Đừng nói một ai - Chương 33 + 34

33

Carlson ngồi trong xe. Cà vạt vẫn thắt nút quá mức
tỉ mỉ. Áo khoác
đã cởi ra, treo trên cần gỗ ở móc ghế sau. Máy điều hòa phả luồng hơi to và
mạnh. Carlson đọc phong bì đựng hồ sơ khám nghiệm tử thi: Elizabeth Beck, Hồ sơ
vụ án số 9487002. Tay anh ta lần tháo dây buộc. Phong bì mở ra. Carlson rút
giấy tờ bên trong ra và trải lên ghế bên cạnh.

Bác sĩ
Beck muốn xem cái gì?

Stone đã
cho anh ta câu trả lời rõ ràng: Beck muốn biết có thứ gì khác có thể buộc tội
hắn. Câu trả lời này khớp với những giả thuyết trước đó của họ, và sau rốt,
Carlson chính là người đầu tiên bắt đầu nghi vấn kết quả đã được chấp nhận
trong vụ án giết Elizabeth Beck. Anh ta đã là người đầu tiên tin rằng vụ án mạng
không phải như vẻ bề ngoài của nó - rằng thực ra chính bác sĩ David Beck, người
chồng, mới là kẻ lên kế hoạch giết vợ.

Vậy tại
sao anh ta lại thôi không tin giả thuyết đó nữa?

Anh ta đã
xem xét tỉ mỉ những lỗ hổng giờ đây hoác ra trong giả thuyết đó, nhưng Stone đã
thuyết phục để đắp chúng lại nhiệt tình không kém. Vụ nào chả có lỗ hổng.
Carlson biết điều đó. Vụ nào cũng có những chỗ mâu thuẫn. Nếu không có, cược
mười ăn một là bạn đã để lỡ thứ gì đó.

Vậy tại
sao giờ đây anh ta lại nghi ngờ việc phạm tội của Beck?

Có lẽ nó
có liên quan tới việc vụ án trở nên quá rõ ràng, tất cả bằng chứng đột nhiên
xếp hàng và hợp tác với giả thuyết của họ. Hoặc có thể nghi ngờ của anh ta là
dựa trên thứ gì đó không đáng tin cậy như “trực giác”, mặc dù Carlson chưa bao giờ
là fan cuồng nhiệt của khía cạnh đặc biệt đó trong công việc điều tra. Trực
giác thường là cách đi tắt, một kỹ thuật thuận tiện thay thế các bằng chứng và
lập luận khó bằng một thứ còn khó nắm bắt và thất thường hơn rất nhiều. Những
thanh tra kém cỏi nhất mà Carlson biết làm việc dựa vào cái gọi là trực giác.

Anh ta
cầm tờ trên cùng lên. Thông tin cơ bản. Elizabeth Parker Beck. Địa chỉ, ngày
sinh (cô mới hai mươi lăm khi chết), nữ da trắng, cao 1m71, nặng 49 kg. Gầy.
Khám nghiệm bên ngoài cho thấy xác chết không còn cứng nữa. Có những chỗ rộp
trên da và chất lỏng chảy ra từ các lỗ trên cơ thể. Điều đó cho thấy thời gian
chết là đã hơn ba ngày. Nguyên nhân cái chết là do một nhát dao đâm vào ngực.
Cơ chế chết là bị mất máu và xuất huyết nghiêm trọng ở động mạch chủ bên phải.
Còn có những vết rách trên tay và ngón tay, theo giả thuyết là do cô cố chống
cự lại khi bị dao tấn công.

Carlson
lấy sổ và bút Mont Blanc ra. Anh ta viết những vết thương do chống cự lại
dao?!?! Và rồi anh ta gạch dưới vài lần. Những vết thương do chống cự. Thế
không phải kiểu của KillRoy. KillRoy tra tấn nạn nhân của y. Y trói họ bằng dây
thừng, làm bất cứ thứ gì, và một khi họ không còn màng gì nữa, y giết họ.

Tại sao
lại có những vết thương do chống cự lại dao trên tay cô ấy?

Carlson
tiếp tục đọc. Anh ta lướt qua phần tóc và màu mắt, và rồi, ở nửa cuối trang
hai, anh ta thấy một điều phải kinh ngạc nữa.

Elizabeth
Beck bị đóng dấu sau khi chết.

Carlson
đọc lại lần nữa. Anh ta mở sổ ra và ngoáy vội cụm từ sau khi chết.
Không hợp lý. KillRoy luôn đóng dấu nạn nhân của y khi họ còn sống. Nhiều thứ
đã được làm rõ tại phiên tòa về việc y thích cái mùi thịt cháy xèo xèo như thế
nào, y thích thú những tiếng kêu gào của nạn nhân như thế nào khi đóng dấu bằng
sắt nung lên người họ.

Đầu tiên,
những vết thương chống cự. Giờ là cái này. Thứ gì đó không khớp.

Carlson
bỏ kính ra và nhắm mắt lại.

Lộn xộn,
anh ta nghĩ thầm. Lộn xộn làm anh ta khó chịu. Hy vọng tìm thấy những lỗ hổng
về mặt logic, đúng thế, nhưng rồi lại hóa thành những vết thương rộng hoác ra.
Một mặt, hồ sơ khám nghiệm tử thi làm vững chắc giả thuyết đầu tiên của anh ta
rằng vụ giết Elizabeth Beck đã được dàn dựng để trông giống sản phẩm của
KillRoy. Nhưng bây giờ, nếu đó là sự thật, giả thuyết đó đang bị tách ra khỏi
mặt còn lại.

Anh ta cố
đi từng bước một. Trước tiên, tại sao Beck lại quá thiết tha muốn xem hồ sơ
này? Bề ngoài thì câu trả lời giờ đây rõ ràng. Bất cứ ai đọc kỹ những kết quả
này cũng nhận ra rằng có một khả năng cực lớn KillRoy không phải là kẻ giết
Elizabeth. Tuy nhiên, đó không phải thứ sẵn đúng. Kẻ giết người hàng loạt, mặc
cho những gì bạn có thể đọc, không phải là sinh vật của thói quen. KillRoy rất
có thể đã thay đổi cách thức hoạt động của hắn hoặc tìm kiếm sự đa dạng nào đó.
Thêm nữa, với những gì Carlson đọc được ở đây, có đủ thứ khiến người ta phải
cân nhắc.

Nhưng tất
cả những thứ này chỉ làm nảy sinh một câu hỏi lớn mà không ai trước đó chịu
giải đáp: Tại sao không một ai nhận thấy những bằng chứng này đầy mâu thuẫn vào
lúc đó?

Carlson
sắp xếp các khả năng. KillRoy chưa bao giờ bị khởi tố bởi tội giết Elizabeth
Beck. Lý do bây giờ khá rõ ràng rồi. Có lẽ các nhân viên điều tra đã nghi ngờ
sự thật. Có lẽ họ nhận ra trường hợp Elizabeth Beck không khớp, nhưng công bố
sự thật đó ra sẽ chỉ giúp cho việc biện hộ cho KillRoy. Vấn đề trong việc khởi
tố một tên giết người hàng loạt là bạn giăng một cái lưới quá rộng, thứ gì đó
sẽ bật lên bay tuột ra ngoài. Tất cả những gì bên biện hộ phải làm là lọc ra
một vụ, tìm ra những điểm không nhất quán, và bùm phát, những vụ khác bị hủy
hoại do có liên quan với nhau. Vì vậy không có thú tội, bạn khó mà xử hắn tất
cả các vụ án mạng cùng một lúc được. Bạn phải làm thế từng bước một. Các nhân
viên điều tra, nhận thức được điều này, có lẽ chỉ muốn vụ giết Elizabeth Beck
cứ thế trôi đi.

Nhưng
cũng có một số vấn đề với vụ đó nữa.

Cha và
chú Elizabeth Beck - hai người đàn ông thuộc lực lượng thi hành pháp luật - đã
nhìn thi thể. Họ rất có khả năng đã nhìn thấy bản khám nghiệm tử thi này. Chẳng
lẽ họ không thắc mắc về những sự bất nhất này ư? Chẳng lẽ họ để cho tên giết cô
ấy được tự do chỉ để đảm bảo việc kết án KillRoy? Carlson nghi ngờ chuyện đó.

Vậy
chuyện này sẽ dẫn anh đến đâu đây?

Anh ta
tiếp tục xem hồ sơ và vấp thêm phải một thứ điếng người nữa. Điều hòa trong xe
bây giờ thực sự làm anh ta rét run, thấu tận xương. Carlson hạ một cửa sổ xuống
và vặn chìa khóa tắt máy xe.

Phần trên
tờ giấy viết: Kết quả nhiễm độc. Theo những xét nghiệm, cocaine và heroin đã
được tìm thấy trong mạch máu Elizabeth Beck; ngoài ra có những dấu vết tìm thấy
trên tóc và ven, cho thấy cô đã dùng thuốc phiện khá thường xuyên.

Cái này
có khớp không? Carlson đang nghĩ thì điện thoại di động kêu. Anh ta bắt máy.
“Carlson đây.”

“Chúng ta
có cái này,” Stone nói.

Carlson
bỏ hồ sơ xuống. “Cái gì?”

“Beck.
Hắn đặt vé máy bay đi London từ sân bay JFK. Máy bay cất cánh trong hai giờ
nữa.”

“Tôi đang
trên đường tới đây.”

Tyrese
đặt một tay lên vai tôi khi chúng tôi bước đi. “Bọn chó cái,” anh nói không
biết bao nhiêu lần rồi. “Anh không thể tin tưởng chúng nó được.”

Tôi không
buồn đáp lại.

Thoạt
tiên tôi rất lấy làm ngạc nhiên khi Tyrese có thể lần ra được Helio Gonzalez
nhanh đến vậy, nhưng hệ thống đường phố cũng phát triển như mọi thứ khác. Hỏi
một tay bán hàng trắng ở Morgan Stanley để định vị một đối tác ở Goldman Sachs và
kết thúc chớp nhoáng. Yêu cầu tôi chuyển một bệnh nhân đến một bác sĩ bất kỳ
trong bang chỉ mất một cú điện thoại. Tại sao những kẻ phạm trọng tội trên
đường phố lại khác biệt?

Helio vừa
hết kỳ nghỉ bốn năm trong bóng tối vì cướp có vũ khí. Nó cũng trông đúng như
thế. Kính râm, khăn chụp đầu, áo phông trắng bên trong một sơ mi vải flannel
chỉ cài nút trên vì thế trông nó giống áo choàng không tay hay cánh dơi. Tay áo
được xắn lên, để hở ra những vết xăm thô bỉ khi ở tù được xăm lên cẳng tay và
những cơ bắp có được trong tù cuồn cuộn bên dưới. Những cơ bắp có được khi ở tù
này có vẻ bề ngoài không lẫn vào đâu được, bóng láng, như đá cẩm thạch khi đối
sánh với những đối tác của nó ở các câu lạc bộ thể hình.

Chúng tôi
ngồi khom người tại chỗ nào đó ở Queens. Tôi không thể nói cho bạn chính xác
chỗ nào được. Một điệu Latinh nện ầm ầm trong ngực tôi. Những phụ nữ tóc đen đi
thơ thẩn qua lại vận áo hai dây bó quá sát. Tyrese gật đầu với tôi. Tôi quay
sang Helio. Trên mặt nó có một nụ cười ngớ ngẩn. Tôi nhìn nó khắp lượt và một
từ cứ nhảy vào đầu tôi: đồ cặn bã. Đồ cặn bã không có cảm giác, cứng đầu. Bạn
nhìn và biết nó sẽ tiếp tục gây ra những hủy hoại nghiêm trọng chừng nào nó còn
sống. Vấn đề là nghiêm trọng đến mức nào. Tôi nhận ra cảnh này chẳng phải khoan
dung từ thiện gì. Tôi cũng nhận ra nó cũng chỉ dựa vào vẻ bề ngoài, cũng giống
hệt với Tyrese. Chuyện đó không quan trọng. Elizabeth có lẽ đã tin vào sự cứu
chuộc cho những kẻ bị đường phố làm tha hóa hay mất ý thức đạo đức. Tôi vẫn còn
đang vật lộn với nó.

“Vài năm
trước, cậu bị bắt vì đã giết Brandon Scope,” tôi bắt đầu. “Tôi biết cậu đã được
thả, và tôi không muốn gây cho cậu bất cứ rắc rối nào. Nhưng tôi cần biết sự
thật.”

Helio bỏ
kính râm xuống. Nó liếc nhìn Tyrese. “Mày mang một thằng cớm đến gặp tao?”

“Tôi
không phải cớm,” tôi nói. “Tôi là chồng Elizabeth Beck.”

Tôi muốn
một phản ứng. Tôi không nhận được gì cả. “Cô ấy là người đã cho cậu chứng cớ
ngoại phạm.”

“Tôi biết
cô ấy là ai.”

“Cô ấy có
ở cùng cậu tối hôm đó?”

Helio
nghĩ ngợi. “Có,” nó chậm chạp nói, mỉm cười với tôi để hở vài cái răng vàng.
“Cô ấy đã ở với tôi suốt đêm.”

“Cậu nói
dối,” tôi nói.

Helio
nhìn lại Tyrese. “Này, chuyện gì đây?”

“Tôi cần
biết sự thật,” tôi nói.

“Ông nghĩ
tôi giết thằng Scope?”

“Tôi biết
cậu không làm vậy.”

Điều đó
khiến nó ngạc nhiên.

“Chuyện
quái gì đang diễn ra ở đây thế?” nó nói.

“Tôi cần
cậu khẳng định một điều cho tôi.”

Helio
đợi.

“Cậu ở
cùng với vợ tôi tối hôm đó, có hay không?”

“Ông muốn
tôi nói gì, hả?”

“Sự
thật.”

“Và nếu
sự thật là cô ấy ở cùng tôi suốt đêm thì sao?”

“Đó không
phải sự thật,” tôi nói.

“Điều gì
khiến ông chắc chắn đến thế?”

Tyrese
xen vào. “Nói với người này điều mà anh ta muốn biết.”

Helio lại
suy nghĩ. “Đúng như cô ấy nói. Tôi làm cô ấy, được chưa? Xin lỗi ông, nhưng đó
chính là chuyện đã xảy ra. Bọn tôi làm chuyện đó suốt đêm.”

Tôi nhìn
Tyrese. “Để chúng tôi một mình trong một giây, okay?”

Tyrese
gật đầu. Anh đứng dậy đi lại chỗ xe. Anh dựa vào cửa bên, tay khoanh lại,
Brutus đứng cạnh. Tôi quay lại nhìn đăm đăm vào Helio.

“Cậu gặp
vợ tôi lần đầu tiên ở đâu?”

“Tại
trung tâm.”

“Cô ấy có
giúp cậu?”

Nó nhún
vai, nhưng không nhìn tôi.

“Cậu có
biết Brandon Scope không?”

Một tia
có lẽ là nỗi sợ hãi lướt qua mặt hắn. “Này, tôi đi đây.”

“Chỉ có
cậu và tôi, Helio. Cậu có thể lục soát tìm xem trong người tôi có máy ghi lén
nào không.”

“Ông muốn
tôi từ bỏ chứng cớ ngoại phạm của tôi?”

“Phải.”

“Tại sao
tôi lại làm như thế?”

“Bởi vì
có một kẻ đang giết tất cả những người có liên quan tới chuyện đã xảy ra với
Brandon Scope. Tối qua, bạn vợ tôi bị giết tại studio của cô ta. Chúng tóm tôi
hôm nay, nhưng Tyrese đã can thiệp. Chúng cũng muốn giết vợ tôi.”

“Tôi nghĩ
cô ấy chết rồi.”

“Chuyện
dài lắm, Helio ạ. Nhưng tất thảy đang quay trở lại. Nếu tôi không tìm ra chuyện
gì đã thực sự xảy ra, tất cả chúng ta cuối cùng sẽ chết sạch.”

Tôi không
biết đây là thật hay nói quá. Tôi chẳng quan tâm.

“Cậu ở
đâu đêm hôm đó?” tôi nhấn mạnh.

“Với cô
ấy.”

“Tôi có
thể chứng minh cậu không ở cùng cô ấy,” tôi nói.

“Cái gì?”

“Vợ tôi ở
thành phố Atlantic. Tôi có những ghi chép của cô ấy. Tôi có thể chứng minh được
điều đó. Tôi có thể thổi bay chứng cớ ngoại phạm của cậu, Helio ạ. Và tôi sẽ
làm đấy. Tôi biết cậu không giết Brandon Scope. Nhưng vì vậy hãy giúp tôi, tôi
sẽ để họ xử cậu vì tội đó nếu cậu không nói cho tôi biết sự thật.”

Bịp bợm.
Một lời bịp bợm hết cỡ. Nhưng tôi có thể thấy nó vận hành tốt.

“Nói cho
tôi nghe sự thật, và cậu được tự do,” tôi nói.

“Tôi
không giết cái gã đó, tôi thề mà, ông.”

“Tôi
biết,” tôi lại nói.

Nó nghĩ
ngợi. “Tôi không biết tại sao cô ấy làm thế, được chưa?”

Tôi gật
đầu, cố để nó tiếp tục nói.

“Tôi ăn
trộm một nhà ở dưới Fort Lee đêm đó. Vì vậy tôi không có chứng cớ ngoại phạm.
Tôi nghĩ tôi chết chắc rồi. Cô ấy cứu cái mạng tôi.”

“Cậu có
hỏi cô ấy tại sao không?”

Nó lắc
đầu. “Tôi chỉ làm theo. Luật sư của tôi nói với tôi những gì cô ấy nói. Tôi
khẳng định theo cô ấy. Điều tiếp theo tôi biết, tôi được ra ngoài.”

“Cậu có
bao giờ gặp vợ tôi lần nữa không?”

“Không.”
Nó ngước nhìn tôi. “Làm thế nào ông chắc chắn đến vậy rằng vợ ông không làm
tôi?”

“Tôi biết
vợ tôi.”

Nó mỉm
cười. “Ông nghĩ cô ấy chưa bao giờ ngoại tình?”

Tôi không
đáp lại.

Helio
đứng dậy. “Bảo với Tyrese nó nợ tôi một lần.”

Nó cười
tủm tỉm, quay mặt, rồi bước đi.

34

Không hành lý. Vé điện tử để cô có thể check in bằng máy chứ không phải người. Cô
đợi trong phòng đón khách lân cận, cố dán mắt vào màn hình chỉ giờ bay, đợi
dòng On time hiện lên bên cạnh chuyến bay của cô chuyển sang Boarding.

Cô ngồi
trong ghế nhựa cong ba chiều và nhìn ra đường nhựa. Một TV om sòm chương trình
CNN. “Tiếp theo là Những thông tin chính trong mục Thể thao.” Cô để cho đầu óc
trống rỗng. Năm năm trước, cô đã sống trong một ngôi nhà nhỏ gần Goa, Ấn Độ.
Mặc dù thực sự là đáy của địa ngục, ngôi làng vẫn nhộn nhịp bởi vì có một bậc
thầy yoga trăm tuổi sống ở đó. Cô trải qua một khoảng thời gian với ông thầy
yoga này. Ông đã cố dạy cô kỹ thuật thiền, pranayma, tinh tẩy trí óc. Nhưng
không một cái nào từng thực sự đọng lại. Có những khoảnh khắc cô đã có thể chìm
vào trạng thái đầu óc trống rỗng. Tuy nhiên, thường xuyên hơn, mỗi khi cô chìm,
Beck ở đó.

Cô băn
khoăn về bước đi tiếp theo. Thực sự không có lựa chọn nào cả. Đây là gìn giữ.
Gìn giữ nghĩa là chạy trốn. Cô đã làm mọi thứ xáo trộn hết cả lên và giờ đây cô
lại bỏ chạy, để công việc dọn dẹp lại cho người khác. Nhưng còn có lựa chọn nào
khác không? Bọn chúng truy đuổi cô. Cô đã cẩn thận khủng khiếp, nhưng bọn chúng
vẫn theo dõi. Tám năm sau.

Một đứa
trẻ mới biết đi trườn về phía cửa sổ kính mỏng, lòng bàn tay đập vào kính với
tiếng bộp rất sung sướng. Ông bố vội vã đuổi theo và cười khúc khích bế nó lên.
Cô nhìn và trí óc cô trườn đến những-thứ-đáng-lẽ-đã-có-thể một cách rõ ràng.
Một đôi vợ chồng già ngồi bên phải cô, chuyện trò rất đáng yêu những chuyện vơ
vẩn. Khi còn mười mấy tuổi, cô và Beck ngắm ông và bà Steinberg tản bộ trên
Downing Place tay trong tay, không bỏ lỡ một tối nào, rất lâu sau khi con cái
họ đã trưởng thành và bay ra khỏi tổ ấm. Cuộc sống của họ cũng sẽ giống thế,
Beck đã hứa. Bà Steinberg mất ở tuổi tám hai. Ông Steinberg, vốn tráng kiện một
cách đáng kinh ngạc, theo bà bốn tháng sau. Người ta bảo chuyện đó xảy ra rất
nhiều với người già, rằng - diễn giải Springsteen nhé - hai trái tim hòa làm
một. Khi một chết, trái tim còn lại đi theo. Cô với David có phải sẽ như vậy
không? Họ đã không ở được bên nhau sáu mươi mốt năm như ông bà Steinberg, nhưng
khi bạn nghĩ về chuyện đó với những thời kỳ mang tính chất tương đối, khi bạn
tính toán rằng bạn hầu như đâu có ký ức gì trước năm tuổi, khi bạn biết rằng cô
và Beck đã không rời nhau từ khi họ lên bảy, rằng họ khó mà tìm ra được bất kỳ
kỷ niệm nào mà không có người kia, khi bạn nghĩ đến khoảng thời gian ở bên nhau
không chỉ theo thời kỳ năm mà là phần trăm trong cuộc đời, họ đã thuộc về nhau
thậm chí còn nhiều hơn cả ông bà Steinberg.

Cô quay
đi và nhìn màn hình. Bên cạnh chuyến bay British Airways số 174, từ Boarding
bắt đầu nhấp nháy.

Chuyến
bay của cô đã bị hủy.

Carlson
và Stone, cùng với hai anh bạn thân địa phương Dimonte và Krinsky, đứng với
viên quản lý vé đặt trước của British Airways.

“Anh ta
có vé nhưng không tới đây,” viên quản lý, một phụ nữ mặc đồng phục xanh và
trắng có quàng khăn quanh cổ, một giọng tuyệt hay, và một cái bảng tên đề Emily
nói với họ.

Dimonte
chửi rủa. Krinsky nhún vai. Việc này nằm ngoài dự kiến. Beck đã né tránh tuyệt
đối thành công những kẻ săn lùng trong cả ngày hôm nay. Anh ta không ngu đến
nỗi cố dùng tên thật lên máy bay.

“Ngõ
cụt,” Dimonte nói.

Carlson,
vẫn cầm hồ sơ khám nghiệm tử thi bên hông, hỏi Emily, “Nhân viên thành thạo máy
tính nhất của cô là ai?”

“Chính là
tôi,” cô nói với một nụ cười đẹp chuẩn.

“Xin mang
danh sách đặt trước đến,” Carlson nói.

Emily làm
như anh ta yêu cầu.

“Cô có
thể cho tôi biết anh ta đặt vé khi nào không?”

“Ba ngày
trước.”

Dimonte
bập ngay vào. “Beck đã lên kế hoạch chạy trốn. Thằng chó đẻ.”

Carlson
lắc đầu. “Không phải.”

“Làm thế
nào anh cho rằng không phải?”

“Chúng ta
đã giả thuyết anh ta giết Rebecca Schayes để bịt miệng cô ta,” Carlson giải
thích. “Nhưng nếu anh chuẩn bị đi khỏi đất nước này, sao lại còn lo chuyện đó?
Tại sao lại mạo hiểm đợi ba ngày và cố trốn đi cùng một vụ án mạng nữa?”

Stone lắc
đầu. “Chuyện này anh nghĩ tỉ mỉ quá mức rồi, Nick ạ.”

“Chúng ta
đang để lỡ điều gì đó,” Carlson khăng khăng. “Tại sao đột nhiên anh ta lại
quyết định chạy trốn đầu tiên?”

“Bởi vì
chúng ta truy đuổi anh ta.”

“Ba ngày
trước chúng ta chưa truy đuổi anh ta.”

“Có thể
anh ta biết đó chỉ là vấn đề thời gian.”

Carlson
càng nhíu mày tợn.

Dimonte
quay sang Krinsky. “Thế này chỉ phí thời gian. Hãy biến khỏi đây đi.” Anh ta
nhìn Carlson. “Chúng ta sẽ để lại vài người ở đây để phòng khi.”

Carlson
gật đầu, chỉ nghe nửa vời. Khi họ đi, anh ta hỏi Emily, “Anh ta có đi cùng ai
không?”

Emily
nhấn một vài phím. “Vé đặt đơn.”

“Anh ta
đặt nó bằng cách nào? Đến trực tiếp? Qua điện thoại? Hay qua hãng du lịch?”

Cô lại
nhấn một vài phím. “Không phải thông qua hãng du lịch. Tôi có thể nói chắc chắn
với anh thế bởi chúng tôi có đánh dấu để trả tiền hoa hồng. Vé được đặt trực
tiếp với British Airways.”

Không ích
gì ở điểm này. “Anh ta thanh toán bằng cách nào?”

“Thẻ tín
dụng.”

“Cho tôi số
được không?”

Cô đưa số
cho anh ta. Anh ta đưa cho Stone. Stone lắc đầu. “Không phải một trong những
cái thẻ của anh ta. Ít nhất, không phải cái chúng ta biết.”

“Kiểm tra
đi,” Carlson nói.

Điện
thoại di động của Stone đã sẵn trong tay. Anh ta gật đầu và nhấn số.

Carlson
xoa xoa cằm. “Cô nói anh ta đặt vé cách đây ba ngày.”

“Đúng.”

“Cô có
biết thời gian anh ta đặt vé không?”

“Thực tế
là có. Máy tính có ghi lại. Sáu giờ mười bốn phút chiều.”

Carlson
gật đầu. “Được rồi, tuyệt lắm. Cô có thể cho tôi biết có ai khác cũng đặt vé
vào cùng quãng thời gian đó không?”

Emily
nghĩ. “Tôi chưa bao giờ thử làm thế,” cô nói. “Đợi một chút, để tôi xem cái
này.” Cô gõ. Cô đợi. Cô gõ thêm. Cô đợi. “Máy tính không sắp xếp theo ngày đặt
vé.”

“Nhưng
thông tin có trong đó?”

“Có. Đợi,
khoan đã.” Ngón tay cô lại bắt đầu lách cách. “Tôi có thể dán thông tin lên một
cái bảng. Chúng ta cho năm mươi lăm vé đặt trên mỗi trang. Như thế sẽ nhanh
hơn.”

Nhóm năm
mươi lăm đầu tiên có một cặp vợ chồng đặt vé cùng ngày nhưng sớm hơn vài giờ. Vô
dụng. Nhóm thứ hai không có. Tuy nhiên, trong nhóm thứ ba, họ tìm được.

“Lisa
Sherman,” Emily tuyên bố. “Chuyến bay của cô này được đặt cùng ngày, tám phút
sau.”

Riêng
điều đó chẳng có ý nghĩa gì, dĩ nhiên, nhưng Carlson cảm thấy tóc gáy mình dựng
đứng lên.

“Ồ, cái
này thú vị đây,” Emily nói thêm.

“Cái gì?”

“Chỗ cô
ấy ngồi.”

“Nó làm
sao?”

“Cô ta
được dự kiến ngồi cạnh David Beck. Hàng mười sáu, ghế E và F.”

Anh ta
thấy điếng người. “Cô ta check in chưa?”

Gõ thêm.
Màn hình trống trơn. Một cái khác xuất hiện. “Trên thực tế, cô ta đã. Cô ta có
lẽ đang lên máy bay khi chúng ta nói chuyện.”

Cô chỉnh
lại đai túi và đứng. Chân bước nhanh, đầu ngẩng cao. Cô vẫn đeo kính, tóc giả
và hàm giả. Cũng có một tấm ảnh của Lisa Sherman trong hộ chiếu.

Cô đến
cổng thứ tư thì nghe thấy một mẩu tin ngắn trên bản tin CNN. Cô dừng lại một
chút. Một người đàn ông kéo một túi hành lý to uỳnh đâm sầm vào cô. Ông ta làm
một cử chỉ bằng tay khiếm nhã như thể cô ngáng đường tự do của ông ta. Cô lờ đi
và tiếp tục nhìn lên màn hình.

Phát
thanh viên đang đọc bản tin. Ở góc phải màn hình là ảnh bạn cũ Rebecca Schayes đặt
sát bên một tấm ảnh của... của Beck.

Cô vội
lại gần màn hình hơn. Dưới hai tấm ảnh là những chữ phông màu đỏ máu Chết
trong phòng tối
.

“...
David Beck, bị tình nghi là thủ phạm. Nhưng đây có phải là tội ác duy nhất mà
người ta tin hắn từng phạm? Jack Turner của kênh CNN tiếp tục thông tin.”

Cô phát
thanh viên biến mất. Thay vào chỗ cô ta, hai người đàn ông mặc áo khoác Sở cảnh
sát thành phố New York kéo chiếc túi đựng thi thể màu đen trên cáng. Cô nhận ra
khu nhà ngay lập tức và gần như há hốc mồm. Tám năm. Tám năm đã trôi qua, nhưng
studio của Rebecca vẫn ở nguyên chỗ cũ.

Một giọng
đàn ông, đoán chừng là của Jack Turner, bắt đầu đọc bản tin của ông ta: “Đây là
một câu chuyện phức tạp, vụ án mạng của một trong những nhiếp ảnh gia thời
trang hot nhất New York. Rebecca Schayes được tìm thấy chết trong phòng tối, bị
bắn hai phát vào đầu ở cự ly gần.” Họ phát một tấm ảnh Rebecca cười rạng rỡ.
“Đối tượng tình nghi là người bạn lâu niên của cô, bác sĩ David Beck, một bác
sĩ nhi giàu có.” Giờ là ảnh Beck, không mỉm cười, chạy trên màn hình. Cô suýt
ngã ngửa.

“Bác sĩ
Beck đã vừa trốn thoát khỏi vụ bắt sáng nay sau khi tấn công một nhân viên cảnh
sát. Hắn vẫn còn đang tự do và được cho rằng có vũ khí và rất nguy hiểm. Nếu
bạn có bất cứ thông tin nào liên quan đến việc hắn ở đâu...” Một số điện thoại
màu vàng xuất hiện. Jack Turner đọc to số điện thoại rồi tiếp tục nói.

“Nhưng
cái khiến cho câu chuyện thêm phần phức tạp là những thông tin rò rỉ ra từ Tòa
nhà Liên bang tại Manhattan. Có thể đoán chừng, bác sĩ Beck đã bị nghi ngờ có
liên quan tới vụ giết hai người đàn ông mà thi thể vừa được phát hiện ra tại
Pennsylvania, cách khu nghỉ hè của gia đình bác sĩ Beck không xa lắm. Và điều
ngạc nhiên hơn hết thảy: bác sĩ David Beck cũng là đối tượng tình nghi trong vụ
giết vợ hắn tám năm trước, Elizabeth.”

Ảnh một
người phụ nữ cô gần như không nhận ra xuất hiện. Đột nhiên cô thấy mình như
trần truồng, bị dồn vào góc. Ảnh cô biến mất khi họ quay lại với cô phát thanh
viên, “Jack, chẳng phải chúng ta đã tin rằng EIizabeth Beck là nạn nhân của tên
giết người hàng loạt Elroy ‘KillRoy’ Kellerton?”

“Đúng
vậy, Terese. Giới cảnh sát hiện không phát biểu gì nhiều lắm, và các nhân viên
từ chối cung cấp báo cáo. Nhưng thông tin rò rỉ đến với chúng tôi từ những
nguồn đáng tin cậy.”

“Cảnh sát
có động cơ, Jack?”

“Chúng
tôi vẫn chưa nghe thấy chuyện đó. Có tin đồn nào đó cho rằng đây có thể là mối
tình tay ba. Cô Schayes đã kết hôn với một người tên là Gary Lamont, người hiện
vẫn giữ kín thông tin. Nhưng đó chỉ là phỏng đoán cho đến thời điểm này.”

Vẫn nhìn
đăm đăm vào màn hình TV, cô cảm thấy nước mắt bắt đầu trào lên.

“Và bác
sĩ Beck vẫn còn được tự do tối nay?”

“Phải,
Terese. Cảnh sát đang yêu cầu sự phối hợp của dân chúng, nhưng họ nhấn mạnh
không ai được một thân một mình tiếp cận với hắn.”

Huyên
thuyên sau đó. Những lời huyên thuyên vô nghĩa.

Cô quay
đi. Rebecca. Ôi Chúa ơi, không phải Rebecca. Và bạn ấy đã kết hôn. Chắc hẳn đã
chọn váy cưới và những hoa văn trên sứ và làm tất cả những thứ mà họ từng chế
giễu. Làm thế nào? Làm thế nào mà Rebecca lại vướng vào tất cả cái mớ bòng bong
này? Rebecca không biết gì cả cơ mà.

Tại sao
chúng giết bạn ấy?

Rồi ý
nghĩ đó lại đập vào cô một lần nữa: Mình đã làm cái gì?

Cô đã
quay lại. Chúng đã bắt đầu tìm kiếm cô. Làm thế nào chúng làm được như thế? Đơn
giản. Theo dõi những người mà cô thân thiết. Ngu ngốc. Việc cô quay trở lại sẽ
khiến cho tất cả những người cô quan tâm bị nguy hiểm. Cô đã làm mọi thứ rối
tung lên. Và bây giờ bạn cô đã chết.

“Chuyến
bay 174 của hãng hàng không British Airways khởi hành đi London. Tất cả các
hành khách bây giờ có thể lên máy bay.”

Không có
thời gian để đổ tội cho bản thân nữa. Nghĩ. Cô phải làm gì? Những người cô yêu
thương đang gặp nguy hiểm. Beck - cô đột nhiên nhớ đến cách cải trang ngớ ngẩn
của anh - đang chạy trốn. Anh đang chống lại những kẻ có quyền lực. Nếu chúng
cố dàn xếp để buộc anh tội giết người - và điều đó giờ phút này là tương đối rõ
như ban ngày rồi - anh sẽ không có cơ hội nào cả.

Cô không
thể chỉ bỏ đi như thế. Chưa đến lúc. Cho đến khi cô biết Beck được an toàn.

Cô quay
lại và hướng về phía lối ra.

Khi cuối
cùng nhìn thấy những bản tin truy nã David Beck, Peter Flannery cầm điện thoại
lên gọi một người bạn ở văn phòng công tố.

“Ai đảm
trách vụ Beck?” Flannery hỏi.

“Fein.”

Một thằng
khốn kiếp thực thụ, Flannery nghĩ. “Tôi đã gặp cậu bé của anh hôm nay.”

“David
Beck?”

“Phải,”
Flannery nói. “Anh ta đến gặp tôi.”

“Tại
sao?”

Flannery
đẩy cái ghế BarcaLounger ngửa ra sau. “Có lẽ anh nên nối máy cho tôi nói chuyện
với Fein.”

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3