Người Đàn Ông Mỹ Cuối Cùng - Chương 10 (Hết)
Phần Kết
Bạn không thể giải quyết nó. Bạn không thể vứt bỏ nó đi.
Tôi chẳng biết bạn định làm gì với nó, nhưng tôi biết mình sẽ làm gì với nó. Đơn giản là tôi sẽ bỏ nó ra đi. Có thể một phần nhỏ của nó sẽ chết nếu tôi không ở bên chăm sóc cho nó nữa.
- Lew Welch.
Tiểu sử của Eustace Conway chính là lịch sử phát triển của con người trên lục địa Bắc Mỹ này.
Đầu tiên, anh ngủ trên mặt đất và mặc đồ da thú. Anh đánh lửa bằng que củi và ăn những gì có thể săn bắn hái lượm.
Khi đói, anh ném đá vào chim chóc và phóng tên vào thỏ và đào rễ củ từ lòng đất, và thế là anh sống sót. Anh đan giỏ từ thân cây cối trong lãnh thổ của mình. Anh là dân du cư; anh chỉ đi bộ. Rồi anh chuyển vào sống trong lều vải và trở thành kẻ bẫy thú tinh vi hơn. Anh đánh lửa bằng đá lửa và thép. Khi thành thạo việc này rồi, anh dùng diêm. Anh bắt đầu mặc đồ len. Anh không ở lều vải nữa mà chuyển vào sống trong nhà gỗ đơn sơ. Anh trở thành nông dân, phát quang đất đai và trồng vườn. Anh kiếm được gia súc. Anh mở lối vào rừng, lối đi ấy trở thành đường mòn rồi thành đường cái. Anh hoàn thiện đường cái bằng những cây cầu. Anh mặc vải bò.
Ban đầu anh là thổ dân da đỏ, sau đó trở thành nhà thám hiểm, rồi thành người khai hoang. Anh xây cho mình căn nhà gỗ và trở thành người định cư thực thụ. Là con người mang mộng tưởng về xã hội không tưởng, giờ đây anh duy trì cuộc đời mình với niềm hy vọng rằng những người có cùng chí hướng như anh sẽ mua đất quanh Đảo Rùa và nuôi nấng gia đình mình như anh sẽ nuôi nấng gia đình của chính anh một ngày nào đó. Những người hàng xóm ấy sẽ canh tác trên đất đai của họ với máy móc sử dụng sức kéo gia súc, đến giúp đỡ nhau vào đúng vụ mùa, tham gia bữa tiệc nhảy nhót vui vẻ của nhau, và họ sẽ cưỡi ngựa sang nhà nhau để trao đổi hàng hóa.
Chừng nào tất cả điều này xảy ra, Eustace sẽ trở thành một người làng. Đó là điều anh muốn - xây dựng một thị trấn. Và khi tất cả đã đâu ra đó, anh sẽ xây ngôi nhà mơ ước của mình. Anh sẽ rời căn nhà gỗ mà chuyển vào sống trong một ngôi nhà xa hoa rộng thênh thang đầy các phòng thay đồ khổng lồ và trang thiết bị và con cái đề huề và đủ thứ. Và cuối cùng anh sẽ bắt kịp thời đại mình. Tới lúc đó, Eustace Conway sẽ là hình mẫu của một người Mỹ hiện đại.
Anh biến đổi liên tục trước mắt chúng ta. Anh cải tiến và mở rộng rồi lại cải tiến và mở rộng bởi vì anh thông minh và tháo vát tới mức không dừng được. Anh không muốn nghỉ ngơi vui thú với những gì anh đã biết rõ cách làm; anh phải không ngừng tiến lên. Anh không dừng lại được. Và chúng ta cũng không dừng lại được. Con người chúng ta trên lục địa này xưa nay vẫn không dừng lại được. Tất cả chúng ta đều tiến lên, như de Tocqueville từng nhận xét, “giống như một dòng lũ người, cứ cuồn cuộn dâng lên không hề suy giảm, và tiến lên phía trước từng ngày dưới bàn tay điều khiển của Thượng đế.” Chúng ta vắt kiệt sức mình và mọi người khác. Chúng ta vắt kiệt nguồn lực - cả tự nhiên lẫn nội tâm - và Eustace chỉ là đại diện rõ ràng nhất cho tình trạng khẩn cấp của chúng ta.
Tôi nhớ có một buổi cuối chiều, tôi cùng anh lái xe trở lại Đảo Rùa sau khi tới thăm Trại Sequoyah, đế chế cũ xưa của ông ngoại anh. Chúng tôi sắp về đến nhà, đang đi qua Boone, và dừng lại tại một đường giao. Bỗng nhiên Eustace quay ngoắt đầu lại hỏi, “Hai ngày trước, hôm chúng ta đi Asheville, tòa nhà kia đã ở đó chưa?”
Anh chỉ vào khung của một tòa nhà văn phòng nhỏ mới. Chưa, hai ngày trước tôi không thấy nó ở đó. Nhưng trông có vẻ như nó sắp hoàn thiện rồi. Chỉ cần lắp cửa sổ vào nữa thôi. Một tốp thợ xây đang rời khỏi công trường vào cuối ngày.
“Không thể thế được,” Eustace nói. “Chẳng lẽ họ xây được một ngôi nhà nhanh đến thế sao?”
“Tôi không biết nữa,” tôi nói, thầm nghĩ anh phải biết rõ hơn ai hết. “Tôi nghĩ họ làm được đấy.”
Anh thở dài. “Đất nước này…” anh than.
Nhưng Eustace Conway là đất nước này. Và, từ thực tế đó, sẽ còn lại cái gì? Sẽ còn lại gì sau tất cả hoạt động này? Đó là câu hỏi Walt Whitman từng đặt ra. Ông nhìn khắp lượt nhịp độ thần tốc của đời sống Mỹ, sự phát triển công nghiệp, sự ồn ào gồng mình trong tham vọng của đồng bào mình, và tự hỏi, “Sau khi ta đã vắt kiệt những gì có trong buôn bán, chính trị, tiệc tùng... - nhận ra rằng rốt cuộc chẳng thứ gì trong số này làm ta thỏa mãn, hay tồn tại lâu bền vĩnh cửu - sẽ còn lại cái gì?”
Và như mọi khi, nhà thơ già Walt đáng mến đưa ra cho chúng ta một câu trả lời: “Còn lại tự nhiên.”
Đó cũng là thứ còn lại cho Eustace. Tuy nhiên, giống như tất cả chúng ta (và đây là điều trớ trêu nhất của anh), Eustace không có nhiều thời gian như anh ao ước để tụng ca thế giới
Đúng như anh nói với tôi qua điện thoại vào một đêm đông, “Tuần này trên Đảo Rùa chúng tôi có một cơn bão tuyết. Một người bạn lên thăm có bảo, ‘Này Eustace, cậu đã làm việc vất vả quá đấy. Cậu nên nghỉ tay ra ngoài nặn người tuyết. Đã bao giờ nghĩ đến điều đó chưa?’ Ôi trời ơi, tất nhiên là tôi đã từng nghĩ đến điều đó chứ. Buổi sáng hôm ấy chỉ cần bước một bước chân ra khỏi cửa là tôi đã có thể thấy lớp tuyết tuyệt vời để làm người tuyết. Tôi đã tưởng tượng sẵn người tuyết mà tôi sẽ đắp, nếu thật sự phải đắp. Tôi nhanh chóng phân tích độ đặc của tuyết và quyết định chính xác chỗ đặt người tuyết để trưng bày đẹp nhất, chính xác nó to cỡ nào, và tôi có thể tìm mẩu than làm đôi mắt ở đâu trong xưởng rèn của mình. Tôi tưởng tượng ra mọi chi tiết của người tuyết đến tận cái mũi làm bằng củ cà rốt, với cái mũi này tôi phải nghĩ trong một giây: Bọn mình có còn đủ cà rốt dự trữ để mình có thể thửa một củ cho người tuyết này không? Sau khi thôi chơi người tuyết mình có thể lấy lại củ cà rốt để cho vào món hầm kẻo phí phạm không? Hay là một con thú nào đó sẽ chén mất củ cà rốt trước rồi? Tôi suy nghĩ lướt qua tất cả điều này trong khoảng năm giây, ước tính xem mình phải bỏ ra bao nhiêu thì giờ trong một ngày bận rộn để đắp người tuyết ấy, tôi cân nhắc thấy thời lượng đó tỉ lệ nghịch với mức độ niềm vui mà việc đắp người tuyết sẽ mang đến cho tôi - và quyết định không làm.”
Thật quá đáng buồn, bởi vì anh thực sự thích được ở bên ngoài kia và biết đâu anh đã có được nhiều niềm vui từ người tuyết hơn bản thân anh có thể ước lượng một cách logic. Bởi vì anh thực sự yêu thiên nhiên, bất chấp mọi cam kết và nghĩa vụ của anh. Anh yêu mọi thứ thuộc về thiên nhiên - cái bao la của rừng; đốm nắng xuyên xuống qua một tấm mái thiên nhiên tươi tốt; vẻ đẹp của các từ bồ kết, bu lô, hoàng dương... Hơn cả tình yêu, anh cần thiên nhiên. Như ông ngoại của Eustace từng viết, “Khi trí óc mệt mỏi hay tâm thần bất an, chúng ta hãy đi vào rừng để hít vào đầy ắp phổi làn không khí được tắm gội trong mưa và thanh lọc trong nắng, để đong đầy trái tim ta vẻ đẹp của cây cối, hoa lá, pha lê, đá quý.”
Người đàn ông tốt nhất mà Eustace có thể làm là người đàn ông mà anh trở thành khi một mình trong rừng thẳm. Đó là lý do tại sao lần nào lên Đảo Rùa tôi cũng lôi anh ra khỏi phòng làm việc và bắt anh đưa đi dạo. Mặc dù nói chung anh không có thời gian cho việc này, tôi buộc anh phải làm, bởi vì chưa đi được mười bước vào rừng là anh đã thao thao, “Đây là hương phong thảo. Cô có thể dùng cái thân rỗng của nó làm ống hút để uống nước ẩn nơi những viên đá cuội nằm trong lòng suối cạn quá nên có thể ta không dùng miệng uống được.”
Hoặc, “Đây là hoa huệ đốm tím, loài hoa này rất giống hoa huệ đốm da cam, chỉ có điều trông lạ mắt hơn. Nó cực hiếm đấy. Tôi ngờ là chỉ có năm cây hoa này trên toàn bộ một nghìn mẫu đất Đảo Rùa.”
Hoặc, khi tôi phàn nàn vì chạm phải cây thường xuân độc, anh sẽ đưa tôi xuống suối mà bảo, “Cùng đi đến hiệu thuốc của tôi nào.” Anh nhổ mấy cây bóng nước rồi bẻ thân để lấy nhựa bên trong, phết thứ thuốc mỡ đó lên cổ tay nổi mẩn của tôi, và đột nhiên cảm giác dễ chịu hẳn.
Tôi yêu thích khi Eustace ở trong rừng bởi vì anh yêu bản thân khi ở trong rừng. Đơn giản là thế. Đó là lý do tại sao một hôm khi chúng tôi đang đi dạo, tôi bỗng nhiên nói với anh, “Cho phép tôi giới thiệu một khái niệm mới mẻ đột phá được chứ, thưa ngài?”
Eustace cười phá lên. “Cho phép.”
“Đã có khi nào anh băn khoăn tự hỏi,” tôi hỏi, “liệu anh có thể làm lợi cho thế giới này nhiều hơn bằng cách thực sự sống cuộc đời mà anh luôn vẽ ra? Ý tôi là, chẳng phải tất cả chúng ta ở đây là vì điều đó hay sao? Chẳng phải mỗi người chúng ta đều có bổn phận cố gắng sống cuộc sống trung thực và sáng suốt nhất có thể có hay sao? Và khi hành động của chúng ta mâu thuẫn với giá trị của chúng ta, chẳng phải chúng ta vừa phá hoại mọi thứ thậm chí còn mạnh tay hơn à?”
Tôi ngưng lại ở đây và chờ lãnh một cú đấm. Nhưng Eustace không nói gì, thế nên tôi tiếp tục.
“Anh luôn nói với chúng tôi rằng chúng tôi có thể hạnh phúc chừng nào chúng tôi sống trong rừng. Nhưng khi mọi người lên đây ở với anh, rốt cuộc họ toàn thấy căng thẳng và thất vọng vì có quá nhiều người xung quanh và ngập đầu trách nhiệm. Thế nên đương nhiên họ không hấp thu được bài học, Eustace. Họ nghe thông điệp của anh nhưng lại không thể cảm nhận thông điệp ấy, và đó là lý do vì sao nó không hữu ích. Đã bao giờ anh tự hỏi điều đó chưa?”
“Tôi tự hỏi điều đó thường xuyên liên tục!” Eustace bùng nổ. “Tôi nhận thức rõ mười mươi chuyện đó! Mỗi khi vào dạy trong các trường, tôi đều nói với mọi người, ‘Nghe này các bạn, tôi không phải người duy nhất còn lại trên đất nước này nỗ lực sống cuộc đời gắn bó với thiên nhiên rừng thẳm, nhưng các bạn sẽ không bao giờ gặp được tất cả mấy gã kia đâu, bởi vì họ không sẵn sàng.” Còn tôi thì sẵn sàng. Đó là sự khác biệt ở tôi. Tôi luôn chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, ngay cả khi điều đó gây tổn hại đến cách sống tôi muốn. Khi ra với công chúng, tôi cẩn trọng cố gắng thể hiện như một anh chàng hoang dã vừa từ trên núi xuống, và tôi nhận ra rằng phần lớn đó là một sự giả vờ giả vịt. Tôi biết tôi là một người quảng cáo. Tôi biết tôi trình ra trước thiên hạ cái hình ảnh mà tôi ước đang sống thật. Nhưng tôi có thể làm gì khác chứ? Tôi phải khoác lên bộ mặt vờ vĩnh đó vì lợi ích của mọi người.”
“Tôi không chắc lắm là chuyện đó giúp ích chúng tôi, Eustace.”
“Nhưng nếu tôi sống cuộc đời lặng lẽ và đơn giản mình hằng muốn thì ai sẽ thấy nó? Ai sẽ có động lực để thay đổi? Chỉ hàng xóm láng giềng mới thấy tôi. Tôi sẽ chỉ tác động tới được chừng bốn mươi người, trong khi tôi muốn tác động tới khoảng bốn trăm ngàn người. Cô thấy tình thế tiến thoái lưỡng nan đó chưa? Cô thấy cuộc đấu tranh của tôi chưa? Tôi phải làm gì đây?”
“Cố gắng sống thanh thản lấy một lần thì sao?”
“Nhưng điều đó có nghĩa gì?” giờ thì Eustace hét lên, cười to và hoàn toàn đầu hàng. “Điều đó có nghĩa gì cơ chứ?”
***
Tất nhiên, câu hỏi của tôi đó không phải để mà trả lời. Tất cả những gì tôi có thể nói có chút chắc chắn là khi nào người đàn ông này có vẻ thanh thản nhất. Và đó thường không phải là khi anh đuổi người học việc hay khi nói chuyện điện thoại sáu giờ liên tục mặc cả với luật sư thuế, ban giám hiệu các trường, phóng viên báo chí và công ty bảo hiểm. Anh có vẻ thanh thản nhất là khi anh đang trải nghiệm mối liên hệ riêng tư nhất và mật thiết nhất với rừng hoang. Khi ở ngay bên trong rạp hát kỳ diệu của tự nhiên chính là khi anh đến gần hạnh phúc nhất. Khi anh - ở mức tối đa con người có thể đạt được trong thời hiện đại này - sống trong sự giao cảm với những gì còn sót lại từ vùng biên của chúng ta, đó là lúc anh tới điểm gần gũi đó
Đôi khi tôi may mắn được thoáng nhìn vào phần tuyệt vời nhất này trong con người Eustace Conway vào những khoảnh khắc lạ lùng nhất. Đôi khi chỉ là khoảnh khắc ấy tìm đến anh. Có một buổi đêm khi chúng tôi đang lái xe về từ Asheville, lái xe đi trong im lặng. Tâm trạng Eustace thật yên tĩnh, chúng tôi đang lắng nghe nhạc Appalachia xưa, chìm đắm trong giọng hát u buồn bằng âm mũi kể về những người đàn ông lam lũ đã mất đi trang trại của mình và những người phụ nữ nhọc nhằn có chồng xuống núi vào làm trong mỏ than rồi chẳng bao giờ về nữa. Lúc đó trời mưa lâm thâm, và khi chúng tôi chuyển từ siêu đại lộ sang đường cao tốc sang con đường hai làn rải đá dăm sang dải đường đất trên ngọn núi của anh, và mưa thưa hạt bớt, ngay khi đó mặt trời dần lặn xuống. Chúng tôi xóc nảy trườn lên phía Đảo Rùa dưới bóng tối của những thung lũng dốc lau lách um tùm.
Bất thình lình, một gia đình nhà nai từ rừng nhảy ra lao lên con đường trước mặt chúng tôi. Eustace đạp phanh. Con nai cái và đàn con vọt sang bên khuất vào bóng tối, nhưng con nai đực đứng yên, nhìn chăm chăm vào đèn pha của chúng tôi. Eustace bấm còi. Con nai đực cứ đứng yên. Eustace nhảy ra khỏi xe và quát to vào màn đêm ẩm ướt để đuổi con nai quay vào rừng, nhưng con nai vẫn đứng nguyên tại chỗ.
“Mày đẹp quá, người anh em!” Eustace hét lên với con nai.
Con nai nhìn anh chăm chú. Eustace cười vang. Anh vo nắm tay khua loạn giữa không. Anh gào thét như một con thú. Một lần nữa, Eustace hét lên với con nai đực, “Mày đẹp quá! Mày cừ lắm! Tuyệt bỏ xừ!”
Eustace cười mãi. Con nai đực vẫn bám đất, không nhúc nhích.
Và rồi Eustace cũng thôi không nhúc nhích nữa, bị mê mẩn đến tạm thời tê liệt. Một lúc lâu, anh cứ đứng lặng im bất động - tôi chưa bao giờ thấy anh như vậy - và chỉ được chiếu rọi bởi luồng sáng mờ tỏa ra từ đèn ô tô, nhìn chằm chằm con nai đực. Không ai động đậy hay hít thở. Cuối cùng, Eustace vỡ òa trước, anh lại thoi nắm đấm lên không trung và vận hết sức hét vào màn đêm:
“Tao yêu mày! Mày đẹp quá! Tao yêu mày! Tao yêu mày! Tao yêu mày!”
Lời cảm ơn
Tôi xin được cảm ơn gia đình Conway kiệt xuất về sự cởi mở và tình mến khách trong suốt công trình này, và đặc biệt là Eustace Conway vì anh đã dũng cảm cho phép tôi được tự do thực hiện tác phẩm.
Thật vinh hạnh khi được biết cả gia đình, và tôi đã cố gắng vinh danh mọi người ở đây.
***
Có rất nhiều người trong cuộc đời của Eustace - cả quá khứ lẫn hiện tại - đã hào phóng dành thời gian giúp tôi trình bày sáng rõ những ý tưởng đằng sau cuốn sách này. Vì sự rộng lượng của họ khi cho phép tôi phỏng vấn liên tục, tôi xin đa tạ Donna Henry, Christian Kaltrider, Shannon Nunn, Valarie Spratlin, CuChullaine O’Reilly, Lorraine Johnson, Randy Cable, Steve French, Carolyn Hauck, Carla Gover, Barbara Locklear, Hoy Maretz, Nathan và Holly Roarke, gia đình Hicks, Jack Bibbo, Don Bruton, Matt Niemas, Siegal Kiewe, Warren Kimsey, Alan Stout, Ed Bumann, Pop Holl
ingsworth, Patience Harrison, Dave Reckford, Scott Taylor, Ashley Clutter và Candice Covington. Và một lời cảm ơn đặc biệt dành cho Kathleen và Preston Roberts, không chỉ bởi hai bạn thật lịch thiệp và đáng mến mà còn bởi hai bạn đã cho Eustace và tôi ngồi trên hiên nhà để uống bia và bắn súng suốt đêm dài. (“Trước nay tớ chưa bao giờ nổ súng khi say đâu đấy,” Eustace nói, và Preston hét lên, “Thế mà cậu tự gọi mình là người miền Nam sao?”)
Tôi vô cùng biết ơn các tác giả của rất nhiều cuốn sách văn học và lịch sử đã soi lối cho nỗ lực này. Trong số đó, tôi tìm thấy cảm hứng trong các cuốn tiểu sử Daniel Boone của John Mack Faragher, tiểu sử Kit Carson của David Roberts, tiểu sử Davy Crockett của James Atkins Shatford, tiểu sử về thời trẻ của Teddy Roosevelt của David McCullough, bản phân tích về những người thế hệ Beat sống trong rừng hoang của Rod Phillips, và câu chuyện cảm động của Stephen Ambrose về hành trình tới Thái Bình Dương của Lewis và Clark.
Ai muốn đọc thêm về các xã hội không tưởng Mỹ thì nên tìm cuốn bách khoa thư của Timothy Miller nhan đề The 60's Communes: Hippies and Beyond, và bất kỳ ai yêu thích một cuốn sách thú vị bất ngờ viết về những xã hội không tưởng Mỹ thì nên lùng một bản tác phẩmark Halloway nhan đề Heavens on Earth: Utopian Communities in America, 1680-1880. Các con số thống kê được đưa ra trong chương bảy về sự suy yếu của phái mạnh lấy từ cuốn The Decline of Males của Lionel Tiger. Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới R. W. B. Lewis vì nghiên cứu thông thái của ông The American Adam, tới Richard Slotkin vì tác phẩm thông thái không kém của ông The Fatal Environment. Và lòng biết ơn vô cùng (cùng sự thán phục bấy lâu) của tôi xin được gửi tới ông Doug Brinkley, một thư viện sống, vì đã khuyên tôi đọc tất cả những cuốn sách này.
Tôi cũng xin cảm ơn hiệu sách của công ty Powell ở thành phố Portland, bang Oregon, vì trong khi tôi đang tìm kiếm những cuốn sách viết về ấn tượng của du khách châu u đến Mỹ vào thế kỷ mười chín thì nơi đây có nguyên một giá sách dán nhãn “Ấn tượng của du khách châu u đến Mỹ vào thế kỷ mười chín”. Trên khắp nước Mỹ không có hiệu sách nào tốt hơn, và chuyện này chứng minh điều đó.
Tôi thật may mắn khi có những người bạn tuyệt vời đồng thời cũng là những độc giả và biên tập viên xuất sắc. Vì sự giúp đỡ và hỗ trợ quý báu của họ trong việc biên tập lại rất nhiều bản nháp của cuốn sách này, tôi xin cảm ơn David Cashion, Reggie Ollen, Andrew Corsello, John Morse, John Gilbert, Susan Bowen (Mỹ nữ Georgia đọc sách siêu tốc) và John Hodgman. Tôi xin cảm ơn John Platter, người đã tìm thấy sức lực để đọc bản nháp đầu tiên của cuốn sách này trong những ngày cuối đời; cứ mỗi khi ra hộp thư tôi lại cảm thấy nhớ nhung da diết khi nhận ra rằng mình sẽ không bao giờ nhận được một lá thư nào từ ông nữa.
Tôi xin cảm ơn Kassie Evashevski, Sarah Chalfant, Paul Slovak, và Frances Apt rất ư đặc biệt vì sự dìu dắt vững vàng của họ. Xin cảm ơn Art Cooper ở tạp chí GQ vì bốn năm trước đã đặt lòng tin khi tôi nói, “Hãy tin tôi - bà chỉ cần cho tôi viết tiểu sử về anh chàng này là được.” Xin cảm ơn Michael Cooper vì đã nói từ rất lâu, khi tôi còn hồ nghi chuyện viết cuốn sách này, “Chẳng phải mắc sai lầm khi làm một việc gì đó vẫn hơn là mắc sai lầm khi không làm việc ấy hay sao?” Một lần nữa, xin cảm ơn chị gái Catherine của em vì sự thông tuệ phi thường của chị về lịch sử nước Mỹ và vì sự ủng hộ kiên định của chị. Một lần nữa, xin cảm ơn người bạn thân yêu Deborah vì đã luôn sẵn sàng hai tư tiếng mỗi ngày để truyền đạt những hiểu biết sâu rộng về tâm lý người. Cuốn sách này quả thực sẽ giống như một mớ ý tưởng khô khan nếu không có sự khởi nguồn cảm hứng của hai người phụ nữ kỳ diệu ấy.
Có gom hết mọi lời cảm tạ trên thế giới này cũng chẳng đủ để bày tỏ với Ucross Foundaì đã trao cho tôi 22.000 mẫu đất để được riêng tư giữa Wyoming trong suốt khoảng thời gian mà có lẽ rồi đây tôi sẽ nhớ đến như ba mươi ngày quan trọng nhất trong cuộc đời mình.
Và cuối cùng, có dùng hết mọi phương cách trên thế gian cũng chẳng đủ cho tôi nói điều này:
Tình Yêu Lớn.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Thực hiện bởi
nhóm Biên tập viên Gác Sách:
Mai – Kaitoukiddo1412 – Tiểu Bảo Bình
(Tìm - Chỉnh sửa - Đăng)