ.

- Nhà mày ở đâu?

- Ở nhà tớ.

- Mày có nhà cửa ư?

- Phải, tớ có nhà cửa.

- Thế nhà mày ở đâu?

- Ở trong bụng con voi ấy.

Môngpácnát vốn tính không hay ngạc nhiên cũng phải buột miệng kêu một tiếng kinh ngạc:

- Trong bụng con voi?

- Phải, ở trong bụng con voi. Đasao?

Đây lại là một tiếng ai cũng nói mà không ai viết. Đasao tức là: thì đã làm sao?

Câu chất vấn sâu sắc của Gavrốt làm cho Môngpácnát trở lại bình tĩnh và biết điều. Nó có vẻ cảm tình hơn đối với khoản nhà cửa của Gavrốt.

- Ừ nhỉ! Con voi… Này, ở trong ấy có tốt không?

- Tốt lắm. Thật đấy, y như lời mình nói. Không có gió lùa như ở dưới các gầm cầu.

- Mày làm cách nào?

- Tớ vào đấy.

- Vậy ra có một lỗ trống à?

- Hẳn chứ! Nhưng đừng nói đấy nhé! Ở khoảng giữa hai chân trước ấy. Bọn cớm chưa biết đâu.

- Mày trèo ư? Ừ bây giờ tao hiểu rồi đấy.

- Xoay tay một cái, a lê hấp! Thế là xong, không còn bóng dáng mình đâu nữa.

Lặng yên một lát, Gavrốt nói thêm:

- Với hai thằng nhỏ này thì tao sẽ có một chiếc thang.

Môngpácnát phì cười.

- Hai thằng nhãi con này, mày nhặt ở đâu ra đấy?

Gavrốt trả lời đơn giản:

- Hai thằng bé lão thợ cạo đầu kia biếu tớ.

Môngpácnát lại có vẻ nghĩ ngợi. Hắn lẩm bẩm:

- Mày nhận ra tao dễ dàng quá.

Nó lấy trong túi áo ra hai cái ống lông chim có quấn bông đem đút mỗi ống vào một lỗ mũi. Mũi nó hóa ra khác hẳn.

- Ừ! Mặt cậu khác đi đấy, - Gavrốt bảo - đỡ xấu hơn. Cậu cứ nên để mãi như thế.

Thật ra Môngpácnát vốn xinh trai, nhưng Gavrốt vẫn có tính hay chế giễu. Môngpácnát nói:

- Mày đừng đùa, cứ nói thật xem mày thấy tao bây giờ thế nào?

Giọng nói của Môngpácnát cũng khác. Quả là Môngpácnát đã biến thành một con người khác trong nháy mắt. Gavrốt reo:

- Nào! Làm hề cho chúng tớ xem chơi.

Hai thằng bé trước nay vẫn không để ý tới câu chuyện vì chúng cũng mải thọc tay vào lỗ mũi, khi nghe nói đến hề mới nhích lại gần, hân hoan và kính phục nhìn Môngpácnát.

Nhưng Môngpácnát còn mải lo việc khác. Hắn đặt tay lên vai Gavrốt và nhấn từng tiếng:

- Nghe tao bảo đây, nhỏ. Nếu tao có đem theo con đốm, cây đao và con đầm mà ở giữa chợ mày đãi tao mười xu thì tao làm ngay, nhưng hôm nay đâu phải ngày thứ ba béo.

Câu nói kỳ quặc ấy có hiệu lực khác thường đối với Gavrốt. Chú vội vã quay đầu lại, đưa cặp mắt sáng nhìn quanh một lượt và trông thấy một tên cảnh sát quay lưng lại phía bọn chú. Chú buột miệng kêu:- A! Được rồi! Và kịp thời giữ mồm lại. Chú lắc bàn tay Môngpácnát.

- Chào cậu thôi! Mình đưa hai tay thằng bé này về voi. Giả thử có đêm nào cậu cần đến tớ thì cứ lại mà tìm. Tớ ở ngay từng một, không có người gác cổng. Cậu hỏi ông Gavrốt khắc có.

- Được.

Hai bên chia tay nhau, Môngpácnát đi phía Gơre, Gavrốt đi phía ngục Bátxti. Gavrốt kéo thằng anh, thằng anh lôi thằng em, nhưng thằng này vẫn ngoái cổ nhìn theo anh “hề”.

Câu nói tối nghĩa của Môngpácnát đã bảo cho Gavrốt biết là có lính cảnh sát. Bí quyết của nó ở chỗ có nhiều âm đ lặp đi lặp lại. Những âm đ ấy không đứng riêng mà ghép nên câu kéo một cách có nghệ thuật. Việc lặp âm đ ấy có nghĩa là: Phải coi chừng đấy! Không thể ăn nói tự do đâu.

Ngoài ra, trong câu của Môngpácnát có một hình tượng văn học lý thú mà Gavrốt không cảm thụ. Đó là những danh từ trong kho tàng tiếng lóng của nhà ngục Tăngplơ; con đốm, cây đao và con đầm có nghĩa là con chó, con dao và con vợ của tao, những tiếng cánh hề rất ưa dùng ở thời Môlie viết kịch và Canlô vẽ.

Hai mươi năm trước, ở góc đông nam nhà lao Bátxti có một công trình lạ, nằm ở gần trạm bơm nước của kênh đào trong hào nhà ngục. Người Pari ngày nay không còn nhớ tới nữa, nhưng kể ra thì đáng nhớ, bởi vì nó là một sáng kiến của nhà “hàn lâm tổng tư lệnh đạo quân viễn chinh Ai Cập”.[186] Chúng tôi gọi là một công trình mặc dù đây mới là một ma-két. Chính cái ma-két ấy, cái mô hình vĩ đại ấy, cái di hài hùng tráng của một sáng kiến của Napôlêông mà mấy luồng gió tiếp nhau đã cuốn đi, đã ném mỗi lần một xa thêm, chính cái ma-két ấy đã đi vào lịch sử, đã mang một cái gì như là một tính chất vĩnh cửu khác hẳn với hình dáng nhất thời của nó. Đó là một cái tượng voi cao mười ba thước, sườn gỗ đắp hồ, trên lưng có bành tháp tựa như một ngôi nhà. Ngày xưa một người thợ sơn nào đó đã sơn màu xanh cho con voi, ngày này mưa gió và thời gian đã sơn lại màu đen. Trong khoảng trống trải vắng lặng ấy, đêm đêm, trên nền trời sao hiện lên hình thù con voi kỳ lạ và ghê gớm với vầng trán rộng, cái vòi và đôi ngà, cái bành tháp, cái mông to lớn, bốn cái chân như bốn cây cột trụ. Người ta không biết nó mang ý nghĩa gì. Nó là một thứ biểu tượng của lực lượng quần chúng. Lầm lì, huyền bí mênh mông. Một thứ bóng ma dũng mãnh, đứng lừng lững bên cạnh cái ám ảnh vô hình của nhà ngục Bátxti.

[186] Napôlêông khi đem quân đi đánh Ai Cập đã thành lập Viện khảo cổ Ai Cập.

Ít có người ngoại quốc đến viếng di tích ấy. Khách qua đường không ai ngẩng nhìn nó. Nó đương đổ nát. Mỗi mùa, từng mảng hò hai bên sườn lở đi, thành những vết thương ghê tởm. Các “quan chức” - gọi theo ngôn ngữ trân trọng - các quan chức đã quên nó từ năm 1814. Nó đứng trơ trơ ở chỗ ấy, buồn bã, ốm đau, mục nát, chung quanh có một vành bao lơn hư hỏng làm chỗ phóng uế cho bọn đánh xe say sưa. Bụng nó nứt nẻ ngang dọc, đuôi để lộ một cái nẹp gỗ, dưới chân cỏ mọc lên cao. Mặt đất quảng trường xung quanh cứ mỗi ngày một nhô thêm lên, theo một quy luật tự nhiên, nó nâng cao chậm chạp nhưng liên tục mặt nền các thành phố lớn. Vì thế nên con voi ngày nay ở vào một chỗ lõm, dưới chân có vẻ như thụt xuống. Nó thô bỉ mà ngang tầng, người ta khinh nó, người ta ngoảnh mặt đi. Anh tư sản trông nó xấu xí, nhà tư tưởng thấy nó gợi sầu. Nó vừa như một đống rác rưởi người ta sắp quét đi, vừa như một chiếc ngai vàng người ta sắp xô xuống.

Như đã nói, ban đêm hình trạng nó đổi khác. Đêm là sở hữu của các thứ bóng. Khi hoàng hôn xuống thì con voi cũ kỹ cũng thay hình đổi dạng: Nó hóa ra tĩnh mịch uy nghi lạ thường trong cảnh đêm thanh hùng vĩ. Là dĩ vãng, nó thuộc đêm tối; và đêm tối hợp với tính chất vĩ đại của nó.

Cái di tích thô kệch, bè bè, nặng nề, nghiêm lạnh, hình thù xấu xí nhưng rõ ràng là uy nghi bề thế, đượm một vẻ trang nghiêm huy hoàng và hoang dã đã biến mất rồi, nhường chỗ cho cái lò khổng lồ có tra ống khói kia ngự trị bình yên. Cái lò này đã thay thế cái thành lũy tăm tối có chín tháp canh, giống như chính quyền tư sản thay thế chính quyền phong kiến. Ở thời mà một cái nồi chứa năng lực thì dễ hiểu một cái hỏa lò phải biểu trưng của thời đại. Cái thời đại đó sẽ qua nó dang qua. Người ta bắt đầu hiểu là có thể có năng lượng trong một nồi xúpde, nhưng chỉ có thể có năng lực trong bộ óc; nói cách khác, không phải đầu máy lôi kéo thế giới đi tới mà chính tư tưởng. Móc đầu máy vào tư tưởng tốt, nhưng không được nhầm con ngựa với người cưỡi ngựa.

Trở lại với quảng trường La Bátxti, ta thấy rằng dẫu sao chỉ với chất thạch cao, người kiến trúc sư xây đắp con voi đã làm nên một cái gì vĩ đại cong người kiến trúc sư xây dựng ống khói hỏa lò đã làm được một cái gì nhỏ nhoi với đồng đen.

Cái “ống khói hỏa lò” mà người ta đã phong cho cái danh hiệu rất kêu là Cột đồng tháng bảy, cái công trình làm hỏng để kỷ niệm một cuộc cách mạng đẻ non đó, đến năm 1832, còn được bọc trong một giàn giáo đồ sộ bằng gỗ, - mà chúng tôi thấy rất uổng phí, - và quây trong một vòng phên ván, làm cho con voi bị cô lập hẳn.

Chú bé Gavrốt dẫn hai đứa trẻ đến một góc quảng trường, nơi ấy chỉ có một ngọn đèn treo mập mờ.

Bạn đọc hãy cho phép chúng tôi dừng ở đây và nhắc lại là chúng tôi chỉ nói sự thật đơn giản: hai mươi năm trước, tòa trừng trị đã xử, về tội du đãng và phá hoại di tích công cộng, một chú bé bị bắt quả tang ngủ trong bụng con voi ở La Bátxti.

Ghi nhận việc ấy rồi, chúng tôi tiếp tục.

Đi gần đến chỗ con voi, Gavrốt đoán biết cái cực lớn có thể có ảnh hưởng thế nào đối với cái cực bé.

- Nhóc đừng có sợ nhé, chú nói.

Rồi chú len qua một khoảng bao lơn mục gãy, sau đó kéo hai đứa bé đi qua. Hai đứa bé hơi sợ nên lặng lẽ đi theo Gavrốt. Chúng tin cậy ở vị thần áo rách đã cho chúng nó ăn và còn hứa cho chúng nó ngủ.

Bên cạnh bao lơn có một chiếc thang để nằm. Chiếc thang ấy anh em thợ ở công trường bên cạnh vẫn dùng ban ngày. Gavrốt nhấc bổng chiếc thang lên một cách mạnh mẽ lạ thường và dựng nó vào một chân trước của con voi. Ở đầu trên chiếc thang thấy có một lỗ đen ngòm trong bụng con vật.

Gavrốt chỉ chiếc thang và cái lỗ trống cho khách và nói:

- Leo lên rồi vào đi.

Hai đứa bé nhìn nhau kinh hãi. Gavrốt kêu:

- Nhóc sợ ư? Đây các chú xem.