Cô Gái Đùa Với Lửa - Phần IV - Chương 30 - Phần 1

CHƯƠNG 30

Thứ Năm, 7 tháng Tư

Blomkvist nhìn cửa ra vào của Fiskargatan 9. Đó là một trong những địa chỉ đặc biệt nhất ở Stockholm. Anh tra chìa vào ổ và nó quay êm như ru. Xem danh sách người sống ở đây không giúp được gì. Blomkvist nghĩ chắc phần lớn chúng là các căn hộ của một đoàn thể nhưng trong đó hình như cũng có một vài căn thuộc về riêng cá nhân. Không thấy tên Salander trong danh sách, anh không ngạc nhiên, nhưng vẫn cứ thấy chỗ này không có vẻ lại là nơi trú náu của cô.

Anh leo bộ từng tầng, đọc các biển tên ở cửa. Chả đâu chuông reo. Rồi anh lên tầng thượng, đọc thấy V.Kulla.

Blomkvist vỗ vỗ trán. Anh phải tủm tỉm cười. Chọn cái tên này có lẽ Salander không nhằm chọc vui cá nhân anh mà có vẻ là một ý nghĩ đùa cợt riêng tư nào đó của cô - nhưng ngoài Biệt thự Bát nháo VilleKulla của Pippi Tất dài ra thì Kalle Blomkvist, biệt hiệu đặt theo nhân vật của Astrid Lindgren, còn nên đi tìm cô ở đâu nữa đây?

Anh bấm chuông cửa và chờ hai phút. Rồi anh lấy chùm chìa khóa mở cái khóa vòng cùng cái khóa dưới cùng.

Anh vừa mở cửa là thiết bị báo động kẻ gian đột nhập hoạt động.

Di động của Salander bắt đầu bíp báo. Cô đang ở gần Glanshammar, ngay bên ngoài Orebro. Cô phanh và tạt xe vào vai đường dành cho xe đỗ. Cô lấy chiếc Palm ở túi jacket ra cắm vào điện thoại.

Mười lăm giây trước đó có người đã mở cửa căn hộ của cô. Báo động này không nối với bất cứ công ti an ninh nào. Mục đích của nó chỉ là báo cô rằng ai đó đã bằng cách nào đó đột nhập và mở cửa. Sau ba mươi giây, chuông báo động sẽ ngừng và vị khách không mời sẽ nhận được một cú sững sờ không thú vị hiện ra ở dạng một quả bom đầy sơn giấu trong một hộp cầu chì giả mạo ở gần cửa. Mỉm cười chờ kết cục, cô đếm ngược số giây còn lại.

Blomkvist chán ngán nhìn trừng trừng vào màn hình báo động ở bên cửa. Vì một lý do nào đó anh chả hề nghĩ căn hộ lại có thiết bị báo động. Anh nhìn đồng hồ số đang đếm ngược lại. Báo động của Millennium sẽ được kích hoạt và nếu trong vòng ba chục giây người nào đó không lắp chìa đúng vào mã số gồm bốn con số thì ngay sau đó hai gã đầy cơ bắp của một công ty an ninh sẽ xô cửa ra.

Phản ứng đầu tiên của anh là đóng cửa lại rồi ra nhanh khỏi chung cư. Nhưng anh cứ đứng đực ra ở đó.

Bốn con số. Không thể đoán mò ra mã số được.

25 - 24 - 23 - 22...

Con bé Pippi Tất dài của nợ này.

19 - 18...

Cô dùng mã số gì đây?

15 - 14 - 13...

Anh càng ngày càng cuống.

10 - 9 - 8...

Rồi anh giơ tay tuyệt vọng bấm vào con số anh có thể nghĩ đến lúc đó. 8683. Bốn con số tương ứng với các chữ V-Ò-V-Ẽ ở trên bàn phím nhỏ.

Anh ngạc nhiên thấy màn hình ngừng đếm ngược nốt sáu con số còn lại. Rồi báo động bíp một tiếng cuối cùng và màn hình lại về số 0 cùng với ánh sáng xanh trở lại.

Mắt Salander mở thô lố. Khi đang xem cảnh diễn ra kia, cô nghĩ cô đã làm cho chiếc PDA bị rung nhưng cô nhận ra nghĩ thế là vô lý. Theo dự định còn sáu giây nữa quả bom sơn sẽ nổ thì báo động ngừng đếm ngược. Và sau đó một giây, thiết bị báo động trở về số không.

Không thể thế được.

Trên thế giới này không ai biết được mã số của cô.

Sao lại có thể như thế này được? Cảnh sát? Không. Zala? Càng không.

Cô bấm một số vào di động, chờ camera theo dõi kết nối với di động rồi gửi đến những hình ảnh có độ phân giải thấp. Camera này giấu trong một thứ nom như thiết bị phát hiện khói ở trên trần gian sảnh, mỗi giây nó lại chụp một bức ảnh độ nét thấp. Cô cho trường đoạn tua trở lại từ số 0, lúc cửa căn hộ mở ra và thiết bị báo động bị kích hoạt. Rồi cô nhếch mép cười khi cô nhìn xuống Blomkvist như một con rối giật cục, đứng ngẩn tò te một lúc rồi mới bấm vào mã số và tựa vội vào thành cửa, ngỡ đâu sắp bị một cơn đột quỵ.

Kalle Nhắng Blomkvist đã dò được ra lõng của cô. Anh có chùm chìa khóa cô đánh rơi ở đường Lundagatan. Anh khá thông minh để nhớ ra Vò vẽ là tên cô khi vào mạng. Nếu tìm được căn hộ, anh chắc đã mò ra được rằng Công ty Vò vẽ sở hữu nó. Trong khi cô nhìn xem thì anh giật cục đi xuôi hành lang và biến mất khỏi ống kính camera.

Chó chết. Sao mình lại mất cảnh giác thế cơ chứ? Mà tại sao mình lại ném chùm chìa khóa đi?... Bây giờ mọi bí mật của Salander nằm tênh hênh ra ở trước con mắt dò mồi của Blomkvist.

Suy nghĩ về điểm này một lúc, cô quyết định như thế cũng chả làm nên chuyện gì sất. Cô đã xóa ổ cứng. Đó là điều quan trọng nhất. Mà anh là người tìm ra chỗ ẩn náu của cô thì có khi lại lợi cho cô. Anh đã biết các bí mật của cô hơn tất cả mọi người. Con lợn tháo vát sẽ làm điều phải. Anh sẽ không bán cô. Cô hy vọng. Cô cho xe chạy gấp đến Goteborg, đắm trong suy nghĩ.

Eriksson vồ phải Paolo Roberto ở cầu thang lên tòa soạn Millennium khi cô đến đó hồi 8 giờ. Nhận ra ông ngay, cô tự giới thiệu và đưa ông vào. Ông tập tễnh hơi nhiều. Cô ngửi thấy mùi cà phê và biết Berger đã ở đây.

- Chào Erika. Cảm ơn đã bằng lòng gặp tôi nhanh như thế. - Võ sĩ nói.

Berger xem kỹ mớ thâm tím và sưng vù đáng sợ ở trên mặt ông rồi chị ngả về đằng trước hôn một cái lên má ông.

- Ông nom chả giống một thứ gì trên quả đất này. - Chị nói.

- Trước tôi cũng đã từng bị vỡ mũi rồi. Chị cất Blomkvist ở đâu?

- Anh ấy đang chơi trò thám tử kẻ gian, tìm đầu mối ở đâu đó. Như thường tình thì không thể túm được lấy anh ấy đâu. Từ sáng hôm qua, tôi không nhận được tin gì từ anh ấy ngoài một bức thư điện tử lạ lùng. Cảm ơn đã... vâng, cảm ơn.

Chị chỉ tay vào mặt ông. Paolo Roberto cười vang lên.

- Ông muốn cà phê không? Ông bảo ông có gì muốn nói với tôi. Malin, đến đây với bọn tôi nào.

Họ ngồi trên những chiếc ghế thoải mái trong buồng giấy của Berger.

- Là nói về cái tên láo lếu tóc vàng bự con đánh nhau với tôi. Tôi bảo Blomkvist là tay bốc của nó không đáng một quả cà ủng. Cái ngộ là hắn cứ giữ thế thủ bằng hai quả đấm rồi xoay vòng quanh làm như hắn đã từng là võ sĩ quyền Anh vậy. Có vẻ như cũng đã có qua một kiểu tập tành nào chút ít.

- Hôm qua Blomkvist có nói như thế ở trong điện thoại. - Eriksson nói.

- Tôi không thể nào mà không nghĩ đến chuyện đó cho nên hôm qua về nhà tôi ngồi xuống gửi email đến các câu lạc bộ quyền Anh ở khắp châu Âu. Tôi tả câu chuyện đã xảy ra, tôi cố hết sức tả tỉ mỉ cho họ về cha này.

- Ông đã gặp may chứ?

- Tôi nghĩ là có được một mẩu.

Ông để lên bàn trước mặt Berger và Eriksson một bức ảnh gửi bằng fax. Nom vẻ nó được chụp trong một buổi tập ở một câu lạc bộ quyền Anh. Hai võ sĩ đang đứng nghe chỉ dẫn của một người già hơn, chắc nịch, đội mũ da vành hẹp và mặc quần áo tập. Non chục người bám quanh vũ đài nghe. Một người to lớn nom như một tên trong băng nhóm trọc đầu đứng ở đằng sau cùng. Xung quanh hắn là một vòng tròn vẽ bằng bút dạ.

- Bức ảnh chụp đã mười bảy năm. Người đứng ở sau cùng là Ronald Niedermann. Bức ảnh này chụp lúc hắn mười tám tuổi, vậy nay hắn cỡ khoảng ba mươi lăm. Nom hắn khớp với tên khổng lồ bắt cóc Miriam Wu. Tôi không thể nói chắc trăm phần trăm là hắn. Bức ảnh hơi bị cũ và chất lượng tồi. Nhưng tôi có thể nói nom hoàn toàn giống hắn đấy.

- Ông lấy ở đâu ra bức ảnh này?

- Tôi được Hans Munster, một huấn luyện viên lão thành của câu lạc bộ Dynamic ở Hamburg đáp lời. Cuối những năm 80, Ronald Niedermann đấm cho họ trong một năm. Hay đúng hơn hắn cố đấm cho họ. Sáng nay nhận được email trước rồi gọi cho Munster xong là tôi đến đây. Munster nói tóm lại như thế này: Niedermann là người Hamburg, hồi những năm 80 tu bạ với một băng nhóm trọc đầu. Hắn có một đứa anh nhiều tuổi hơn, một võ sĩ quyền Anh rất có tài và hắn vào được câu lạc bộ là nhờ người anh. Niedermann có sức khỏe đáng sợ và một cơ thể không ai bì được. Munster nói ông chưa từng thấy ai, kể ngay cả trong đám ưu tú, đấm mạnh bằng hắn. Họ đo sức nặng quả đấm của hắn thì nó vọt ra ngoài đồng hồ bàn cân.

- Nghe như hắn có thể nổi cơ đồ nhờ vũ đài được đấy. - Berger nói.

Paolo Roberto lắc đầu.

- Theo Munster thì hắn không thể, vì mấy lý do. Thứ nhất, hắn không thể học được đấu bốc. Hắn chỉ cứ đứng ì một chỗ mà tung đi các cú đánh. Hắn vụng đến mức tai họa, chỗ này thì khớp với cái tên tôi đã đánh ở Nykvarn vừa rồi. Nhưng tệ hơn là hắn không biết sức mạnh của hắn. Thỉnh thoảng trong các trận đấu tập hắn có thể choang cho một cú gây nên thương tích ghê gớm. Đã có những mũi giập, quai hàm long - một lô các chấn thương không cần thiết. Họ không thể giữ hắn ta ở câu lạc bộ nữa.

- Vậy là hắn có thể bốc nhưng không thực sự là bốc. - Eriksson nói.

- Chính xác. Nhưng lý do hắn thôi bốc là về y học.

- Ông nói sao?

- Hắn có vẻ bất khả bại. Bất kể bị bao nhiêu đòn hắn vẫn cứ lĩnh như không mà đánh tiếp. Té ra hắn bị một thứ bệnh rất hiếm gọi là chứng mất cảm giác đau có tính di truyền. Tôi đã tìm hiểu. Đây là một khuyết tật gen di truyền, nó làm cho đường truyền chất ở các đầu nút thần kinh của hắn không hoạt động. Hay nói nôm na thì là hắn không có cảm giác đau đớn.

- Thế thì là mỏ vàng cho võ sĩ quyền Anh rồi còn gì.

Roberto lại lắc.

- Trái lại. Đây có thể là một rối loạn đe dọa mạng sống. Phần lớn những ai mắc bệnh di truyền này đều chết khá trẻ, chừng giữa hai mươi và hai mươi lăm tuổi. Đau chính là hệ cảnh báo của cơ thể nó cho hay đang có gì đó lôi thôi. Nếu ta để tay vào một cái lò nóng rực là ta thấy đau và rụt ngay tay về. Nhưng nếu ta mắc bệnh này thì ta sẽ chẳng làm gì mà cứ để cho thịt cháy khét lên.

Eriksson và Berger nhìn nhau.

- Nghiêm túc đấy chứ? - Berger nói.

- Tuyệt đối. Niedermann không cảm thấy gì cả, hắn sống như thế tựa hồ có một liều thuốc tê nội tại suốt trong hai mươi tư giờ mỗi ngày. Hắn đã tìm ra cách giải quyết được chuyện này vì hắn lại có một đặc điểm di truyền khác bù vào đấy. Hắn có một hình thể dị thường và một bộ xương cực kỳ khỏe, nên hắn gần như thành ra kẻ bất bại. Sức khỏe của hắn mẹ kiếp nguyên thô và gần như là độc nhất. Trên hết, hắn dễ lành lặn trở lại.

- Tôi bắt đầu hiểu một trận đấu bốc lý thú là phải như thế nào rồi đấy.

- Chắc chắn thế rồi. Tôi không muốn chơi lại nữa đâu. Hắn chỉ duy nhất một lần tỏ thái độ khi bị Miriam Wu đá vào bìu. Hắn thực sự khuỵu gối xuống mất một tích tắc... chắc phải bằng ấy vì cú đá như thế là phải gây ra một phản ứng sinh lý nào đó rồi, do chỗ hắn không cảm thấy đau. Và tin tôi đi - nếu cô ấy đá tôi như thế thì ngay đến tôi đây cũng là xin đổ sập thôi à.

- Vậy ông ngừng đánh nhau với hắn như thế nào?

- Thật ra những người mắc bệnh này cũng bị thương như bất cứ ai cả thôi. Xương cốt của Niedermann có vẻ là bằng xi măng, hãy quên chuyện ấy đi. Khi tôi quạng tấm ván vào sau ót hắn, hắn ngã lăn đùng như một hòn núi vậy. Chấn thương là cái chắc.

Berger nhìn Eriksson.

- Tôi gọi Mikael đây.

Blomkvist nghe di động báo nhưng anh ngạc nhiên quá đến nỗi mãi đến hồi chuông báo thứ năm mới trả lời.

- Chào, Malin đây. Paolo Roberto nghĩ là ông ấy đã nhận diện được ra cha khổng lồ.

- Tốt. - Blomkvist lơ mơ đáp.

- Anh ở đâu?

- Khó nói đấy.

- Nghe anh nói ngộ nghĩnh đấy.

- Xin lỗi. Cô bảo gì cơ?

Eriksson tóm lại câu chuyện Paolo Roberto kể.

- Lần theo hướng đó đi. - Blomkvist nói. - Cô xem có thể tìm ra hắn ở một cơ sở dữ liệu nào đó không nha. Tôi nghĩ cái này quan trọng đấy. Có gì gọi vào di động của tôi.

Eriksson ngạc nhiên, anh cắt máy không cả một tiếng tạm biệt.

Lúc ấy Blomkvist đang đứng bên cửa sổ nhìn ra cảnh quan huy hoàng trải dài từ Gamla Stan xa tít ngoài kia đến Saltsjon.

Anh thấy mụ mị. Có một gian bếp ở ngoài sảnh, bên phải cửa ra vào. Rồi một phòng khách, một buồng giấy, một phòng ngủ và cả một phòng ngủ nho nhỏ cho khách xem vẻ chưa hề đụng đến. Đệm giường vẫn còn trong lớp vỏ bọc ni lông và không có chăn gối. Tất cả đồ nội thất đều mới toanh, của hãng Ikea.

Blomkvist sửng sốt là Salander đã mua chỗ tạm trú này, nó vốn thuộc về Percy Barnevik, một ông trùm công nghiệp. Căn hộ rộng chừng 350 mét vuông và đáng giá hai mươi lăm triệu curon.

Blomkvist lang thang qua các hành lang và buồng gần như trống không, vắng lặng đến mức kỳ lạ, với sàn bằng các kiểu gỗ khác nhau mang hoa văn cùng giấy dán tường nhãn Tricia Guild thuộc loại Berger đã có thời thèm muốn. Ở trung tâm căn hộ là một phòng khách sáng sủa tuyệt vời với những lò sưởi mở nhưng hình như Salander chưa hề nhóm lửa bao giờ. Ban công đồ sộ nhìn ra một quang cảnh kỳ diệu. Có một phòng giặt, buồng tắm hơi, phòng thể dục, các buồng cất chứa đồ và một buồng tắm với chiếc bồn cỡ đại. Có cả một hầm rượu, trống không trừ một chai pont Quinta do Noval từ 1976 - chưa mở. Blomkvist cố sức tưởng tượng ra Salander cầm li rượu pont ở trong tay. Một tấm thẻ sang trọng cho hay chai rượu là quà biếu của nhân viên bất động sản tặng mừng dịp tân gia.

Gian bếp gồm mọi kiểu trang bị với một bếp lò Pháp sáng bóng, sạch sẽ của dân sành ăn, tâm điểm của nó là một bếp ga. Trước đây Blomkvist chưa bao giờ để mắt đến loại bếp Corradi Chateau 120. Chắc Salander dùng nó để đun nước pha trà.

Đồng thời anh sợ sệt ngắm nghía chiếc máy pha cà phê espresso ở trên hẳn một cái bàn của riêng nó. Cô có một Jura Impressa X7 với một máy làm lạnh sữa gắn bên. Chiếc máy nom ít dùng và chắc đã ở trong bếp này từ ngày cô mua căn hộ. Blomkvist biết một máy Jura là tương đương với chiếc xe Rolls Royce - một máy chuyên môn dành cho gia dụng mà giá tiền thì nằm trong quãng 30.000 curon. Anh có một máy pha espresso mua ở John Wall giá chừng 3.500 curon - một trong mấy món ngông cuồng ít ỏi mà anh tự cho phép lọt vào nhà anh và nó chỉ là một mẩu nho nhỏ so với sự hoành tráng của chiếc máy của Salander.

Tủ lạnh có một hộp sữa đã mở, ít pho mát, bơ, trứng cá và nửa hũ dưa chuột muối. Tủ bếp có bốn nửa hũ vitamin, túi trà, cà phê cho loại máy pha cà phê thông thường, hai gói bánh mì và một bịch bít cốt ròn. Trên bàn là một bát táo. Có bốn bánh kẹp giăm bông và một chảo cá ở trong tủ để đông. Tất cả thức ăn anh tìm thấy ở trong nhà chỉ có thế. Trong thùng rác bên dưới quầy gần bếp lò anh thấy vài vỏ hộp bánh pan pizza Billy.

Sự sắp đặt hoàn toàn không cân đối. Salander nẫng vài tỉ curon và mua một căn hộ với không gian đủ chứa quần thần của triều đình cô. Nhưng cô chỉ cần ba phòng cô đã bày đồ đạc. Mười tám phòng khác vẫn còn trống nguyên.

Blomkvist kết thúc tua đi thăm nhà ở trong buồng giấy cô. Không hoa lá, không có tranh hội họa hay thậm chí cả tranh quảng cáo trên tường. Không có thảm thường lẫn thảm đắt tiền. Anh không thấy qua một cái bát trang trí, cây nến hay thậm chí cả một vật trang trí lặt vặt được giữ lại vì vài lý do tình cảm nào đó.

Blomkvist cảm thấy như có ai đang bóp lấy tim anh. Anh cảm thấy anh phải tìm ra Salander và ôm chặt lấy cô.

Anh mà thử làm thế chắc cô sẽ cắn anh ngay.

Tay Zalachenko trời đánh không tha kia.

Rồi anh ngồi xuống bàn làm việc của cô, mở tập tài liệu có bản báo cáo của Bjorck viết từ 1991. Anh không đọc hết mà đọc nhảy, cố nhập lấy cái cốt yếu.

Anh bật máy tính xách tay PowerBook với màn hình 43 phân tây, ổ cứng 200GB, và RAM 1.000 MB của cô.

Trống không. Cô đã lau xóa sạch sẽ. Đây là chuyện đáng ngại.

Anh mở ngăn kéo bàn làm việc thấy một khẩu Colt Government 1911 bắn phát một với kẹp đạn còn đầy, bảy viên. Khẩu súng này Salander lấy của tay nhà báo Sandstrom tuy Blomkvist không hay biết tí nào hết. Anh chưa đi đến chữ S trong danh sách các tay chăn dắt gái.

Rồi anh tìm thấy đĩa DVD đề Bjurman.

Anh cho đĩa vào máy tính của anh rồi kinh hoàng xem nội dung của nó. Anh ngồi đờ đẫn trong khi xem cảnh Salander bị đánh, bị hiếp và suýt nữa thì bị giết. Hình như đã có một camera giấu kín quay cuốn phim này. Anh không xem đủ hết mà nhảy qua từng đoạn, càng về sau càng tồi tệ.

Thằng Bjurman khốn nạn.

Người giám hộ Salander đã hiếp cô. Và cô đã lên tư liệu đến tận chi tiết cuối cùng cho vụ việc này. Ngày giờ trên đĩa cho hay hình ảnh đã được ghi từ hai năm trước. Khi anh chưa gặp cô. Các mảnh ghép hình đang rơi vào vị trí.

Bjorck, Bjurman cùng với Zalachenko trong những năm 70.

Zalachenko và Salander cùng với quả bom xăng làm bằng một hộp giấy đựng sữa đầu những năm 90.

Rồi lại Bjurman, lúc đó giám hộ cô, thay cho Palmgren. Cái vòng tròn đã khép lại. Bjurman đã tấn công người được hắn giám hộ. Với cô, một cô gái không tự vệ, Salander có mọi cái trừ không có tự vệ, hắn đã đối xử như với một con bệnh tâm thần. Cô là cô gái mới mười hai tuổi đã lên đường chinh chiến chống lại một tên đao búa trốn khỏi tình báo quân đội Liên Xô GRU và rồi cô đã làm cho hắn bị tàn tật hết đời.

Salander là người phụ nữ căm ghét các đàn ông căm ghét phụ nữ.

Anh nghĩ lại lúc anh đi đến bước quen biết cô ở Hedestad. Phải là sau vụ cưỡng hiếp vài tháng. Anh nhớ lại là cô không hề bóng gió qua một lời nào đến cái việc đã xảy ra với cô. Cô không để lộ chút nào bản thân cô ra. Blomkvist không thể đoán nổi cô đã làm gì cho Bjurman - nhưng cô đã không giết hắn. Khá là kỳ dị. Nếu không Bjurman đã chết trước đây hai năm. Cô chắc đã khống chế hắn bằng cách nào đó và với chủ đích nào đó rằng hắn có thể không bắt đầu hiểu ra được. Rồi anh nhận thấy anh đã có phương tiện khống chế của cô ở ngay trên cái bàn làm việc này. Đĩa DVD. Chừng nào cô có nó thì chừng ấy Bjurman còn là tên nô lệ kém mọn của cô. Và Bjurman đã quay sang cái người mà hắn cho là đồng minh. Zalachenko. Bố cô. Kẻ thù tồi tệ nhất của cô.

Rồi một chuỗi vụ việc. Bjurman bị bắn đầu tiên rồi Svensson và Johansson.

Nhưng sao lại ra thế?

Cái gì làm cho Svensson và Johansson thành ra một mối de dọa như vậy?

Và thình lình anh biết cái điều chắc đã xảy ra ở Enskede.

Blomkvist tìm thấy một tờ giấy ở trên sàn dưới cửa sổ. Salander đã in ra một trang giấy, vo tròn nó lại rồi vứt đi. Anh vuốt thẳng nó ra. Nó là ấn bản trên mạng của báo Aftohbladet nói về việc bắt cóc Miriam Wu.

Anh không biết Miriam Wu đóng vai trò gì trong vở bi kịch - nếu như có - nhưng cô là một trong số bạn bè rất ít ỏi của Salander. Có thể là bạn duy nhất cũng nên. Salander đã cho cô căn hộ cũ của mình. Nay cô nằm bệnh viện, bị đánh tồi tệ.

Niedermann và Zalachenko.

Mẹ cô trước. Rồi nay Miriam Wu. Salander căm thù đến phát điên lên mất.

Khiêu khích đến thế này là quá nhiều.

Nay cô đang săn lùng.

Vào giờ ăn trưa, Armansky được nhà phục hồi chức năng ở Ersta gọi. Sẵn chờ Palmgren nói cho nghe nhiều, ông đã không đến gặp ông ta. Ông sợ ông sẽ phải báo cáo rằng tội của Salander đã rõ rành rành. Nay ít nhất ông có thể bảo ông ta rằng trong thực tế có sự nghi ngờ có căn cứ về tội của cô.

- Ông làm đến đâu rồi? - Palmgren hỏi độp, không vòng vo.

- Về chuyện gì?

- Việc ông điều tra về Salander ấy.

- Thế sao ông lại đâm ra nghĩ là tôi điều tra nhỉ?

- Đừng có phí thì giờ của tôi đi mà, Dragan.

Armansky thở dài.

- Ông nói đúng.

- Tôi muốn ông đến gặp tôi. - Palmgren nói.

- Tôi có thể đến cuối tuần này.

- Tốt như thế chưa đủ đâu. Tôi muốn ông đến tối nay. Chúng ta có nhiều việc cần bàn đấy.

Blomkvist tự pha cà phê và làm sandwich ở trong bếp của Salander. Anh thấp thoáng mong nghe thấy tiếng chìa của cô ở cửa. Nhưng anh không lạc quan. Ổ cứng trống không trong PowerBook của cô bảo anh rằng cô đã rời bỏ nơi trú náu này mãi mãi. Anh tìm thấy căn hộ của cô quá muộn.

2 rưỡi, anh vẫn ngồi ở bàn làm việc của Salander. Anh đã đọc bản “không báo cáo” của Bjorck ba lần. Nó đã được thảo ra làm một bản lưu ý cho một cấp trên không nêu tên họ. Lời yêu cầu đơn giản: Kiếm một bác sĩ tâm thần dễ bảo để ông ta nhận Salander vào bệnh viện tâm thần của thiếu niên. Cô gái dứt khoát là bị rối loạn, như cách ứng xử của cô ta đã chứng minh rõ ràng.

Blomkvist sẽ dành sự chú ý rất đặc biệt đến Bjorck và Teleborian trong những ngày sắp tới. Anh đang nhìn trước tới việc đó. Di động réo, cắt đứt luồng suy nghĩ của anh.

- Lại chào nữa. Malin đây.

- Gì thế?

- Không có Ronald Niedermann trong các biên bản bảo hiểm xã hội ở Thụy Điển. Hắn không có ở trong bất cứ danh bạ điện thoại, biên bản thuế khóa hay cơ sở dữ liệu về bằng lái xe hoặc bất cứ chỗ nào khác. Nhưng nghe cái này này. Năm 1998, một công ty đã được đăng ký ở Sở Môn bài. Tên nó là KAB, Nhập khẩu AB, và có địa chỉ một hộp thư bưu điện ở Goteborg. Công ty nhập hàng điện tử. Chủ tịch ban giám đốc là Karl Axel Bodin, do đó có tên công ty KAB, sinh năm 1941.

- Nghe không thấy có gì hay cả.

- Tôi cũng thế. Cũng có một kế toán viên ở ban giám đốc đăng ký ở hai chục công ty khác nữa. Ông ta có vẻ là một trong các giám đốc tài chính danh nghĩa mà các công ty nhỏ cần đến. Từ khi lập ra, công ty này ít nhiều nằm yên. Nhưng rồi thành viên thứ ba của ban giám đốc là một R. Niedermann. Tay này không có một con số bảo hiểm xã hội nào ở Thụy Điển. Tay ấy sinh ngày 18 tháng Một năm 1970 và được nêu trong danh sách là đại diện của công ty ở thị trường Đức.

- Làm tốt đấy, Malin. Rất tốt ấy. Ngoài địa chỉ hòm thư bưu điện chúng ta còn có địa chỉ nào nữa không?

- Không, nhưng tôi đã dò ra Karl Axel Bodin. Hắn đăng ký ở Tây Thụy Điển và sống tại địa chỉ cho hòm thư bưu điện 612 ở Gosseberga. Tôi đã dò tiếp; hình như là một bất động sản ở vùng quê không xa Nossebro, phía đông bắc Goteborg.

- Chúng ta biết gì về hắn?

- Hắn khai thu nhập hai năm trước là 260.000 curon. Theo bạn bè chúng ta ở trong lực lượng cảnh sát thì hắn không có tiền án tiền sự. Hắn có giấy phép của một khẩu súng trường bắn hươu sừng tấm và một súng săn. Hắn có hai xe, một Ford và một Saab, đều là kiểu cũ. Bằng lái không có tì vết gì. Hắn không có vợ và tự nhận là chủ trại.

- Một người mà chúng ta không biết gì cả, mà không có tiền án tiền sự. - Blomkvist nghĩ qua một lúc. Anh phải có quyết định.

- Một việc nữa. Armansky gọi tìm anh mấy lần.

- Cảm ơn, Malin. Tôi sẽ gọi cô sau.

- Mikael... mọi cái đều OK với anh đấy chứ?

- Không, mọi cái đều không OK, nhưng sẽ liên hệ được với tôi.