Vụ Án Trường Oxford - Chương 12 - 13

Chương 12

Petersen đứng dậy và rảo bước quanh phòng, tay chắp sau lưng. Ông ta nhặt áo khoác - trước đó đã vắt trên mép bàn - quay lại nhìn bảng đen một lúc, rồi dùng tay xóa đi hình tròn.

“Xin nhớ cho, chúng ta sẽ giữ ký hiệu thứ nhất giữa chúng ta càng lâu càng tốt. Tôi không muốn kích thích một tên giết người theo gót hắn. Ông có cho rằng có nhà toán học nào dưới kia đoán được ký hiệu kế tiếp, sau khi biết được cái thứ hai?”

“Không, tôi không nghĩ vậy,” Seldom đáp. “Và tôi không chắc họ sẽ hứng thú gì mà làm thử. Đối với một nhà toán học, vấn đề duy nhất quan trọng là cái ông ta đang bắt tay vào trong lúc này. Có lẽ cần cái gì đó lớn hơn là vài vụ án mạng đế kéo họ ra khỏi công chuyện của mình.”

“Không phải ông cũng vậy sao?” Petersen lúc này đang nhìn thẳng vào Seldom, giọng nói của ông ta mang một sắc thái khiển trách lạnh lẽo. “Nói thật tình, tôi hơi bị... thất vọng,” ông ta nói, cẩn trọng chọn lựa từ ngữ. “Dĩ nhiên tôi không mong ông cho một câu trả lời dứt khoát, nhưng tôi đã hy vọng có được bốn hay năm giả thuyết, những ức thuyết chúng ta có thể bắt tay vào hay loại trừ dần. Không phải các nhà toán học cũng làm việc như vậy sao? Nhưng hình như một vài vụ giết người cũng chưa đủ làm ông quan tâm.”

“Tôi có một ý tưởng sơ khởi, như đã nói,” Seldom đáp, cặp mắt nhỏ nhạt màu chạm với ánh mắt viên thanh tra. “Tôi hứa là sẽ tập trung chú ý vào việc này. Tôi chỉ muốn đảm bảo là mình không lầm lẫn.”

“Tôi mong ông sẽ không đợi đến vụ giết người kế tiếp để xác định mình đúng hay sai,” Petersen nói. Và, như thể đang do dự gắng sức sửa chữa lối nói năng sắc nhọn của mình vừa rồi, ông ta tiếp. “Nhưng nếu ông thực sự muốn giúp, ngày mai xin đến văn phòng tôi sau sáu giờ. Đến lúc đó, chúng ta đã có một phác họa tâm lý. Tôi muốn ông đọc xem có nảy ra ý nghĩ đến người nào chăng. Xin mời cả ông nữa,” ông ta nói, và bắt tay vội với cả hai chúng tôi.”

Sau khi Petersen đi khỏi là cả một quãng yên lặng khá lâu. Seldom lại bên cửa sổ và vấn một điếu thuốc.

“Tôi hỏi ông một câu này được không?” Cuối cùng tôi lên tiếng, đầy thận trọng. Tôi biết có thể ông cũng không muốn cho cả tôi biết điều gì, nhưng quyết định là thử hỏi cũng đáng công. “Ý tưởng của ông, cái ức thuyết của ông, nó là về ký hiệu kế tiếp, hay án mạng kế tiếp?”

“Tôi nghĩ là mình có một ý tưởng về cách liên chuỗi sẽ tiếp tục - về ký hiệu kế tiếp của liên chuỗi.” Seldom chậm rãi đáp. “Nhưng nó không giúp tôi khả năng suy diễn gì về án mạng kế tiếp cả.”

“Tuy là vậy, nhưng chẳng phải cả cái đó - ký hiệu đó - cũng giúp được thanh tra Petersen rất nhiều sao? Còn có lý do nào ông không muốn nói cho ông ta biết ư?”

“Ra đây đi, chúng ta đi dạo trong công viên một chút,” Seldom nói. “Tôi còn vài phút trước buổi lên lớp của người sinh viên, và tôi cần một điếu thuốc.”

Vẫn còn mấy người cảnh sát ở cửa chính đang xử lý những dấu tay trên khung kính, nên chúng tôi ra khỏi bằng cửa sau. Trên đường đi, chúng tôi qua mặt Podorov. Anh ta hờ hững chào tôi và chằm chằm nhìn vào Seldom, như hy vọng Seldom sẽ nhận ra mình. Chúng tôi đi vòng quanh Phòng thí nghiệm Vật lý, và theo con đường rải sỏi dẫn vào Công viên Đại học. Seldom lặng lẽ hút thuốc, và có một phút tôi tưởng ông sẽ không nói gì thêm nữa.

“Tại sao anh lại trở thành nhà toán học?” Ông đột ngột hỏi.

“Tôi không biết,” tôi đáp. “Có lẽ đó là một sai lầm. Trước kia tôi vẫn nghĩ mình sẽ lấy bằng cấp về nhân văn. Tôi đoán cái lôi cuốn tôi là loại sự thật chứa đựng trong các định lý: vượt qua thời gian, bất tử, tự bao hàm, nhưng lại tuyệt đối dân chủ. Còn ông sao lại chọn toán học?”

“Vì nó không làm gì hại ai,” Seldom đáp. “Bởi vì đó là một thế giới không liên quan gì đến thực tế. Anh biết không, nhiều sự kinh khủng đã xảy ra cho tôi khi tôi còn rất trẻ, và đã đến với tôi suốt cuộc đời, như thể đấy là những báo hiệu. Tuy chúng đến thất thường, nhưng vẫn quá đều đặn và với tôi, quá kinh khủng không bỏ qua được.”

“Báo hiệu như thế nào?”

“Hãy nói thế này. Tôi để ý một loạt những biến cố dấy lên vì bất cứ hành động nhỏ nào của tôi ở thế giới bên ngoài. Chúng có thể chỉ là những trùng hợp - những trùng hợp không may, thế thôi - nhưng chúng có sức tàn phá lớn đến nỗi chúng gần như đẩy tôi đến chỗ bế tắc. Báo hiệu cuối cùng chính là tai nạn trong đó vợ và hai người bạn tôi đã chết. Tôi không biết làm sao có thể nói được điều này một cách không khôi hài, nhưng, từ rất sớm, tôi đã nhận thấy những ức thuyết tôi đưa ra về thế giới thực luôn luôn xảy ra, nhưng theo những ngả đường kỳ quặc, và bằng những cách khủng khiếp nhất, như thể tôi đang bị cảnh cáo rằng mình nên tránh xa khỏi thế giới con người. Giữa tuổi mới lớn tôi đã từng hoảng sợ đến tột cùng. Lúc đó tôi mới phát hiện ra toán học. Lần đầu trong cuộc đời tôi cảm thấy mình đang có chỗ đặt chân an toàn. Lần đầu tiên tôi có thể theo đuổi một ức thuyết một cách kiên quyết hết mức mình muốn, và mỗi khi tôi lau tấm bảng đen, hay gạch bỏ một trang giấy sau khi đã phạm sai lầm, tôi lại có thể bắt đầu lại hoàn toàn, không có những hậu quả không lường trước. Giữa toán học và tội phạm học có một sự tương đồng: như thanh tra Petersen nói, chúng ta đều ước đoán. Nhưng khi anh định đưa ra một giả thuyết về thế giới thực, anh không tránh khỏi bày ra một yếu tố của hành động không thể đảo ngược lại, và luôn luôn có hậu quả. Khi anh nhìn vào một hướng, anh không nhìn các hướng khác. Khi anh theo đuổi một lối đi, anh đi trong bối cảnh thời gian thật, và có thể đã quá muộn để thử thêm một lối khác. Cái tôi sợ nhất không phải là sai lầm như tôi nói với thanh tra Petersen, mà là điều đã xảy ra suốt cuộc đời tôi: những cái tôi nghĩ đến luôn luôn xảy ra theo cách thức khủng khiếp nhất.”

“Nhưng không nói gì cả, từ chối không tiết lộ cái ký hiệu, tự thân việc đó chẳng phải, bằng cách tránh né, cũng lại là một thứ hành động có thể có hậu quả không tính toán được hay sao?”

“Có lẽ thế, nhưng vào lúc này, tôi thà chấp nhận nguy cơ ấy. Tôi không hăm hở như anh trong trò chơi thám tử. Và nếu toán học dân chủ thật, ký hiệu kế tiếp của liên chuỗi đã phải rõ ràng với mọi người. Anh, cả Petersen nữa, các anh đều có những yếu tố cần thiết để tìm thấy nó.”

“Không, không,” tôi phản đối. “Ý tôi là trong toán học có một khoảnh khắc dân chủ, khi chứng minh được viết nên từng dòng một. Ai cũng có thể đi theo lối mòn một khi nó đã được vạch ra. Nhưng dĩ nhiên phải có một khoảnh khắc sớm hơn của sự soi sáng, hay như ông nói, bước nhảy của con mã. Chỉ có số ít người, có khi chỉ một người trong suốt bao nhiêu thế kỷ, nhìn ra được bước đầu đúng đắn từ trong bóng tối.”

“Anh nói rất hay,” Seldom đáp. “ ‘Một người trong suốt nhiều thế kỷ’, nghe kịch tính lắm. Dù sao thì cái ký hiệu tôi đang nghĩ trong đầu này rất đơn giản. Nó thực sự không đòi hỏi kiến thức toán học gì. Nhưng thành lập mối quan hệ giữa các ký hiệu và các vụ án mạng thì khó khăn hơn. Có được một phác họa tâm lý không phải một ý kiến dở. Thôi,” ông nói, liếc vào đồng hồ, “tôi phải trở vào trong Viện rồi.”

Tôi nói rằng mình muốn tiếp tục đi bộ thêm một lát, và ông đưa cho tôi tấm danh thiếp Petersen đã trao cho ông.

“Đây là địa chỉ đồn cảnh sát. Nó đối diện với cửa hiệu tên là Alice ở Xứ thần tiên. Chúng ta có thể gặp nhau ở đấy lúc sáu giờ, nếu tiện cho anh.”

Tôi tiếp tục con đường và dừng lại dưới một bóng cây để quan sát trò chơi bí hiểm không sao hiểu nổi là cricket. Trong vài phút tôi tưởng mình đang xem các bước chuẩn bị trước trận đấu, hay một loạt những ý định khai cuộc không thành công. Nhưng rồi tôi nghe tiếng vỗ tay nhiệt tình của vài phụ nữ đội mũ rộng vành ngồi uống rượu pha ở cuối sân. Rõ ràng là tôi vừa bị lỡ một pha tuyệt vời. Có thể ngay lúc đó cuộc chơi đã vào giây phút quyết định, nhưng tôi chỉ thấy duy nhất sự thiếu hành động đến phát nản.

Tôi băng qua một cây cầu nhỏ - phía bên kia, công viên bớt phẳng phiu gọn ghẽ hơn - và đi dọc bờ sông qua những bãi cỏ đang vàng lá. Thường xuyên tôi thấy những cặp tình nhân đang chèo thuyền nhỏ giữa dòng. Có một ý nghĩ là ở đâu đó phía ấy, gần ngay trước mặt, như tiếng vo ve của một loài côn trùng không nhìn thấy được, có một linh cảm sắp được làm sáng tỏ, và trong một lúc tôi cảm thấy giá như mình đến được đúng chỗ, có thể nhìn thấy được một bên lề và chụp lấy nó. Như khi giải toán, tôi không rõ mình có nên kiên trì và cố khơi gợi nó lên, hay bỏ quên nó đấy, cố ý quay đi và để cho nó tùy nghi tự hiện lên. Có gì đó ở trong sự yên bình của khung cảnh, tiếng mái chèo vỗ nhẹ vào nước, và nụ cười lịch sự của các sinh viên trên những chiếc thuyền đi ngang qua, đã làm loãng sự căng thẳng. Tôi nhận ra, dù thế nào thì cũng không phải ở nơi này, chìa khóa của án mạng và cái chết sẽ được tiết lộ cho tôi.

Tôi đi tắt qua đám cây về lại văn phòng. Anh bạn đồng nghiệp người Nga của tôi đã ra ngoài ăn trưa, nên tôi quyết định gọi cho Lorna. Tiếng nàng nghe rất tươi vui và phấn khởi. Có, nàng có tin tức đấy, nhưng trước hết nàng muốn nghe tin tức của tôi đã. Không, Seldom chỉ nói với nàng là một thông điệp lạ lùng đã xuất hiện, dán vào cửa sổ. Tôi kể cho nàng mình đã thấy mẩu giấy như thế nào, miêu tả ký hiệu, và nhắc lại những gì còn nhớ được từ câu chuyện với thanh tra Petersen. Lorna hỏi thêm vài câu trước khi kể cho tôi chuyện nàng biết được: thi hài Ernest Clarck không được đem về nhà xác của cảnh sát, mà thay vào đó, xét nghiệm gia của cảnh sát đã tiến hành giải phẫu tại bệnh viện, cùng với một bác sĩ ở đó. Nàng đã thu xếp dụ được vị bác sĩ kể chuyện lại trong bữa ăn trưa. “Có khó lắm không?” Tôi hỏi, với một thoáng ghen tuông. Lorna bật cười. À, anh ta đã mời nàng ngồi chung bàn mấy lần, và lần này nàng đã nhận lời.

“Cả anh ta lẫn nhà pháp y kia đều mù tịt,” nàng nói. “Không biết ông Clarck bị tiêm cái gì, nó không để lại dấu vết gì cả - họ tuyệt đối không thấy gì hết. Anh bác sĩ nói nếu phải là mình, anh ta cũng đã ký giấy chứng tử là chết vì nguyên do tự nhiên. Có thể có một cách giải thích: loại thuốc này khá mới, chiết xuất từ thứ nấm Amanita muscaria, và chưa tìm ra loại thuốc thử nào phát hiện được nó cả. Nó đã được giới thiệu hồi năm ngoái ở một hội nghị y khoa khép kín tại Boston. Chỗ kỳ lạ - chỗ thú vị nhất - là các nhà giám định pháp y chưa bao giờ công bố sự tồn tại của loại thuốc này. Xem ra họ đều đã thề bồi không bao giờ tiết lộ ngay cả tên của nó. Có phải như vậy cho thấy cảnh sát nên đi tìm hung thủ giữa các giám định pháp y?”

“Hoặc giữa những cô y tá ăn trưa với họ,” tôi nói. “Cả những thư ký làm biên bản cho hội thảo, các nhà hóa học và sinh học đã nhận diện hóa chất, và luôn giới cảnh sát nữa. Họ tất nhiên đã được thông báo về sự tồn tại của loại thuốc này.”

“Ờ, dù sao đi nữa,” Lorna nói, có vẻ tự ái, “nó cũng thu hẹp cuộc tìm kiếm lại. Đấy không phải một thứ anh có thể tìm thấy trong bất kỳ tủ thuốc phòng tắm nào.”

“Đúng lắm,” tôi nói, cố xoa dịu. “Mình đi ăn tối nay được không nào?”

“Không được, tối nay em làm muộn lắm, thế còn tối mai thì sao? Sáu giờ ba mươi ở quán Đại bàng và Đứa trẻ?”

Tôi nhớ đến giờ hẹn với thanh tra Petersen.

“Dời qua tám giờ được không? Anh vẫn chưa quen ăn tối sớm như vậy.”

Lorna cười.

“Được, mình có thể giữ giờ giấc gaucho[10] của anh một lần này.”

[10] Tiếng lóng, chỉ người Nam Mỹ.

Chương 13

Một nữ cảnh sát viên gầy gò đến độ gần như cô ta biến mất trong bộ đồng phục, dẫn chúng tôi lên lầu đến văn phòng thanh tra Petersen. Chúng tôi vào một phòng lớn, tường màu hồng cá hồi rất đậm, giữ được sự khắc khổ kiêu hãnh của nước Anh sau thế chiến, hoàn toàn không có màu sắc xa xỉ. Trong phòng có vài tủ hồ sơ cao bằng kim loại, và một cái bàn gỗ giản dị đáng kinh ngạc. Từ cửa sổ, ta thấy một khúc quanh của dòng sông, và dưới ánh sáng kéo dài của mùa hạ, mấy sinh viên nằm trên bờ sông, hứng lấy ánh nắng cuối cùng. Mặt nước tĩnh lặng, chói ánh vàng làm tôi nghĩ đến nhũng bức tranh của Roderic O’Connor đã thấy ở London, tại phòng triển lãm Barbican.

Trong văn phòng của mình, ngả lưng vào ghế, Petersen có vẻ thoải mái hơn, đỡ ngờ vực. Hay có lẽ ông ta đơn giản không còn coi chúng tôi là nghi can, và muốn cho chúng tôi thấy ông ta cũng có thể, nếu muốn, đánh đổi cái mặt nạ cảnh sát lấy bộ mặt lịch thiệp thường thấy của người Anh. Ông ta đứng dậy và mang cho chúng tôi mấy chiếc ghế có lưng dựa giản dị, vải bọc đệm sờn đến sáng bóng lên, và các góc đã bung chỉ. Khi ông ta đã ngồi lại xuống, tôi nhận thấy một khung ảnh bạc trên một góc bàn: bên trong là tấm hình Petersen lúc trẻ đỡ một cô bé lên lưng ngựa. Từ những điều Seldom nói với tôi về ông ta, tôi đã đoán sẽ thấy hàng đống văn kiện, mảnh báo cắt, vài bức hình treo tường về những vụ án ông ta đã phá. Nhưng trong căn phòng hoàn toàn vô danh tính này, không thể nào nói được Petersen có phải một khuôn mẫu của sự khiêm tốn, hay đơn giản là loại người không thích lộ ra quá nhiều về mình, để có thể phát hiện mọi thứ về người khác. Ông ta mở ngăn kéo bàn và lôi ra một cặp ly, rồi chậm rãi lau bằng một mẩu vải. Đoạn ông liếc vào vài trang giấy trên bàn.

“Ừ phải,” ông ta nói, “tôi sẽ đọc các ông nghe những điểm chính của báo cáo. Chuyên gia tâm lý của chúng tôi nghĩ rằng hung thủ là một người đàn ông, trạc ba mươi lăm tuổi. Trong báo cáo, bà ấy gọi hắn là ông H, hẳn là từ chữ “hung thủ”. H, bà ta cho biết, có lẽ xuất thân từ một gia đình tiểu trung lưu, ở một ngôi làng hay một khu ngoại ô. Hắn có thể là con một, nhưng dù thế nào thì hắn cũng là một đứa trẻ xuất sắc rất sớm trong một theo đuổi trí thức, tỉ như cờ, toán, hay đọc sách, một điều bất thường trong gia đình hắn. Cha mẹ hắn lầm tưởng sự phát triển sớm của hắn là thiên tài; và điều ấy làm cho hắn không tham gia vào những trò chơi và thông lệ của bọn trẻ con khác. Hắn có lẽ đã là mục tiêu cho sự trêu chọc và mọi sự còn xấu đi hơn vì một dấu hiệu nào đó của thể chất yếu đuối, như là giọng eo éo, hay đeo kính, hay cân nặng quá khổ. Sự trêu chọc làm hắn co lại dữ hơn, và làm hắn nuôi những ước mộng trả thù đầu tiên. Trong những mộng tưởng này, điển hình thì H tưởng tượng mình chiến thắng vẻ vang kẻ thù và bằng tài năng, đè bẹp những ai đã hạ nhục hắn.”

“Cuối cùng, ngày trắc nghiệm đã đến, giây phút hắn chờ đợi bao nhiêu năm - một cuộc thi có tính cách quan trọng riêng trong lĩnh vực nào đó mà hắn xuất sắc. Đây là cơ hội lớn của hắn, dịp cho hắn thoát khỏi hoàn cảnh của mình và bắt đầu cuộc đời khác mà từ lâu hắn chuẩn bị trong im lặng, như một nỗi ám ảnh suốt thời mới lớn. Nhưng một sai lầm khủng khiếp nào đã xảy ra, nhưng người trắc nghiệm bất công theo cách nào đó, và H trở về, thua cuộc. Đó chính là tổn thương đầu tiên. Cái đó gọi là hội chứng Ambère, theo tên nhà văn mà lần đầu tiên người ta quan sát thấy mang chứng ám ảnh này.

Peterson mở ngăn kéo, lôi ra một tập sách dày về tâm lý học. Một mẩu giấy mỏng đánh dấu vài trang sách. “Tôi nghĩ xem lại trường hợp đầu tiên này có thể cũng thú vị. Xem nào: Jules Ambère là một nhà văn bần cùng, không tiếng tăm người Pháp. Năm 1927, anh ta gửi bản thảo cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình đến nhà xuất bản G…, lúc ấy là nhà xuất bản hàng đầu của nước Pháp. Anh ta đã bỏ bao năm cho cuốn tiểu thuyết, viết đi viết lại như bị ám ảnh. Sáu tháng trôi qua trước khi anh ta nhận được một bức thư lịch sự không thể nghi ngờ từ một trong các biên tập viên, bức thư anh ta giữ đến tận cuối đời. Trong thư, biên tập viên bày tỏ sự ngưỡng mộ cuốn tiểu thuyết, và đề nghị anh ta đến Paris để thảo luận điều kiện hợp đồng. Ambère cầm cố những tài sản ít ỏi có giá trị còn lại để trả tiền cho chuyến đi nhưng tại buổi gặp mặt, một chuyện không hay đã xảy ra. Họ đưa anh ta đi ăn trưa ở một nhà hàng sang trọng, nơi mà y phục của anh ta quá lạc lõng, cách hành xử ở bàn ăn thì kém cỏi, lại còn hóc xương cá. Không có gì quá nghiêm trọng cả, nhưng hợp đồng cuối cùng không ký được, và Ambère trở lại làng mình, vô cùng nhục nhã. Anh ta bắt đầu mang theo lá thư trong túi, và suốt mấy tháng liền, không ngừng kể lại câu chuyện với bạn bè. Đặc tính tái diễn thứ hai của hội chứng này chính là thời gian ủ bệnh và đeo đẳng với ký ức đó, có khi phải đến hàng năm trời. Một vài nhà tâm lý học gọi đấy là hội chứng “cơ hội bỏ lỡ”, để nhấn mạnh đặc tính này, sự bất công xảy ra trong giây phút quyết định, điểm chuyển tiếp có thể xoay vần mạnh mẽ cuộc đời một con người. Trong thời gian ủ bệnh, người này luẩn quẩn quay lại giây phút ấy, mất khả năng tiếp tục cuộc sống trước đó của mình, hoặc hắn thích nghi dần, nhưng chỉ ở bề ngoài, và bắt đầu nuôi những mộng tưởng sát nhân.”

“Thời kỳ ủ bệnh chấm dứt khi cái mà sách vở tâm lý học gọi là “cơ hội thứ hai” xuất hiện, một sự kiện liên kết phần nào đó tái tạo lại biến cố đầu tiên, hay có vẻ tương đối giống với nó. Nhiều nhà tâm lý coi nó giống như câu chuyện thần đèn trong Nghìn lẻ một đêm vậy. Trong trường hợp Ambère, cơ hội thứ hai rõ rệt một cách đặc biệt, nhưng thường thì mô thức của nó mơ hồ hơn. Mười ba năm sau khi anh ta bị từ chối, một chuyên gia thẩm định mới vừa vào làm cho nhà xuất bản G... tình cờ tìm thấy bản thảo khi họ di chuyển văn phòng, và tác giả lại được mời đến Paris lần thứ hai. Lần này Ambère tề chỉnh không chê vào đâu được, cẩn trọng tác phong suốt bữa ăn, giữ cho cuộc trò chuyện được tự nhiên và xã giao chung chung, rồi, đến lúc bánh pudding được đem lên, bóp cổ người phụ nữ kia chết tươi trước khi những người hầu bàn kịp can thiệp.”

Petersen nhướng một bên mày và đóng sách lại. Ông ta liếc qua bản báo cáo tâm lý trước khi đặt nó sang bên, rồi lướt nhanh qua mấy đoạn đầu của trang thứ ba.

“Báo cáo tiếp tục đến chỗ này có thể làm chúng ta phải để ý. Nhà tâm lý học khẳng định rằng chúng ta không phải đang đối phó với một tên rối loạn nhân cách. Loại người ấy thường tỏ ra thiếu ăn năn, và có tính tàn bạo ngày một gia tăng, kết hợp với sự hồi tưởng quá khích - hắn đi tìm cái gì đó có thể kích thích hắn. Còn trong trường hợp này cho đến giờ, hắn đã giữ một cung cách tinh tế, một sự chú tâm gây hại càng ít càng tốt. Cũng như ông,” ông ta quay sang Seldom, “vị tiến sĩ này có vẻ cũng thấy điều đó rất lý thú. Theo ý bà ta, chính chương sách của ông về giết người hàng loạt đã cung cấp cho hắn “cơ hội thứ hai”. Con người của chúng ta thấy mình đã được hồi sinh. Hắn đang tìm kiếm cả lòng ngưỡng mộ lẫn sự báo thù: ngưỡng mộ từ nhóm người hắn luôn muốn được lọt vào, nhưng đã bị loại trừ một cách bất công. Và sau cùng, nhà tâm lý học thử nêu một cách có thể diễn dịch được các ký hiệu. Trong những cơn hoang tưởng, H cảm giác như mình là một đấng sáng tạo, hắn muốn đặt lại tên mọi sự. Hắn hoàn chỉnh không ngừng nghỉ những sáng tạo của mình; giống như trong sách Giảng Viên của Cựu ước, các ký hiệu làm chứng cho những giai đoạn trong sự phát triển của hắn. Ký hiệu kế tiếp, bà ấy gợi ý, có thể là một con chim.”

Petersen gom giấy tờ lại và ngước nhìn Seldom:

“Những điều này có gì trùng hợp với ý nghĩ của ông không?”

“Về các ký hiệu thì không. Tôi vẫn tin là nếu những lời nhắn nhắm tới các nhà toán học, chìa khóa cũng phải nằm trong toán học theo cách nào đấy. Có giải thích gì cho tính cách ‘nhẹ nhàng’ của những vụ án mạng không?”

“Có,” Petersen đáp, lật lại các trang giấy. “Tôi e nhà tâm lý học tin là những vụ án mạng chính là một cách để lấy cảm tình của ông. Trong con người của H, ý muốn thường trực đòi báo thù được kết hợp với một ước muốn sâu đậm hơn, được lọt vào thế giới mà ông đại biểu, được nhận sự ngưỡng mộ - thậm chí sự ngưỡng mộ trong kinh sợ - của những người đã đẩy hắn ra. Chính vì vậy mà giờ phút này, hắn chọn một cách giết người hắn cho là các nhà toán học sẽ chấp thuận - có cấu thành tối thiểu, sạch sẽ không vung vãi gì, không có tính tàn bạo, gần như là trừu tượng. Giống như trong những giai đoạn đầu của sự say đắm, H đang cố làm vừa lòng ông: những vụ giết người chính là lễ vật. Nhà tâm lý nghĩ hắn có thể là một tay đồng tính bị dồn nén đang sống một mình, nhưng bà ấy cũng không loại trừ khả năng hắn có kết hôn, và hiện giờ đang có một cuộc sống gia đình bình thường để ngụy trang sinh hoạt bí mật của hắn. Bà ấy nói thêm là nếu không thấy bóng dáng gì của sự đáp ứng, giai đoạn quyến rũ ban đầu này sẽ kéo theo đến giai đoạn thứ hai, giận dữ, khi đó những vụ giết người sẽ thêm phần ác độc, hay nhắm vào những người gần với ông.”

“Ái chà, nghe thật cứ như vị tâm lý học này có quen biết với hắn ta vậy. Chỉ thiếu mỗi điều bà ta cho biết hắn có một mụn cóc trên cánh tay trái!” Seldom thốt lên. Tôi không biết chắc trong giọng nói của ông chỉ chứa đựng sự mỉa mai, hay còn có một thoáng bực dọc được. Tôi tự hỏi có phải ông đã bị động lòng vì chuyện đồng tính được nêu ra. “Tôi e rằng giới toán học chúng tôi khi ước đoán thường nhát tay hơn nhiều. Tuy nhiên, tôi đã suy nghĩ nhiều về điều ông nói và quyết định rằng có lẽ tôi nên cho ông biết ý nghĩ của mình.” Ông lấy ra một cuốn sổ nhỏ trong túi, và bằng một cây bút máy trên bàn của Petersen, vẽ nhanh vài nét mà tôi không nhìn được. Vẽ xong, ông xé tờ giấy ra, gập làm đôi rồi đưa cho Petersen:

“Đây, ông có hai cách dùng được để tiếp tục liên chuỗi.”

Trong cách Seldom gấp tờ giấy có cái gì đó bí mật mà Petersen hình như đã nắm bắt được. Ông ta im lặng nhìn vào tờ giấy một lúc trước khi gập nó lại rồi đút vào ngăn kéo bàn làm việc. Ông ta không hỏi lại Seldom câu nào. Có lẽ trong cuộc song đấu nho nhỏ giữa hai người, tạm thời lúc này Petersen đã được thỏa mãn - ông ta đã bắt được Seldom tiết lộ ký hiệu đó và không muốn làm phiền ông thêm với những câu hỏi. Hay có lẽ đơn thuần là ông ta muốn bàn bạc riêng chuyện này với Seldom. Tôi đã thấy mình nên đứng dậy và cáo từ, nhưng chính Petersen lại là người đứng dậy và tiễn chúng tôi ra với một nụ cười thân thiện không ngờ trước.

“Ông đã có kết quả cuộc khám nghiệm tử thi thứ hai chưa?” Seldom hỏi khi chúng tôi đang ra tới cửa.

“Đó lại là một bí ẩn lý thú khác,” Petersen đáp. “Ban đầu thì các nhà xét nghiệm pháp y đều bị rối trí: họ không thấy dấu vết loại thuốc độc nào đã từng được biết, trong thi thể. Họ nghĩ không chừng họ đang phải đối phó với một thứ chất độc không có dấu vết, chuyện mà tôi chưa nghe nói bao giờ. Nhưng tôi nghĩ cuối cùng tôi đã giải đáp được việc này,” ông ta nói, và lần đầu tiên tôi thấy cái gì như sự kiêu hãnh ánh trong mắt ông. “Hung thủ có thể cho là hắn khôn khéo lắm, nhưng cảnh sát chúng tôi đôi khi cũng biết động não chút đỉnh chứ.”