Cô Gái Đùa Với Lửa - Phần I - Chương 01 - Phần 3

Vấn đề là phương trình mới này hình như không có bất cứ lời giải nào cho tất cả các con số. Vậy là bằng một cái ngoéo tay có tính hàn lâm, điều mà Fermat đã làm là biến một công thức có một số lượng vô cùng tận về các lời giải hoàn hảo thành ra một lối cụt không có một lời giải nào hết. Định lý của ông chính là thế - Fermat tuyên bố rằng trong vũ trụ vô biên của các con số, không có một con số trọn vẹn nào mà ở đó một lũy thừa ba lại có thể được biểu hiện ra là tổng của hai lũy thừa ba, và đó là nói chung đối với mọi con số có một lũy thừa lớn hơn 2, tức là chính ngay bản thân phương trình Pythagore.

Các nhà toán học khác mau chóng tán thành rằng điều này là đúng. Qua thử và sai, họ có thể xác nhận rằng họ không thể tìm ra một con số bác bỏ được định lý của Fermat. Vấn đề đơn giản là cho dù họ có đếm đến tận cùng thời gian thì họ cũng không bao giờ có thể xem xét được tất cả các con số đang tồn tại - dẫu gì chúng cũng là vô cùng tận - và do đó các nhà toán học không thể chắc chắn trăm phần trăm rằng con số tiếp theo sẽ không bác bỏ định lý của Fermat. Trong toán học, các xác nhận đều luôn phải được chứng minh bằng toán học và được diễn đạt bằng một công thức có giá trị và đúng đắn về khoa học. Nhà toán học phải đứng được trên bục giảng mà nói: “Nó là thế này bởi vì...”

Như thói quen của ông, Fermat trắc nghiệm rất nhiều các đồng nghiệp. Ở lề quyển Toán học của ông, bậc thiên tài viết ra bài toán và kết thúc bằng các dòng sau: Cuius rei demonsirationem mirabilem sane detexi hanc marginis exiguitas non caperet. Các dòng này đã trở thành bất tử trong lịch sử toán học: Tôi có một chứng minh thật sự tuyệt vời về cái mệnh đề này nhưng chỗ lề đây quá chật không chứa nổi.

Nếu ý đồ của Fermat là làm cho các cộng sự phát điên thì ông đã thành công. Từ 1637, gần như mỗi nhà toán học tự trọng nào cũng đều đã bỏ thời gian, đôi khi một khoảng thời gian rất lớn ra cố tìm chứng minh của Fermat. Các thế hệ những nhà tư tưởng đều đã thất bại cho tới khi Andrew Wiles cuối cùng có được cái chứng minh mọi người hằng chờ đợi. Lúc ấy ông đã suy nghĩ trong hai mươi lăm năm về câu hỏi này, mười năm cuối ông gần như dùng toàn bộ thời gian vào giải bài toán.

Salander đã bối rối. Cô thật sự không quan tâm đến câu trả lời. Cái hay là ở quá trình giải đáp. Khi ai đó đưa ra cho cô một câu đố, cô giải đáp nó. Trước khi hiểu các nguyên tắc lập luận, cô phải mất nhiều thời gian để giải các bí mật của các con số, nhưng cô luôn đi đến câu trả lời đúng trước khi cô tìm kiếm nó.

Cho nên cô lấy một tờ giấy và bắt đầu nghí ngoáy các con số khi cô đọc định lý của Fermat. Nhưng cô không tìm ra được chứng minh cho nó.

Cô không thiết xem chìa khóa giải đáp cho nên cô nhảy tắt sang chỗ cung cấp lời giải của Wiles. Thực tế cô đã đọc hết Các chiều kích và công nhận rằng trong các bài toán khác đề ra trong sách, không có bài toán nào lại khó đến mức cô không thể vượt qua. Rồi ngày ngày cô quay lại với câu đố của Fermat, mỗi lúc một thêm cáu bẳn, nghĩ xem cái gì là “chứng minh tuyệt vời” của Fermat. Cô đi từ tắc tị này sang tắc tị khác.

Khi cô nhìn lên thì người đàn ông phòng 32 đứng dậy đi ra cửa khách sạn. Ông ta đã ngồi ở đây suốt hai giờ mười phút.

Ella Carmichael đặt cốc xuống bar. Từ lâu chị đã nhận thấy thứ đồ uống màu hồng dở ẹc với chiếc dù ú ớ không phải là phong cách Salander. Cô luôn gọi một thức uống, rượu rum và Coke. Trừ một tối khi cô dở chứng và quá say thì Ella đã phải gọi người coi cửa đưa cô lên phòng, còn lại cô thường uống caffè latte cùng một số ít thứ uống khác. Bia Carib chẳng hạn. Cô luôn luôn ngồi ở tít đằng đầu cùng mé bên phải quầy bar, mở một quyển sách nom có những hàng con số rắc rối ở trong, điều mà theo con mắt Ella thì với một cô gái ở tuổi Salander là một sự chọn đọc ngồ ngộ đây.

Chị cũng nhận thấy Salander xem vẻ không có chút thú vị nào với việc được cánh đàn ông nhót đi. Một ít người lẻ loi từng ướm lời đã bị từ chối tử tế nhưng kiên quyết, và trong một trường hợp không tử tế lắm. Một gã đại lãn sở tại, Chris MacAllen, người đàn ông bị thu dọn quá đột ngột này có thể đã có một chiêu hay hay. Cho nên Ella không quá bận tâm việc hắn ta như thế nào đó lại loạng choạng ngã xuống bể bơi sau khi quấy quả quý cô Salander suốt cả một buổi tối. Với tấm lòng của MacAllen, hắn ta không hề tức tối. Tối sau hắn lại trở lại, hoàn toàn tỉnh rượu, ngỏ lời mua một chai bia cho Salander, điều mà sau một chút ngập ngừng cô nhận. Từ đấy khi thấy nhau ở bar họ lại chào hỏi nhau lịch sự.

- Mọi sự OK chứ?

Salander gật đầu, cầm cốc lên.

- Có tin gì về Matilda không?

- Vẫn hướng đến chúng ta. Có thể là một cuối tuần thật sự tồi tệ đây.

- Khi nào thì chúng ta biết?

- Nó đến rồi mới thật biết được. Nó có thể hướng thẳng đến Grenada nhưng tới phút cuối cùng thì lại quyết định quặt lên phía bắc kia mà.

Lúc ấy nghe thấy tiếng cười hơi quá to, hai người quay lại thấy bà ở phòng 32 có vẻ đang thú vị về một câu nói nào đó của chồng.

- Những ai đấy?

- Tiến sĩ Forbes nhỉ? Họ là người Mỹ ở Austin, Texas. - Ella Carmichael nói chữ “người Mỹ” với một vẻ khinh khỉnh nào đó.

- Tôi có thể nói họ là người Mỹ nhưng họ làm gì ở đây chứ? Ông ta là một giáo sư thỉnh giảng à?

- Không, không phải kiểu tiến sĩ ấy. Ông ta ở đây thay mặt cho Quỹ Santa Maria.

- Là cái gì vậy?

- Họ đỡ đần việc giáo dục cho những đứa trẻ có năng khiếu. Ông ta là một người tốt. Ông ta đang thảo luận với Bộ Giáo dục đề nghị mở một trường trung học mới ở St. George.

- Ông ta là một người tốt hay đánh vợ. - Salander nói.

Ella nhìn xói Salander rồi đi đến đầu bar đằng kia phục vụ mấy người khách địa phương.

Salander nán lại mười phút, mũi chúi vào trong Các chiều kích. Từ trước khi bước vào tuổi dậy thì, cô biết rằng mình có một trí nhớ của máy ảnh và do đó cô rất khác với các bạn cùng lớp. Cô không lộ điều này ra với bất cứ ai - trừ với Blomkvist trong một lúc yếu mềm. Cô đã thuộc lòng quyển Các chiều kích và đang tha nó theo cùng vì nó tiêu biểu cho một liên hệ vật chất với Fermat, tựa như quyển sách đã thành một kiểu bùa chú.

Nhưng tối ấy, cô không thể tập trung vào Fermat hay định lý của ông. Thay vì, trong đầu cô chỉ thấy tiến sĩ Forbes ngồi im lặng, nhìn đăm đăm vào mỗi một điểm xa ngoài biển tại Carenage.

Cô không thể giải thích tại sao, cô biết có một cái gì đó không ổn.

Cuối cùng cô gấp sách lại, đi về phòng, mở máy tính PowerBook. Lướt Internet không gợi ra bất cứ suy nghĩ nào. Khách sạn không có dải tần rộng nhưng cô đã cài một modem vào máy tính và cô có thể kết nối với điện thoại di động Panasonic của cô, nhờ nó cô có thể gửi cũng như nhận email. Cô gõ một thư nhắn cho <dịchbệnh_xyz_ 666@hotmail.com>:

“Không có băng thông rộng ở đây. Cần tin về một tiến sĩ Forbes cùng với Quỹ Santa Maria và vợ ông ta, sống ở Austin, Texas. 500 đô Mỹ cho bất kỳ ai tìm kiếm. Vò Vẽ.”

Cô gắn khóa bảo mật thư điện công khai PGP, Pretty Good Privacy, rất tốt cho chuyện riêng tư, mã hóa bức thư bằng khóa PGP của Dịch Bệnh và gửi đi. Rồi xem đồng hồ thấy vừa qua 7 rưỡi tối, cô tắt máy tính, khóa cửa, đi dạo bốn trăm mét dọc bãi biển, băng qua con đường tới St. George, gõ cửa một ngôi nhà xoàng xĩnh ở đằng sau Rặng Dừa. George Bland mười sáu tuổi và còn đi học. Cậu có ý định trở thành luật sư hay bác sĩ hay có thể là phi hành gia, cậu ta cũng xương xẩu như Salander, có điều cao hơn một chút.

Salander gặp cậu ta trên bãi biển buổi sáng sau hôm cô chuyển tới Grand Anse, cô ngồi dưới bóng vài cây cọ xem đám trẻ con đá bóng bên mép nước. Cô đang mải mê với Các chiều kích thì cậu con trai đến ngồi xuống cát ở cách cô vài mét, có vẻ không để ý thấy cô đã ở đó. Cô im lặng quan sát cậu ta. Một cậu con trai da đen gầy, đi xăng đan, jean đen và một sơ mi trắng. Cậu ta cũng mở một quyển sách và lút chìm vào đó.

Giống cô, cậu ta đọc một quyển toán - Những khái niệm cơ bản 4. Cậu ta bắt đầu nghí ngoáy ghi vào một sách bài tập. Năm phút sau, khi Salander dặng hắng, cậu ta giật mình nhảy lên. Cậu ta xin lỗi đã làm phiền cô và sắp bỏ đi thì cô hỏi có phải cậu ta đang gặp một công thức phức tạp không.

Số học. Một phút sau, cô chỉ ra một lỗi trong tính toán của cậu ta. Nửa giờ sau hai người làm xong bài tập. Một giờ sau hai người đã đi hết toàn bộ chương sau trong sách giáo khoa của cậu ta, cô đã giảng cho cậu cái bí quyết ở đằng sau các bài làm toán học tựa hồ cô là gia sư của cậu vậy. Cậu kinh ngạc nhìn cô. Hai giờ sau cậu bảo cô rằng mẹ cậu sống ở Toronto, bố cậu sống ở Greenville, phía bên kia hòn đảo, còn bản thân cậu ta sống trong căn nhà xoàng xĩnh dọc theo và cách bãi biển một ít đường đất. Cậu là người trẻ nhất trong gia đình, với ba chị.

Salander thấy ở bên cậu ta thư thái lạ lùng. Tình thế không bình thường. Cô xưa nay ít bắt chuyện với người lạ chỉ để mà nói. Đây không phải là vì ngượng. Với cô, chuyện trò là có một chức năng rõ ràng. Tôi đi đến hiệu thuốc như thế nào đây? hay Một buồng ở khách sạn giá bao nhiêu? Chuyện trò cũng có một chức năng nghề nghiệp. Khi cô làm việc với tư cách điều tra viên cho Dragan Armansky tại An ninh Milton, cô không bao giờ ngại nói chuyện lòng thòng nếu là để truy tìm sự việc.

Mặt khác, cô không thích các cuộc tranh luận cá nhân, chúng thường dẫn đến chỗ chõ mũi vào những khu vực cô cho là riêng tư. Bạn bao nhiêu tuổi? Đoán thử xem. Bạn có thích Britney Spears không? Là ai? Bạn nghĩ thế nào về tranh của Carl Larsson? Tôi chả nghĩ tí gì về nó sất. Bạn có đồng tính ái nữ không? Lãng nhách.

Cậu trai này lóng ngóng và rụt rè nhưng biết phận và cố có một câu chuyện thông minh mà không ganh đua với cô hay thọc mũi vào đời cô. Giống cô, cậu ta có vẻ đơn độc. Cậu ta có vẻ chấp nhận không chút bối rối rằng một nữ thần toán học đã giáng hạ xuống bãi biển Grand Anse đây, nữ thần lại muốn vui vẻ làm bạn với cậu nữa. Họ đứng lên khi mặt trời đã chìm xuống ở đằng chân trời. Họ đi bộ đến khách sạn cô và cậu ta chỉ căn nhà lụp xụp nó là khu sinh viên của cậu. Ngượng nghịu cậu ta hỏi liệu có thể mời cô trà được không.

Căn nhà gồm cái bàn kê ghép làm một, hai ghế dựa, giường và một tủ gỗ con con đựng quần áo. Ánh sáng duy nhất là ngọn đèn bàn làm việc với sợi dây điện dòng ra rặng dừa. Cậu có một bếp lò, loại dùng đi cắm trại. Cậu mời cô một bữa cơm với rau mà cậu ta dọn ra những chiếc đĩa nhựa. Thậm chí cậu ta nhằng nhằng mời cô làm một hơi khói cái thứ lá bản địa đã bị cấm và cô nhận lời.

Salander không thể không nhận thấy việc cô có mặt đã tác động đến cậu ta và không biết cậu ta sẽ đối xử với cô ra sao. Chợt bốc đồng, cô quyết định để cho cậu ta tán tỉnh. Nó đã phát triển thành ra một thủ tục vòng vo trong đó cậu ta chắc hiểu các tín hiệu của cô nhưng không biết nên phản ứng lại ra sao. Cuối cùng hết kiên nhẫn, cô thẳng cánh xô cậu ta xuống giường rồi tụt sơ mi cùng jean của mình ra.

Từ chuyến phẫu thuật ở Ý, đây là lần đầu tiên cô để cho một người thấy mình trần truồng. Cô đã rời bệnh viện với cảm giác hoảng loạn. Phải mất một thời gian dài cô mới nhận thấy chả có ma nào nhòm đến cô. Bình thường cô chẳng đoái một li đến chuyện người ta nghĩ gì về cô và cô không lo vì sao nay cô lại cảm thấy căng thẳng.

Cậu trai trẻ Bland đã là một nhập môn hoàn hảo cho cái bản ngã mới mẻ của cô. Cuối cùng khi (sau vài khuyến khích) đã loay hoay cởi nịt vú của cô ra, cậu liền lập tức tắt phụt đèn rồi mới cởi quần áo mình. Có thể nói là cậu ta xấu hổ, Salander liền bật đèn lại. Cô ngắm nhìn kỹ các phản ứng lóng ngóng của cậu ta khi cậu ta bắt đầu sờ vào người cô. Chỉ lâu sau đó cô mới thoải mái, chắc chắn rằng cậu ta nghĩ vú cô nó tự nhiên là thế. Mặt khác, vẻ như cậu ta chả biết nhiều nhặn gì để mà so sánh với vú cô.

Cô không dự định kiếm cho mình một người yêu tuổi teen ở Grenada. Đây là một xung động, và đêm hôm ấy, sau khi rời cậu ta, cô không nghĩ sẽ trở lại. Nhưng hôm sau đâm phải cậu ta ở bãi biển cô nhận ra rằng cậu trai trẻ này là một bạn đồng hành vui vui. Trong bảy tuần cô sống ở Grenada, George Bland trở thành một bộ phận quan trọng của đời cô. Ban ngày họ không đi cùng nhau nhưng ở bên nhau trên bãi biển trước khi mặt trời lặn và ban đêm thì chỉ có hai người trong căn nhà xoàng xĩnh của cậu ta.

Cô biết rằng khi họ đi dạo với nhau trên bãi biển, trông họ giống hai đứa tuổi teen. Tuổi mười sáu ngọt ngào.

Rõ ràng cậu ta nghĩ cuộc đời đã trở nên lý thú hơn nhiều. Cậu ta gặp một phụ nữ dạy cho cậu ta toán học và chuyện chăn gối.

Cậu ta mở cửa, thú vị cười với cô.

- Có thích có bạn đồng hành không? - Cô nói.

Salander rời căn nhà xoàng xĩnh sau 2 giờ sáng. Cảm thấy người nong nóng, cô đi loanh quanh dọc bãi biển thay vì lên con đường về khách sạn Keys. Cô đi một mình trong đêm tối, biết rằng Bland có lẽ đang ở cách một trăm mét đằng sau mình.

Cậu luôn luôn đi theo như thế. Cô không bao giờ ngủ cả đêm ở chỗ cậu ta và cậu thường phản đối rằng, cô, một phụ nữ đơn độc không nên đi về khách sạn ban đêm. Cậu nài nỉ rằng đi kèm cô về lại khách sạn là nghĩa vụ của cậu. Đặc biệt khi đã rất muộn, như thường vốn là thế. Salander sẽ nghe cậu ta phản đối rồi cắt phắt cuộc tranh cãi bằng một chữ “không” kiên quyết. Tôi muốn đi đâu thì tôi đi. Mà không, tôi không thích có vệ sĩ. Lần đầu tiên chộp được cậu ta đi theo cô thật sự khó chịu. Nhưng nay cô nghĩ ý muốn bảo vệ của cậu ta là khá đáng yêu cho nên cô làm bộ không biết có cậu ta ở đằng sau mình; và khi thấy cô vào cửa khách sạn rồi thì cậu ta liền quay về. Cô thầm nghĩ cậu ta sẽ làm gì nếu như cô bị công kích. Cô thì sẽ dùng chiếc búa cô mua ở cửa hàng ngũ kim của MacIntyre và để ở trong túi ngoài của cái xắc đeo vai. Các mối đe dọa về thân thể mà chống cự lại được bằng một cây búa đích thị thì cũng không nhiều lắm, Salander nghĩ. Trăng tròn vành vạnh và sao lấp lánh. Salander ngước lên và nhận ra sao Regulus trong chùm Sư Tử ở gần chân trời, sắp đến sân trời khách sạn thì cô liền dừng phắt. Cô nhìn thấy một ai đó gần bờ nước bên dưới khách sạn. Đây là lần đầu tiên cô trông thấy một mạng sống ở trên bãi biển sau trời tối. Hắn ở cách khoảng một trăm mét nhưng ngay lập tức Salander biết ai đang đứng dưới ánh trăng kia.

Đó là tiến sĩ Forbes ở phòng 32.

Cô nhào vội ba bước vào trong bóng một cái cây. Khi quay lại cô cũng không thấy George Bland nữa. Hình người bên bờ nước đang đi đi lại lại thong thả. Hắn hút thuốc lá. Hắn hay dừng lại và cúi xuống tựa như xem xét cát. Trò múa rối này tiếp tục trong hai mươi phút rồi hắn quay lại, bước nhanh về lối ra bãi biển của khách sạn và biến mất.

Salander chờ một ít phút rồi đi xuống chỗ tiến sĩ Forbes đã ở đó. Cô thong thả đi một đường vòng cung, kiểm tra cát. Cô chỉ có thể thấy sỏi cuội và vài vỏ ốc. Ít phút sau, cô thôi tìm kiếm và trở về khách sạn.

Trên ban công, cô tì vào lan can, nhòm sang cửa phòng bên. Tất cả đều yên tĩnh. Cuộc cãi vã buổi tối rõ ràng đã kết thúc. Một lúc sau, cô lấy ở trong xắc đeo vai ra ít giấy để quấn một điếu thuốc bằng thứ lá Bland đã cho cô. Cô ngồi xuống ghế ban công, nhìn ra màn nước tối đen của biển Caribbean, vừa hút thuốc vừa nghĩ ngợi.

Cô cảm thấy giống như một trạm rađa đang hồi báo động gắt.