Những người khốn khổ - PHẦN V - Quyển III - Chương 07 - 08 - 09

VII

CÓ KHI TƯỞNG CẬP BẾN LẠI HÓA MẮC CẠN

Giăng Vangiăng lại bắt đầu đi nữa.

Dù ông không bỏ mạng trong vũng bùn, nhưng hình như ông đã trút hết cả sức lực xuống đó. Sự gắng sức phi thường ấy đã làm cho ông kiệt sức. Ông mệt nhọc quá nên cứ đi ba, bốn bước là phải tựa vào vách để thở. Một lần, ông ngồi bệt xuống thành cống để đổi tay ôm Mariuytx, và tưởng phải ngồi vĩnh viễn ở đấy, không đứng lên được. Tuy không còn sức nữa, nhưng ông vẫn còn nghị lực. Ông lại đứng dậy.

Ông bước đi, tuyệt vọng, cố gắng bước nhanh. Ông đi như thế được độ trăm bước, đầu cúi gằm xuống, hầu như cố nhịn thở mà đi, bỗng vấp phải bức tường. Ông đến chỗ cong ngoặt, vì cúi gằm nên đâm phải bức vách. Ông ngẩng lên nhìn thì thấy ở phía đầu cống đằng kia, xa, xa lắm, phía trước mặt, có ánh sáng. Lần này không phải là thứ ánh sáng kinh khủng, nhưng là thứ ánh sáng trắng tốt lành. Ánh sáng ban ngày.

Giăng Vangiăng thấy lối thoát.

Một tội nhân dưới âm ty đang đứng giữa đống lửa rực đỏ mà bỗng thấy cửa địa ngục mở, có cảm giác như thế nào thì lúc ấy Giăng Vangiăng cũng cảm thấy như thế. Người ấy sẽ vẫy đôi cánh cháy cụt mà cuống cuồng bay về phía cửa ngục. Giăng Vangiăng không thấy mệt mỏi nữa; ông không thấy gánh nặng trên vai nữa; bắp chân ông trở lại là bắp chân thép. Ông bước nhanh như chạy. Càng đến gần, lối ra càng rõ ràng. Đó là một nhịp cuốn hình bán nguyệt, thấp hơn cái vòm trần cống; trần mỗi lúc một thấp xuống; lối đi cũng hẹp hơn lòng cống; lòng cống đã mỗi lúc một hẹp lại, cũng như vòm cống càng hạ thấp xuống. Cái hầm thuôn thuôn như lòng phễu; kiểu kiến trúc như thế thật thất sách; nó rập theo lối cổng vào nhà tù. Xây như thế thì hợp với nhà lao nhưng không hợp với đường cống ngầm. Sau này, người ta đã sửa lại.

Giăng Vangiăng đến cửa hầm.

Đến đây, ông dừng lại.

Đích thị là cửa ra, nhưng không ra được.

Một cánh cửa sắt lù lù đóng kín; trông thì hình như họa hoằn lắm cửa mới mở, bản lề rỉ cả rồi. Cánh cửa đóng chặt vào cái khung đá bằng một cái khóa nặng nề rỉ đỏ cả ra, trông như một hòn gạch tướng. Trông thấy cái lỗ cắm chìa khóa, cả cái mở khóa kiên cố cắm sâu vào lỗ khóa. Thật rõ là cái khóa đã được vặn hai vòng. Loại khóa ấy là loại khóa các cửa ngục, thành phố Pari xưa không thiếu gì.

Bên kia cửa là không gian rộng rãi, là con sông, ánh sáng, cái bãi cát rất hẹp nhưng thừa sức để đi thoát, là những bến xa xa, là Pari, cái vực thẳm rất dễ lẩn trốn, là chân trời thênh thang, là tự do. Ở bên phải, phía dưới dòng sông, thấy cầu Iêna; bên trái phía bên dòng sông, là cầu Anhvalít. Nơi ấy thật thuận lợi để chờ đến đêm mà trốn đi. Nơi ấy là một nơi vắng vẻ nhất Pari; cái bãi này đối diện với Gơrô Cayu. Ruồi bay vào bay ra giữa các chấn song sắt.

Lúc ấy đã đến tám rưỡi tối. Ngày sắp tàn.

Giăng Vangiăng đặt Mariuytx nằm xuống nơi khô nhất trên mép máng dọc theo vách, rồi tiến ra phía cửa, lấy hai bàn tay nắm chặt chấn song cửa. Tay ông lắc như điên dại, nhưng cửa không nhúc nhích. Giăng Vangiăng nắm từng song sắt, hy vọng có thể nhổ được thanh yếu nhất, rồi dùng thanh ấy mà bẩy cửa ra hoặc cạy gãy khóa. Không lay được một cái chấn song nào hết. Đến răng trên hàm hổ cũng không vững bằng. Không có đòn bẩy thì đừng hòng mà cạy được. Cái trở ngại này không thể vượt qua. Không có cách nào mở được cửa.

Đành chịu chết à? Làm thế nào bây giờ? Rồi sẽ ra sao? Quay trở lại ư? Lại bắt đầu đi trở lại con đường khủng khiếp vừa đi qua? Không còn sức mà đi nữa. Vả lại, lúc nãy có qua được vũng bùn là chuyện thần kỳ, chứ bây giờ biết làm thế nào! Bên kia vũng bùn, chẳng có bọn cảnh binh tuần tiễu là gì? Thoát được một lần chứ thoát sao được hai lần? Rồi còn biết đi đâu? Đi về hướng nào? Đi theo dốc, tất không thể tới đích. Mà có thấy lối ra thì lối ra cũng đóng nắp hay bịt cửa. Chắc chắn là mọi cửa cống đều đóng kín như thế này. Tình cờ mà cái cửa Giăng Vangiăng chui xuống lúc nãy mở, chứ dĩ nhiên là tất cả mọi miệng cống khác đều đóng cả. Vừa qua, ông trốn thoát, nhưng lại trốn vào trong một ngục tù.

Thế là hết, Giăng Vangiăng làm gì cũng vô hiệu. Chúa không chịu.

Cả hai người cùng sa vào cái lưới chết mênh mông tăm tối. Giăng Vangiăng như trông thấy có nhện kinh khủng đang chạy trên những sợi dây đen run rẩy trong bóng đêm.

Ông quay lưng ra cái cửa sắt, không phải ngồi mà ngã vật xuống nền, ngay bên cạnh Mariuytx im lìm. Đầu ông gục xuống giữa hai gối. Không có lối ra. Không còn gì hãi hùng hơn!

Trong lúc lòng ông xót xa như vậy, ông nghĩ đến ai? Ông không nghĩ đến ông, cũng không nghĩ đến Mariuytx. Ông nghĩ đến Côdét.

VIII

VẠT ÁO RÁCH

Giữa lúc tuyệt vọng như vậy thì có một bàn tay đặt lên vai ông; một giọng khe khẽ nói với ông:

- Chia đôi nhé.

Ai ở trong bóng tối này? Lúc tuyệt vọng thì người ta như ở trong cơn mộng. Giăng Vangiăng tưởng mình nằm mơ. Ông có nghe thấy tiếng chân bước đâu. Có quả là có tiếng người không? Ông ngẩng lên nhìn.

Một người đứng ngay trước mặt.

Người ấy mặc một cái áo bơ-lu, chân dẫm đất, tay trái xách đôi giầy. Chắc hẳn là hắn ta đã tháo giầy ra để đi đến gần Giăng Vangiăng mà ông không hay biết.

Giăng Vangiăng không lưỡng lự một phút. Tuy gặp gỡ bất ngờ, ông nhận ra hắn ta ngay. Người ấy là Tênácđiê.

Mặc dù có thể nói ông vừa chợt tỉnh, nhưng vốn ông đã quen với những nguy biến, vốn ông đã dạn dày với những miếng đòn bất ngờ phải đối phó ngay tức khắc, nên ông lại trấn tĩnh được ngay lúc ấy. Vả lại lúc bấy giờ, không thể có tình thế nào nguy ngập hơn thế, tình cảnh đã đến chỗ cùng đồ không thể tăng thêm lên, và ngay đến hình ảnh Tênácđiê cũng không thể làm cho bóng đêm này đen thêm được.

Hai bên cùng chờ đợi.

Tênácđiê giơ tay phải lên ngang tầm trán, để che cho khỏi chói mắt, lông mày nhíu lại, mắt nheo đi, môi hơi mím, dấu hiệu của một người đang chăm chú cố nhận mặt kẻ khác. Không nhận ra là ai cả. Ta vừa nói, Giăng Vangiăng ngồi quay lưng ra ánh sáng, mặt mày nhem nhuốc, đẫm máu, đến ngay giữa ban ngày ban mặt cũng khó nhận ra. Trái lại, Tênácđiê quay mặt ra ánh sáng, tuy chỉ là ánh sáng mờ nhạt trong hầm, mờ nhạt mà lại chính xác, nên mặt mày Tênácđiê đập ngay vào mắt Giăng Vangiăng, nói theo lối ẩn dụ thông thường nhưng rất mạnh. Trong cuộc đọ sức bí mật giữa hai tình thế, hai con người này, chỉ một sự chênh lệch điều kiện như thế cũng đủ tạo cho Giăng Vangiăng một ít ưu thế. Cuộc gặp gỡ này là cuộc gặp gỡ giữa Giăng Vangiăng có khăn che mặt và Tênácđiê bị lột mặt nạ.

Giăng Vangiăng biết ngay là Tênácđiê không nhận ra mình.

Hai người nhìn nhau một lúc trong ánh sáng mờ mờ này như để dò xét nhau. Tênácđiê là người đầu tiên phá tan sự im lặng ấy:

- Mày định làm thế nào mà ra?

Giăng Vangiăng không trả lời. Tênácđiê nói tiếp:

- Mở cửa thế đếch nào được. Nhưng mày phải cút khỏi nơi đây chứ!

Giăng Vangiăng đáp:

- Đúng thế.

- Thế thì chia đôi nhé.

- Cái gì cơ?

- Mày giết nó, được. Còn tao, tao có chìa khóa.

Tênácđiê chỉ Mariuytx. Nó còn tiếp:

- Tao không quen mày, nhưng tao muốn giúp mày. Chắc là cùng cảnh với nhau cả.

Giăng Vangiăng bắt đầu hiểu. Tênácđiê tưởng ông là kẻ giết người. Tênácđiê lại nói:

- Này đằng ấy này. Đằng ấy giết thằng này hẳn đằng ấy đã nhìn xem trong túi nó có gì. Chia cho tớ một nửa. Rồi tớ mở cửa cho.

Rồi thò một cái chìa khóa to tướng ra khỏi áo bơ-lu rách bươm, nó nói:

- Có muốn xem cái bảo bối dùng để chuồn ra ngoài không? Đây này.

Giăng Vangiăng “cứ sững sờ” - tiếng đó là của cụ Goócnâyđơ xưa kia, không biết là mơ hay thật. Thật đúng là Thượng đế hiện lên, ghê tởm, đúng là vị thiên thần cứu mệnh từ dưới đất chui lên, nhập vào hình Tênácđiê.

Tênácđiê thọc tay vào cái túi rộng dưới áo bơ-lu, lấy ra một cái thừng đưa cho Giăng Vangiăng và nói:

- Này, cho thêm mày cái này.

- Thừng à? Để làm gì?

- Phải có tảng đá nữa, ngoài kia khối, ở đấy có một đống đá tướng.

- Đá à? Để làm gì?

- Đồ ngốc, vứt thằng cha này xuống thì phải buộc nó vào đá chứ, không thì để nó nổi lềnh bềnh trên mặt nước à?

Giăng Vangiăng cầm cuộn dây thừng. Ai cũng có lúc giơ tay ra nhận tự nhiên như vậy.

Tênácđiê búng ngón tay như vừa chợt nghĩ ra điều gì:

- A này, đằng ấy này, làm cách nào mà thoát được vũng bùn ấy thế? Tớ không dám liều đấy. Khiếp, đằng ấy hôi bỏ mẹ.

Nghỉ một lát, nó nói thêm:

- Tớ hỏi mãi, đằng ấy không trả lời, kể cũng có lý. Tập sự đề phòng mười lăm phút ra trước lão dự thẩm mà lị. Vả chăng không nói gì thì cũng đỡ sợ nhỡ nói to tiếng quá. Cũng chả sao. Tớ không trông rõ mặt đằng ấy, không biết tên đằng ấy, nhưng đừng có tưởng tớ không biết đằng ấy là ai, đằng ấy muốn gì. Biết tất. Đằng ấy cũng có vặn cổ ông này đôi chút nên bây giờ đằng ấy muốn cất giấu gã ta đâu đây! Đằng ấy muốn vứt xuống sông chứ gì, phải đấy, sông là cái tủ cất giấu mọi dại dột. Để tớ gỡ rối cho. Giúp cho một anh em qua bước khó khăn là tớ thích lắm.

Tuy mồm nó thì nói tán thành Giăng Vangiăng im lặng, nhưng rõ ràng là nó tìm đủ mọi cách để làm cho Giăng Vangiăng phải nói. Nó thích vào vai ông, cốt để nhìn nghiêng nét mặt Giăng Vangiăng. Rồi nó kêu lên, nhưng nó cố giữ cho tiếng nói không cất cao.

- Qua được vũng bùn, kể cũng yêng hùng thật. Thế sao không vứt quách thằng cha này xuống?

Giăng Vangiăng vẫn im lặng.

Tênácđiê miệng nói, tay kéo cái mảnh vải dùng làm ca-vát lên tận gần sát cằm, trông ra vẻ một người đứng đắn:

- Nói cho đúng thì có lẽ đằng ấy làm thế là khôn đấy! Mai bọn thợ vào lấp cái hố lại, nhất định sẽ thấy có ai bỏ quên thằng cha nào ở đấy, họ lần từng tí, từng tí, rồi vớ được những vết chân đằng ấy, rồi đến tóm đằng ấy. Có người chui qua cống. Ai? Ra lối nào? Có ai trông thấy nó ra không? Cảnh sát nó tinh ghê lắm cơ. Còn cái cống thì đểu bỏ mẹ, nó tố cáo mình ngay. Cái của này trong cống thì hiếm thật, ai cũng phải chú ý đến nó, chẳng mấy ai dùng đến cái cống mà làm ăn. Còn con sông thì là của chung của thiên hạ. Sông mới là cái huyệt thật sự. Một tháng sau mới vớt được xác thằng cha này vào lưới ở Xanhcơlu. Ừ, thế thì còn làm cóc gì nữa? Một cái thây rữa chứ gì! Ai giết? Pari. Tòa án cũng chẳng thèm thông báo! Đằng ấy làm thế là phải.

Tênácđiê càng thao thao, Giăng Vangiăng càng im lặng. Tênácđiê lại lay vai ông:

- Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, chia đôi nhé. Đằng ấy trông thấy cái chìa khóa của tớ rồi đấy; bây giờ cho tớ xem chỗ tiền của đằng ấy đi.

Tênácđiê trông hung tợn, ám muội, hơi có vẻ dọa nạt, lại ra dáng thân mật.

Thật lạ lùng! Dáng điệu Tênácđiê không bình thường; nó có vẻ không được tự nhiên lắm, nó làm ra dáng không bí mật, nhưng lại nói nhỏ. Thỉnh thoảng nó để ngón tay lên miệng, khe khẽ bảo: Suỵt! Khó mà đoán tại sao như vậy. Ở chỗ ấy chỉ có hai người với nhau. Giăng Vangiăng nghĩ rằng có lẽ còn có những thằng kẻ cướp khác nhau đang chúi ở một xó xỉnh nào, không xa đấy lắm và chắc thằng Tênácđiê không muốn chia phần cho bọn chúng.

Tênácđiê lại nói:

- Thôi, cho xong đi nào! Lần túi của thằng cha này được bao nhiêu?

Giăng Vangiăng lục túi áo mình.

Ta còn nhớ, thường Giăng Vangiăng vẫn giắt tiền trong người. Trong cuộc đời phải luôn luôn ứng phó xoay sở của mình, Giăng Vangiăng lấy đó làm một nguyên tắc. Thế mà lần này thì bị một vố bất ngờ quá. Tối hôm qua, lúc mặc bộ quần áo quốc dân quân, ông mải mê với những ý nghĩ bi đát, nên quên bẵng không mang cái ví. Chỉ còn một ít tiền trong túi áo gi-lê. Vào khoảng ba mươi phơrăng. Ông lộn cái túi áo sũng bùn bê bết và rải trên bờ cống một đồng lu-i vàng, hai đồng năm phơrăng và năm sáu đồng xu đôi.

Tênácđiê bĩu môi, cổ vặn lại rất có ý nghĩa. Nó nói:

- Có thế mà cũng giết người ta!

Rồi nó cứ tự tiện sờ nắn mọi túi của Giăng Vangiăng và Mariuytx. Giăng Vangiăng chỉ cốt làm sao quay lưng ra phía cửa, nên mặc nó làm gì thì làm. Lúc nắn quần áo của Mariuytx, Tênácđiê tìm cách xé một mảnh vạt áo của Mariuytx, khéo léo, lanh lẹ đúng như một tên kẻ cắp. Giăng Vangiăng không hề biết. Nó giấu mảnh áo dưới áo bơ-lu của nó, chắc nó nghĩ sau này có mảnh vạt áo ấy thì sẽ tìm ra người bị ám sát và kẻ ám sát. Ngoài số ba chục phơrăng đó, nó chẳng thấy gì thêm.

- Đúng rồi, chúng mày thằng nọ cõng thằng kia cũng chẳng có gì hơn thế này.

Rồi quên mất câu “chia đôi nhé”, nó vơ lấy tất.

Lúc cầm mấy đồng xu đôi nó hơi ngần ngại. Sau khi nghĩ kỹ nó vơ cả, miệng lẩm bẩm:

- Thây xác! Công chọc tiết người ta như thế này thì rẻ quá.

Vơ tiền xong, nó lại móc chìa khóa ở dưới áo bơ-lu ra:

- Bây giờ thì mời ông tướng ra cho. Ở đây cũng như ở phiên chợ, ra phải trả tiền. Đằng ấy trả rồi thì ra đi.

Thế rồi nó cười.

Tênácđiê đưa chìa khóa giúp một kẻ không quen biết, để cho một người khác không phải hắn chui qua cái cửa hầm này, thử hỏi nó có ý định trong sạch và vô tư thật không? Điều đó đáng ngờ.

Tênácđiê giúp Giăng Vangiăng đặt Mariuytx lên vai; rồi nó nhón chân tiến ra phía cửa, ra hiệu cho Giăng Vangiăng đi theo nó. Nó nhìn ra ngoài, ngón tay đặt lên miệng, có vẻ như do dự trong mấy giây. Xem xét xong, nó tra chìa khóa vào ổ khóa. Mở khóa tuột ra, cánh cửa quay. Không một tiếng rít, không một tiếng sắt nghiền! Rất êm ái nhẹ nhàng. Rõ ràng là cái cửa ấy bản lề được tra dầu mỡ cẩn thận, thường thay luôn, chứ không phải họa hoằn lắm đâu. Êm ái mà rùng rợn. Trong sự nhẹ nhàng êm ái đó, người ta nghe thấy tiếng đi lại vụng trộm, bước chân ra vào êm lặng của những kẻ ăn sương, gót chân rón rén của tội ác. Hẳn cống ngầm có đồng mưu với bọn bí mật nào đây. Cái cửa câm lặng này là một kẻ oa trữ.[338]

[338] Oa trữ: giữ những thứ người khác lấy được một cách phi pháp. (chú thích của người làm ebook, theo từ điển Lạc Việt)

Tênácđiê mở hé cánh cửa, vừa đủ cho Giăng Vangiăng lọt qua rồi nó đóng cửa lại, quay chìa khóa hai lần. Rồi nó lại lẩn sâu vào bóng tối, chỉ nghe thấy một tiếng nhè nhẹ như gió thoảng. Bàn chân nó lướt nhẹ nhàng như bàn chân nhung của con hổ. Một lát sau, đấng cứu tinh ghê tởm ấy lại trở về cõi vô hình.

Giăng Vangiăng đã ở bên ngoài.

IX

DƯỚI CON MẮT MỘT NGƯỜI THÀNH THẠO, MARIUYTX CÓ VẺ NHƯ ĐÃ CHẾT RỒI

Giăng Vangiăng nhẹ nhàng đặt Mariuytx xuống bãi cát.

Hai người đã ở bên ngoài rồi!

Nào xú khí, nào bóng đêm, nào ghê rợn, tất cả đều trút sạch lại đằng sau. Không khí tràn ngập, không khí tốt lành, trong sạch, đầy sinh khí, vui vẻ, tha hồ mà thở. Bốn bề im lặng, cái im lặng dễ thương của buổi trời chiều, mặt trời ngả trên nền trời xanh thẳm. Lúc ấy đã là hoàng hôn. Đêm đang đến, đêm là kẻ giải phóng vĩ đại, là người bạn chân tình của những ai cần khoác cái áo bóng tối để vượt ra khỏi hãi hùng, cả bầu trời đâu đâu cũng một bình tĩnh mênh mông. Con sông vỗ dưới chân như một cái hôn nhẹ nhàng. Trên không, trong lùm cây du quảng trường Săng Êlidê, tiếng chim chiều từ các tổ thánh thót chúc tụng nhau. Mấy ngôi sao lác đác trên da trời xanh nhạt, chỉ con mắt mơ màng mới nhìn thấy, giống như những chấm sáng li ti. Cảnh chiều tà rải trên đầu Giăng Vangiăng tất cả những êm dịu của không gian vô tận.

Cái giờ phút mơ hồ, kỳ thú. Cái giờ phút không nơi có, không! Đã khá đủ bóng đêm để cách một quãng người ta mất dấu nhau; nhưng cũng còn khá đủ ánh sáng để đứng gần nhau còn nhận được nhau.

Giăng Vangiăng không thể cưỡng lại cái bầu không khí trong lành uy nghiêm và mơn trớn ấy. Có những phút lãng quên như vậy; lúc đó, đau khổ buông tha cho kẻ khốn cùng; mọi lo buồn trong lòng đều tiêu biến, cảnh yên bình, như tấm màn đêm, bao phủ người mơ mộng. Và trong buổi hoàng hôn ngời sáng tâm hồn người ta cũng lấp lánh những vì sao, tựa như bầu trời rạng rỡ bên ngoài. Giăng Vangiăng không thể không chiêm ngưỡng cảnh đêm quang đãng trên đầu ông. Trong cảnh yên tĩnh hùng vĩ của bầu trời bất diệt, ông mơ màng gửi hồn vào cõi hư không và ông cầu nguyện. Rồi như chợt nhớ đến nhiệm vụ, ông hối hả cúi xuống Mariuytx; ông vốc nước vào lòng bàn tay, khẽ vẩy mấy giọt lên mặt anh. Mắt Mariuytx nhắm nghiền nhưng miệng anh vẫn hé thở.

Giăng Vangiăng toan nhúng tay xuống nước thì chợt thấy trong người gai gai khó chịu, giống lúc ta cảm thấy như có ai đứng đằng sau mà ta chưa trông thấy. Chúng tôi đã nói đến cảm giác ấy mà ai cũng đã từng có.

Ông quay lại.

Cũng giống như lúc nãy, quả nhiên có một người lù lù đứng đằng sau.

Một người vóc dáng cao, mặc một cái áo dài, hai tay khoanh trước ngực, tay phải nắm một cái gậy ngắn, quả chùy thò ra ngoài. Hắn đứng cách mấy bước, ngay sau Giăng Vangiăng, ông này đang ngồi xổm một bên Mariuytx.

Trong bóng tối, trông hắn như một ma hiện. Một người thực thà hẳn phát khiếp, vì lúc ấy nhá nhem tối; một người chín chắn hẳn phải sợ vì cái quả chùy.

Giăng Vangiăng nhận ra Giave.

Chắc bạn đọc đã đoán rằng người đuổi theo Tênácđiê chính là Giave. Sau khi không chút hy vọng mà lại thoát được khu chiến đấu, Giave về sở cảnh sát yết kiến qua viên cảnh sát trưởng và báo cáo nhiệm vụ. Ta còn nhớ, trong tờ giấy bắt được trong người Giave, có ghi cần phải kiểm soát khu hữu ngạn, phía Săng Êlidê, khu này ít lâu nay sở cảnh sát đã chú ý. Đến nơi, Giave trông thấy Tênácđiê và đuổi theo nó. Câu chuyện ra sao ta đã biết.

Ta cũng biết rằng Tênácđiê ân cần mở cửa hầm cho Giăng Vangiăng là nó dùng thủ đoạn khôn khéo. Nó cảm thấy Giave vẫn đứng đấy; người ta khi có ai rình thì đánh hơi thấy ngay. Phải vứt một mẩu xương cho con chó săn. Một thằng giết người, còn gì bở bằng? Một kẻ thay thế bỏ qua làm sao được? Tênácđiê thả Giăng Vangiăng ra thế mạng cho nó; nó đã quẳng một miếng mồi cho cảnh sát. Thế là viên cảnh sát không theo dấu nó để vớ một món to hơn. Như vậy là nó thưởng cho Giave đã tốn công chờ, tên mật thám hẳn thú vị lắm, còn nó, nó lại vớ được ba mươi phơrăng và thế nào cũng thoát thân, nhờ cái mưu đánh tráo ấy.

Giăng Vangiăng hết gặp bước hiểm nghèo này thì đến bước hiểm nghèo khác.

Hai cuộc gặp gỡ liên tiếp như thế này! Rơi từ tay Tênácđiê sang Giave! Cuộc đời sao mà bất nhẫn quá thế?

Giave không nhận ra Giăng Vangiăng bởi vì ông đổi khác hẳn, như ta đã nói ở trên. Hắn vẫn khoanh tay, ngầm nắm chắc cây gậy chùy. Lời hắn nói vắn tắt và bình tĩnh:

- Anh là ai?

- Tôi đây.

- Tôi là ai?

- Giăng Vangiăng.

Giave cắn quả chùy vào miệng, chân gấp xuống, mình cúi nghiêng, đặt hai bàn tay rắn chắc lên vai Giăng Vangiăng như hai cái kìm kẹp chặt. Hắn nhìn Giăng Vangiăng, nhận ra ông. Mặt hai người gần chạm nhau. Con mắt Giave thật khủng khiếp.

Giăng Vangiăng im lìm không cử động dưới hai bàn tay nắm chặt của Giave như một con sư tử chịu nằm trong vuốt con linh miêu. Ông nói:

- Ông thanh tra Giave, ông bắt được tôi. Ngay từ sáng nay tôi đã tự coi như ở trong tay ông rồi. Tôi đã nói rõ chỗ ở của tôi tất không phải là để trốn ông. Bây giờ ông bắt tôi đi. Nhưng tôi chỉ xin ông một điều.

Giave hình như chẳng nghe thấy gì. Hắn nhìn Giăng Vangiăng chòng chọc. Cằm hắn nhăn lại, môi nhếch lên gần mũi thế nghĩa là hắn đang mải mê với những ý nghĩ hung tợn. Sau cùng, hắn buông Giăng Vangiăng ra, đứng hẳn dậy, tay nắm lại gậy chùy và thì thầm hỏi như trong một giấc mộng:

- Anh làm gì đấy? Người này là ai?

Hắn vẫn tiếp tục không mày tao với Giăng Vangiăng. Giăng Vangiăng trả lời, tiếng ông như đánh thức Giave tỉnh dậy:

- Đúng là tôi muốn nói với ông chuyện người này. Ông làm gì tôi thì tùy ông; nhưng xin ông giúp tôi mang anh ta về nhà anh ta đã. Tôi chỉ xin có thế.

Mặt Giave nhăn nhúm lại; cứ mỗi lần người ta tưởng hắn có thể nhượng bộ là mặt hắn co rúm lại như vậy. Tuy nhiên hắn cũng không nói: không.

Hắn cúi xuống lần nữa, rút ở túi ra một cái mùi soa, nhúng xuống nước rồi lau trán Mariuytx đẫm máu. Hắn nói khe khẽ, như nói với mình:

- Người này lúc nãy ở ngoài chiến lũy. Người ta gọi hắn là Mariuytx.

Giave là tên mật thám bậc nhất, lúc ở chiến lũy, tuy tưởng rằng mình sắp chết mà cái gì hắn cũng nhận xét, nghe ngóng, nghe thấy gì là lượm lấy, ngay cả trong cơn hấp hối hắn vẫn do thám; lúc ấy hắn đã tự tỳ tay lên mộ nhưng vẫn còn ghi chép.

Hắn cầm tay Mariuytx, để tìm mạch.

- Bị thương. Giăng Vangiăng nói.

- Hắn chết rồi. Giave bảo.

Giăng Vangiăng trả lời:

- Không, chưa chết.

- Thế anh cõng hắn từ chiến lũy về đây à? Giave nhận xét.

Giave chắc là tâm trí đang bận rộn lắm, nên không hỏi gì đến việc kỳ dị mà Giăng Vangiăng đã làm là do con đường cống mà cứu thoát Mariuytx và cũng không để ý đến việc Giăng Vangiăng cứ im lặng không trả lời câu hỏi của hắn ta.

Về phần Giăng Vangiăng, ông cũng chỉ có độc một ý nghĩ. Ông nói tiếp:

- Anh này ở khu Mare phố Phiơ đuy Canve, nhà ông anh ta… tôi không nhớ tên gì.

Giăng Vangiăng lục túi Mariuytx, lấy quyển sổ ra, mở đến trang Mariuytx ghi bút chì rồi đưa cho Giave.

Trên không vẫn còn chập chờn chút ánh sáng đủ để đọc. Vả lại, Giave vốn có con mặt của loài cú vọ ăn đêm, sáng như có chất lân tinh. Hắn đọc mấy dòng chữ của Mariuytx rồi lẩm bẩm nói:

- Gilơnócmăng, phố Phiơ đuy Canve, nhà số 6.

Hắn gọi to: - Xe!

Ta còn nhớ cái xe ngựa vẫn chờ lúc cần.

Giave giữ lấy quyển sổ của Mariuytx.

Lát sau, cái xe theo con đường dốc ngựa đi uống nước, xuống tận bờ sông. Mariuytx được đặt trên cái ghế ở phía sau, còn Giave ngồi cạnh Giăng Vangiăng trên ghế phía trước.

Cửa xe đóng, xe chạy nhanh lên bến tàu, tiến về phía ngục Bátxti.

Họ rời bờ sông đi vào phố. Bóng bác đánh xe đen ngòm trên ghế, quất vào hai con ngựa gầy gò. Trong xe, lặng ngắt. Mariuytx ngồi im lìm, lưng tựa vào một góc ở cuối xe, đầu gục xuống ngực, hai tay buông thõng, chân cứng đờ; chàng có vẻ như chỉ còn đợi cái quan tài. Giăng Vangiăng như một bóng đen, còn Giave như băng đá. Mỗi khi xe chạy qua một ngọn đèn bên đường, trong xe tối om lại lóe lên một thứ ánh sáng nhợt nhạt khiến người ta thấy sự tình cờ đã tập hợp và muốn đối chiếu một cách bi đát ba khối bất động thê thảm; một xác chết, một bóng ma, một pho tượng.