Cô Gái Đùa Với Lửa - Phần IV - Chương 30 - Phần 2
Như một công dân tốt, anh cần báo Bublanski. Nhưng báo thì anh phải nói hết với ông sự thật về Salander hay đi đến một tình trạng sa lầy nửa chân lý nửa giấu giếm. Nhưng vấn đề thực sự không phải là ở đó.
Salander đang ra ngoài tìm Niedermann và Zalachenko. Anh không biết cô đã đi xa đến đâu nhưng nếu anh và Eriksson tìm ra được địa chỉ cho hòm thư 612 ở Gosseberga thì chắc chắn Salander cũng tìm thấy nó. Rất có khả năng cô đang đến Gosseberga. Cái bước đi này là tự nhiên thôi.
Nếu anh gọi cảnh sát báo họ chỗ Niedermann đang ẩn núp thì anh sẽ phải bảo cả họ rằng Salander chắc cũng đang trên đường tới đó. Cô đang bị lùng vì ba vụ án mạng và vụ bắn người ở Stallarholmen, như thế có nghĩa là đội phản ứng vũ trang quốc gia hay cái gì đó tương đương sẽ nhận nhiệm vụ bắt cô. Và không nghi ngờ gì là Salander sẽ chống cự dữ dội.
Blomkvist lấy giấy bút kê một danh sách các việc anh không được hay không muốn báo với cảnh sát.
Trước hết, địa chỉ ở Mosebacke. Salander đã gặp phải nhiều rắc rối để giữ gìn cho căn hộ cô được kín đáo riêng tư. Đây là nơi cô có cuộc đời và các bí mật của cô. Anh sẽ không để cho cô mất nó.
Rồi anh viết Bjurman cộng một dấu hỏi ở sau cái tên.
Anh liếc vào cái đĩa DVD trên bàn làm việc. Bjurman đã hiếp Salander. Hắn gần như suýt nữa thì đã dã man giết cô. Hắn ngạo ngược lợi dụng vị trí là người giám hộ cô gái. Vốn là lợn, hắn phải được phơi bày ra là lợn. Nhưng có một tình thế khó xử về đạo đức. Salander chưa từng báo cảnh sát. Cô sẽ không bao giờ tha thứ cho hắn nhưng bản thân bị phơi mặt trên báo chí bởi một nhóm điều tra của cảnh sát và chỉ trong vài giờ là các chi tiết đau lòng nhất đã xì ra rồi thì sao? Đĩa DVD là chứng cứ và chắc các hình ảnh của nó cuối cùng sẽ lên các tờ báo chiều mất thôi.
Muốn làm thế nào là do Salander quyết định. Nhưng nếu anh đã dò ra được căn hộ của cô thì sớm muộn cảnh sát cũng dò ra. Anh để đĩa DVD vào túi xách.
Rồi anh viết Báo cáo của Bjorck. Năm 1991, nó đã được đóng dấu TỐI MẬT. Nó rọi ánh sáng vào tất cả các chuyện từng xảy ra. Nó lôi tên Zalachenko ra và làm rõ vai trò của Bjorck, nó có thể cùng với danh sách các tên chăn dắt gái trong máy tính của Svensson đem đến cho Bjorck vài giờ hoảng sợ chống đỡ lại với Bublanski. Và với ánh sáng từ các thư từ, Teleborian cũng thấy bản thân hắn gặp rắc rối to nốt.
Các tư liệu sẽ dẫn cảnh sát đến Gosseberga nhưng ít ra anh cũng đã đi trước cảnh sát một bước.
Anh mở Word viết lên mạng những sự việc quan trọng anh phát hiện ra ở các câu chuyện với Bjorck và Palmgren cũng như các tư liệu anh tìm thấy ở chỗ Salander trong hai mươi tư giờ qua. Anh viết những cái này mất một giờ, rồi sao tư liệu vào một đĩa CD cùng với điều tra của anh.
Blomkvist cân nhắc có nên báo cho Armansky không nhưng nghĩ nên cho nghỉ. Ông ta đã có đủ hột dái để mà tung hứng rồi.
Blomkvist đi vào Millennium và đến thẳng buồng giấy Berger. Anh nói ngay, chả chào hỏi:
- Tên hắn là Zalachenko. Hắn trước kia là một tay đao búa của một trong mấy cơ quan tình báo Liên Xô. Năm 1976, hắn đào ngũ và được cho tị nạn ở Thụy Điển, được Cảnh sát An ninh Sapo cấp lương. Sau khi Liên Xô sụp đổ, hắn trở thành một tên cướp băng nhóm chuyên nghiệp, giống như những đứa khác. Nay hắn dính vào buôn bán tình dục và buôn lậu vũ khí, ma túy.
Berger đặt bút xuống.
- Sao mật vụ KGB nhảy vào hoạt động mà em lại không thấy ngạc nhiên chứ nhỉ?
- Không phải KGB. Đây là GRU. Tình báo quân đội.
- Thế thì nghiêm trọng.
Blomkvist gật.
- Ý anh là hắn đã giết Dag và Mia?
- Không phải hắn, không. Hắn cử đứa nào đó làm. Ronald Niedermann, tên quái vật mà Malin đã tìm được ra.
- Anh có chứng minh được chuyện đó không?
- Ít nhiều có. Một số là phỏng đoán. Nhưng Bjurman bị giết là vì hắn nhờ Zalachenko giúp xử lý Salander.
Blomkvist nói với chị về cái đĩa DVD Salander bỏ lại ở trên bàn làm việc.
- Zalachenko là bố của cô ấy...
- Trời đất.
- Bjurman chính thức làm cho Sapo vào giữa những năm 70 và là một trong những người làm cho Zalachenko được chính thức hoan nghênh khi hắn ta đào ngũ bỏ trốn. Sau đó Bjurman thành luật sư tự do và là một tên lừa đảo chuyên nghiệp, làm việc cho một nhóm “đinh” trong Cảnh sát An ninh. Tôi nghĩ có một nhóm bên trong nữa thỉnh thoảng vẫn gặp nhau ở nhà tắm sauna của đàn ông để kiểm soát thế giới và giữ bí mật về Zalachenko. Tôi đoán ngoài bọn này, phần còn lại của Sapo không hề nghe thấy tên chó đẻ này bao giờ. Lisbeth đe dọa làm vỡ tóe loe bí mật này ra. Cho nên chúng nhốt cô ấy ở trong một bệnh viện tâm thần của thiếu niên.
- Không thể là chuyện có thật được.
- Ô, thế mà là chuyện có thật đấy. - Blomkvist nói. Nhiều chuyện khác nhau đã xảy ra và lúc ấy cũng như bây giờ Lisbeth không dễ để cho nắm lấy cô ấy... nhưng từ khi mười hai tuổi cô ấy đã thành mối đe dọa cho an ninh quốc gia.
Anh kể vắn tắt câu chuyện cho chị nghe.
- Cả một món để phải tiêu hóa đấy. - Berger nói. - Còn Dag và Mia.
- Bị giết vì Dag đã phát hiện ra mối liên hệ giữa Bjurman và Zalachenko.
- Vậy bây giờ xảy ra chuyện gì đây? Chúng ta phải báo cảnh sát, báo không?
- Phần nào thôi, không báo hết. Anh đã sao thông tin quan trọng vào cái đĩa này, làm bản lưu lúc cần đến. Lisbeth đang đi tìm Zalachenko. Anh đang cố đi tìm cô ta. Không được nói với bất cứ ai chuyện này.
- Mikael... Em không thích làm thế. Chúng ta không thể găm thông tin trong khi đang có điều tra án mạng.
- Chúng ta sẽ không găm. Anh có ý gọi Bublanski. Nhưng anh đoán Salander đang trên đường đến Gosserberga. Cô ấy vẫn bị truy lùng vì ba vụ án mạng, nếu chúng ta gọi cảnh sát thì đội phản ứng vũ trang sẽ được tung ra truy lùng cùng với vũ khí và có nguy cơ thực sự là cô ấy sẽ chống lại không cho bắt. Lúc ấy thì chuyện gì cũng có thể xảy ra.
Anh ngừng lại và mỉm cười dứt khoát.
- Nếu không muốn như thế thì chúng ta cần giữ cho cảnh sát ở ngoài cuộc để cho đội phản ứng vũ trang không đi đến một kết cục đau lòng.
Berger nom nghi ngờ.
- Anh không muốn để lộ bí mật của Salander ra. Bublanski sẽ phải tìm lấy những cái đó cho ông ấy. Anh muốn em làm ơn giúp anh một việc. Hồ sơ này có bản báo cáo 1991 của Bjorck và một số thư từ giữa Bjorck với Teleborian. Anh muốn em sao một bản rồi gửi nó cho Bublanski hay Modig. Hai mươi phút nữa anh sẽ đi Goteborg.
- Mikael...
- Anh biết. Nhưng trong suốt câu chuyện này anh ở bên Lisbeth.
Berger mím môi lại nhưng không nói gì. Rồi chị gật.
- Cẩn thận. - Chị nói nhưng anh đã đi.
Mình nên đi với anh ấy, chị nghĩ. Đó là điều thuận đạo lý duy nhất mà chị có thể làm được. Nhưng chị vẫn chưa bảo anh rằng chị sắp rời Millennium và mọi sự như thế là hết, bất kể chuyện gì xảy ra. Chị cầm hồ sơ đi đến máy sao chụp.
Hòm thư ở một trạm bưu điện trong một trung tâm mua bán. Salander không biết Goteborg và cả những dọc ngang xuôi ngược của cái thành phố mà cô đang ở đó nhưng cô đã tìm được trạm bưu điện và vào chốt ở trong một quán cà phê để có thể theo dõi cái hòm thư qua một khe cửa sổ, nơi có một tranh quảng cáo cho Svensk Kassajanst, hệ thống bưu điện đã được cải tiến của Thụy Điển.
Irene Nesser trang điểm nền nã hơn Lisbeth Salander. Cô vắt ở cổ mấy chiếc khăn quàng xấu xí và đang đọc Tội ác và Trừng phạt cô tìm thấy ở một hiệu sách cách đó một phố. Cô kéo dài thời gian, thỉnh thoảng lật một trang. Cô bắt đầu theo dõi vào lúc ăn trưa, không biết thư từ có được lấy đều đặn, lấy thường ngày hay lấy cách tuần, từ hồi sớm được lấy đi chưa hay liệu sẽ có ai đến không. Nhưng đây là đầu mối duy nhất của cô, và cô nhâm nhi cà phê latte trong khi chờ.
Cô đã sắp lơ mơ ngủ thì thình lình thấy cửa hòm thư mở. Cô liếc vội đồng hồ. Hai giờ kém mười lăm. Số đỏ quá chừng là đỏ.
Cô nhanh nhẹn đứng lên và đi đến cửa sổ, ở đấy cô thấy một người mặc jacket da đen rời khu vực đặt các hòm thư. Cô bắt kịp người này ở ngoài phố. Đó là một thanh niên quãng hai chục tuổi, thanh mảnh. Anh ta rẽ ở đầu phố đến một chiếc Renault đỗ và mở khóa cửa xe. Salander nhập vào bộ nhớ biển số xe này rồi chạy về chiếc Corolla của mình, nó cũng đỗ ở cùng phố, cách đây một trăm mét. Cô bắt kịp chiếc Renault lúc nó rẽ đến Linnegatan. Cô theo nó xuống Avenyn và ngược lên phía Nordstan.
Blomkvist đến Ga Trung tâm vừa kịp bắt chuyến tàu X2000 vào lúc 5 giờ 10 chiều. Anh mua một vé ở quầy bằng thẻ tín dụng, ngồi vào trong toa nhà ăn rồi gọi bữa trưa muộn.
Cảm thấy trong lòng bứt rứt không yên, anh sợ mình đã lên đường muộn. Anh cầu xin Salander sẽ gọi anh nhưng trong tận đáy thâm tâm anh biết cô không gọi.
Năm 1991, cô đã cố hết sức để giết Zalachenko, bây giờ, sau ngần ấy năm, hắn đánh trả.
Palmgren đã đưa ra một phân tích có tính tiên tri. Salander tự thân đã nghiệm thấy nói chuyện với nhà chức trách là chả được cái tích sự gì.
Blomkvist liếc về chiếc túi máy tính xách tay của mình. Anh đã mang theo khẩu Colt anh tìm thấy trên bàn làm việc của cô. Anh không rõ tại sao anh mang nó đi nhưng linh tính mách bảo anh không được để nó ở lại căn nhà của cô. Anh biết ý nghĩ này không phải là một luận cứ lôgic lắm.
Khi tàu qua Arstabron, anh bấm di động gọi Bublanski.
- Ông muốn gì? - Bublanski hỏi, ngán ra mặt.
- Muốn làm cho hết các món dây dưa chưa giải quyết. - Blomkvist nói.
- Các món chưa giải quyết gì?
- Của tất cả mớ bòng bong này. Ông có muốn biết ai giết Svensson, Johansson và Bjurman không?
- Tôi muốn nghe nếu ông có thông tin.
- Tên kẻ giết người là Ronald Niedermann. Đó là tên khổng lồ đã đấu bốc với Paolo Roberto. Hắn là công dân Đức, ba mươi nhăm tuổi, làm việc cho một thằng cặn bã mạt hạng có tên là Alexander Zalachenko, cũng còn gọi là Zala.
Bublanski im một lúc lâu rồi Blomkvist nghe thấy ông thở dài, lật một tờ giấy và bấm bút bi.
- Đây là sự thật, không phải là nhà báo thả diều chơi đấy chứ?
- Đây là sự thật.
- OK. Vậy Niedermann và tay Zalachenko kia đang ở đâu?
- Tôi chưa biết nhưng tìm được ra là tôi báo ông ngay. Lát nữa, Erika Berger sẽ trao cho ông một bản báo cáo của cảnh sát từ năm 1991. Cô ấy sao xong là trao ngay, thật mà. Ông sẽ thấy mọi thông tin về Zalachenko và Salander ở trong đó.
- Như thế nào?
- Như Zalachenko là bố của Lisbeth, thí dụ vậy. Như hắn là một nhân viên đao búa của Liên Xô trong thời Chiến tranh lạnh.
- Một tay đao búa Nga à? - Bublanski họa theo.
- Một bộ phận trong Sapo đã ủng hộ hắn và giấu đi tất cả chuỗi hành vi tội phạm của hắn.
Blomkvist nghe thấy Bublanski kéo ghế ngồi ngay ngắn lại.
- Tôi nghĩ tốt nhất là ông đến làm một tờ khai chính thức.
- Tôi xin lỗi, tôi không có thì giờ làm việc đó.
- Ông nói sao?
- Hiện nay tôi không ở Stockholm. Nhưng tìm thấy Zalachenko là tôi báo tin ngay cho ông mà.
- Blomkvist... Ông không phải chứng minh gì cả. Tôi cũng ngờ về tội của Salander.
- Nhưng tôi chỉ là một người điều tra riêng tư không biết chút nào hết về công việc cảnh sát.
Thật trẻ con, anh nghĩ nhưng anh tắt máy không đợi Bublanski trả lời. Thay vì vậy, anh gọi Annika Giannini.
- Chào em.
- Chào. Có gì mới không?
- Mai có lẽ anh cần một luật sư giỏi.
- Anh đã vướng phải chuyện gì?
- Chưa có gì nghiêm trọng lắm, nhưng anh có thể bị bắt vì ngăn cản cảnh sát điều tra. Nhưng anh gọi vì chuyện khác. Đằng nào thì em cũng không đại diện được cho anh.
- Tại sao không?
- Vì anh muốn em bảo vệ cho Lisbeth Salander và em không thể trông nom cho cả hai bọn anh.
Blomkvist kể nhanh lại câu chuyện. Giannini im lặng, vẻ ái ngại. Cuối cùng cô nói:
- Thế ông anh có tài liệu về tất cả chuyện đó không?
- Có.
- Em đã nghĩ qua cả rồi. Lisbeth cần thực sự một luật sư.
- Em thì tốt nhất.
- Mikael.
- Nghe đây, em là người đã cáu với anh vì lúc cần đến giúp đỡ thì anh lại không nhờ.
Hai người chuyện xong, Blomkvist ngồi suy nghĩ. Rồi anh nhặt di động gọi Holger Palmgren. Anh không có lý do gì đặc biệt để gọi nhưng ông già đáng được biết là anh đang lần theo một hay hai đầu mối và anh hy vọng trong vài giờ tới sẽ giải quyết xong tất cả câu chuyện.
Vấn đề là Salander cũng có các đầu mối.
Salander móc một quả táo trong ba lô ra, mắt vẫn không rời khu nông trại. Cô nằm dài ở rìa một cánh rừng trên tấm thảm sàn xe Corolla cô lấy ra và trải lên mặt đất. Cô đã cởi bộ tóc giả, mặc vào một bộ quần áo thể thao màu xanh nhiều túi hông, một áo thun dày và một áo chắn gió dài ngang thân có lớp lót giữ nhiệt.
Nông trại Gosseberga nằm cách đường cái bốn trăm mét. Có hai nhà. Nhà chính ở cách cô khoảng một trăm hai chục mét, một ngôi nhà khung trắng hai tầng bình thường với một cái lán và một nhà kho ở bên ngoài chừng bảy chục mét. Qua cửa nhà kho cô có thể thấy capô một chiếc xe trắng. Cô nghĩ đó là chiếc Volvo nhưng nó ở quá xa nên không chắc chắn lắm.
Giữa cô và ngôi nhà là một tràn ruộng bùn chạy dài về bên phải chừng hai trăm mét xuống một cái đầm. Đường xe vào nhà cắt ngang qua thửa ruộng rồi mất vào sau một hàng cây nho nhỏ đi ra phía đường cái. Cạnh đường cái có một nông trại khác nom như bỏ hoang; những miếng ni lông phủ lên cửa sổ. Bên kia ngôi nhà chính là một lùm cây dùng để chắn con mắt hàng xóm gần nhất, một vạt nhà cách đó gần đến sáu trăm mét. Vậy là khu trại trước mặt cô tương đối biệt lập.
Cô ở gần hồ Anten trong một khu vực băng tích đã được mài tròn, ở đó cánh đồng xen lẫn với những thôn xóm be bé và đất rừng rậm rạp. Bản đồ đường xá không cho chi tiết về khu vực nhưng cô đã bám chiếc Renault đen từ Goteborg chạy theo đường E20 rẽ sang phía tây đến Solebrunn ở quận Alingsas. Sau chừng bốn chục phút, chiếc xe quặt gấp vào con đường rừng ở chỗ biển báo đây là Gosseberga. Cô lái tiếp rồi đỗ ở sau một nhà kho trong một vạt cây cách phía bắc xa lộ độ chừng một trăm mét.
Cô chưa nghe nói đến Gosseberga bao giờ nhưng cô có thể nói nó liên quan tới ngôi nhà và nhà kho ở trước mặt cô. Cô đã đi qua một thùng thư bên đường. Chữ sơn ở trên đó là “BĐ Hòm thư 192 - K. A. Bodin”. Cái tên chả nói lên điều gì với cô. Cô đã lượn một vòng rộng quanh các ngôi nhà và cuối cùng chọn lấy điểm nấp dò xét. Mặt trời chiều chiếu vào lưng cô. Do 3 giờ rưỡi đã vào vị trí, cô biết chỉ xảy ra có một việc. Hồi 4 giờ, người lái chiếc Renault ra khỏi ngôi nhà. Hắn trao đổi ở cửa với một người nào đó cô không nhìn thấy. Rồi hắn lái đi, không quay lại. Ngoài ra cô không thấy động tĩnh gì ở trong khu trại. Cô kiên nhẫn chờ, nhìn ngôi nhà bằng một ống nhòm hai mắt kính Minolta 8x.
Blomkvist chán ngán gõ ngón tay lên mặt bàn ở toa ăn. Đoàn tàu X2000 đỗ ở Katrineholm rồi ở lại đó gần một giờ. Một trong các toa xe bị trục trặc gì đó cần phải sửa. Người ta thông báo xin lỗi đã để hành khách phải chờ.
Anh nản chí thở dài rồi lại gọi cà phê.
Mười lăm phút sau, cuối cùng giật chúi một cái, đoàn tàu lại chạy. Anh nhìn đồng hồ, 8 giờ tối.
Lẽ ra anh nên đi máy bay hay thuê xe hơi. Bây giờ cái cảm giác lên đường quá muộn lại càng làm cho anh bồn chồn hơn.
Quanh quẩn lúc 6 giờ, ai đó bật đèn ở một gian phòng dưới tầng trệt rồi ngay sau đó một ngọn đèn dầu được thắp lên. Salander thấp thoáng thấy những cái bóng ở trong cái cô đồ chừng là gian bếp ở bên phải cửa ra vào nhưng cô không nhận ra được mặt mũi.
Rồi cửa ra vào mở, thằng khổng lồ có tên Ronald Niedermann đi ra. Hắn mặc quần sẫm màu và một áo phông chật làm cho bắp thịt hắn càng hằn rõ lên. Cô đã đúng. Một lần nữa cô thấy đúng thật là Niedermann đồ sộ. Nhưng hắn cũng chỉ là da thịt như mọi người bất chấp những cái mà Paolo Roberto và Miriam Wu đã nếm qua. Niedermann đi quanh ngôi nhà rồi vào nhà kho, nơi đỗ xe. Hắn đi ra với một cái túi nhỏ và trở lại vào trong ngôi nhà.
Sau chỉ ít phút hắn lại hiện ra. Đi kèm bên hắn là một người già hơn, thấp, gầy, chống một cái nạng. Trời quá tối Salander không nhận rõ được nét mặt người này, nhưng cô thấy một luồng lạnh buốt bò lan dọc sống lưng.
Bố ô ô ô, con ở đây...
Cô nhìn kỹ Zalachenko và Niedermann trong khi họ đi bộ lên đường cái. Họ dừng lại ở cái lán, Niederman lấy một ít củi ở đây. Rồi họ quay về nhà, đóng cửa lại.
Salander nằm im mấy phút. Rồi cô hạ ống nhòm xuống, lùi lại cho đến khi ẩn kín hoàn toàn vào giữa hàng cây. Cô mở ba lô lấy ra một bình giữ nhiệt, cô rót một ít cà phê. Cô cho một viên đường vào miệng mút. Cô ăn một sandwich pho mát mua hồi sớm trên đường đi đến Goteborg. Vừa ăn cô vừa tính xem tình thế.
Ăn xong cô lấy khẩu P - 38 Wanad Ba Lan của Nieminen ra. Cô bật kẹp đạn kiểm tra thấy không có gì làm cho chốt an toàn và nòng súng bị kẹt. Cô ngắm bóp cò thử không đạn. Cô có sáu viên đạn Makarov 9 li. Thế chắc là đủ. Cô cho kẹp đạn về chỗ, lên nòng một viên. Cô đẩy chốt an toàn rồi luồn súng vào trong túi phải của áo jacket.
Salander bắt đầu đi đến ngôi nhà, vòng qua khu rừng. Đi được chừng năm chục mét cô thình lình đứng lại.
Ở lề của bản Toán học, Pierre de Fermat ghi: Tôi đã có một chứng minh thực sự tuyệt vời cho mệnh đề này nhưng lề giấy đây quá hẹp không chứa đủ nó.
Bình phương đã được chuyển sang thành lập phương (x3 + y3 = z3) và các nhà toán học đã bỏ hàng thế kỷ ra để tìm lời giải cho câu đố của Fermat. Vào những năm 1990, lúc Andrew Wiles giải bài toán hóc búa này, ông đã vùi đầu vào nó trong mười năm, dùng đến chương trình máy tính tiên tiến nhất thế giới.
Rồi thình lình cô hiểu ra. Lời giải vô cùng đơn giản. Một trò chơi với các con số xếp lần lượt theo thứ tự rồi rơi vào vị trí nhờ một công thức đơn giản, giống với một câu đố bằng hình vẽ hơn cả.
Dĩ nhiên Fermat không có máy tính và đáp án của Wiles là dựa trên các toán học vẫn chưa được phát minh vào lúc Fermat đưa công thức của ông ra. Fermat có lẽ sẽ không bao giờ có được sự chứng minh mà Wiles đã trình làng. Đáp án của Fermat hoàn toàn khác.
Cô ngạc nhiên quá đến nỗi phải ngồi xuống một gốc cây. Cô nhìn đăm đăm về đằng trước trong khi kiểm tra phương trình.
Vậy thì điều ông muốn nói là cái ấy. Thảo nào các nhà toán học phải vò đầu bứt tai.
Rồi cô cười khúc khích.
Có lẽ một triết gia cũng có cơ may giải được câu đố này.
Cô mong cô đã được quen biết Fermat.
Ông là một đồ quỷ ngạo mạn.
Lúc sau cô đứng lên đi tiếp ở giữa lùm cây. Cô giữ cho gian nhà kho ở giữa cô và ngôi nhà chính.