Không khoan nhượng - Chương 048 - 049 - 050 - 051
Chương 48
CHƯƠNG TRÌNH TÌNH BÁO SARGASSO
KHU NGHỈ MÁT NÚI ELK
MONTROSE, COLORADO
Harvath gác máy trong nỗi ngờ vực cay đắng. Anh không hề biết tổng thống nói chuyện với ai trong khi bắt anh phải giữ máy chờ nhưng khi Ruth Ledge trở lại đường dây của anh, ông bực bội khủng khiếp và cuộc nói chuyện của họ trở nên tồi tệ.
Tổng thống nói trắng với anh là anh phải hoàn toàn đứng ngoài cuộc điều tra và khi Harvath từ chối ông ta nói rằng, ông ta không còn lựa chọn nào và phải bắt anh vì tội phản quốc.
Phản quốc? Harvath bị sốc. Tại sao nỗ lực cứu mạng những người quan trọng với anh, những người là người Mỹ lại có thể là một hành động phản quốc được?
Tổng thống cho anh hai mươi tư tiếng để trở về Washington và tự đến. “Và nếu tôi không” Harvath đã hỏi thế.
“Vậy thì tôi không thể và sẽ không chịu trách nhiệm về sự tồn tại của anh”, Ruth Ledge đã trởi lời như vậy.
Thế đấy. Ba quân cờ đã ở trên bàn và lúc này Harvath biết rõ anh đang đứng chỗ nào.
Anh kết thúc cuộc nói chuyện với Tổng thống bằng câu nói, “Tôi nghĩ, mỗi chúng ta phải làm theo những gì mà chúng ta cảm thấy đúng thôi”. Và anh gác máy. Đó là khoảnh khắc mà Harvath chưa từng lường trước. Tổng thống của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã đe dọa mạng sống của anh. Thật không thể giải thích nỗi – cũng như không thể giải thích nổi việc anh bị gắn cho cái mác là một tên phản quốc.
Harvath thoáng nghĩ, liệu đó có phải là cơn ác mộng hay không nhưng tình hình này lại là một thực tế cay đắng nhiều hơn.
Bây giờ, lập trường của anh rất rõ ràng. Sau nhiều năm phục vụ không tiếc fnh cho đất nước anh lại bị người ta vứt đi. Trình độ chuyên môn của anh, bảng thành tích trước đây của anh, thậm chí, cả lòng trung thành của anh, chẳng khác gì những mục trên tờ thanh toán để người ta cân, đong, đo đếm và vứt đi tùy thích.
Mặc dù muốn, nhưng anh cũng không thể mang bán thân mình đến chỗ tổng thống; không phải bây giờ. Không phải vì sau khi đã được tổng thống tin tưởng nhiều lần trong quá khứ. Harvath cũng chưa từng phản bội lại lòng tin ấy. Lòng trung thành và thận trọng của anh quả là trên cả hoàn hảo nhưng rõ ràng tất cả những thứ ấy chẳng có ý nghĩa mấy nếu không muốn nói là chẳng còn chút ý nghĩa nào đối với Jack Ruth Ledge.
Harvath có cảm giác mình bị phụ bạc và bỏ rơi. Thực ra, tổng thống đã chọn bọn khủng bố chứ không phải anh. Quả là kỳ lạ.
Cứ cho là có thể như vậy, nhưng Harvath vẫn không cảm thấy vô vọng. Tổng thống có thể đe dọa bắt giữa anh vì tội phản quốc hoặc tệ hơn nhưng lời đe dọa ấy chỉ có trọng lượng nếu anh bị bắt. Và với thời hạn hai mươi tư giờ ấy có thể hiểu được việc cuối cùng anh định làm.
Nhìn xuống tập tài liệu đã để trên bàn của Tom Morgan, anh lấy ra những thông tin gần đây nhất mà anh có trước khi rời khỏi phòng họp.
Nghiên cứu danh sách các bí danh của những tên tù nhân đã được thả, anh để ý đến một cái tên anh đã từng biết trước đây nhưng nó thuộc về một người anh đã từng giết và từng chứng kiến cái chết của hắn ta. Hắn không thể nào còn sống được. Phát hiện đó chỉ có thể có nghĩa: Một kẻ nào đó đang dùng bí danh đó của hắn.
Chương 49
Ba mươi tiếng sau, Harvath hỏi qua tai nghe. “Ông có lạc quan không?”.
“Có”, gã Lùn trả lời. Gã nhìn qua thông tin đó một lần. “Abdel Salam Najib là một nhân viên tình báo Syria, hắn được cho là đã dùng bí danh Abdel Rafiq Suleiman”. Najib là cái tên thứ ba trong danh sách và bí danh Suleiman vốn thuộc về một người Harvath từng giết. “Thế còn Tammam Altal?” anh hỏi.
“Cũng là tình báo của Syria và người quản lý của Najib. Đó là mối liên hệ anh đang tìm kiếm phải không?” gã Lùn hỏi.
“Có thể”, Harvath nói, anh không muốn để gã Lùn biết gì. “Tôi không muốn ông chuyển cho tôi mọi thứ liên quan đến cả Najib và Al-tal người quản lý của hắn”.
“Tôi gửi ngay đây”.
Harvath tắt máy, tháo tai nghe và quay mặt về phía các đồng nghiệp của anh.
“Anh muốn giải thích cho tôi chuyện này chứ?” Finney vừa xoắn tay ra phía sau, vừa nhìn Harvath và hỏi.
“Vào ngày 23 tháng 10 năm 1983, một chiếc xe tải đưa thư báo màu vàng Mercedes Benz chứa thuốc nổ đã được lái tới Sân bay quốc tế Beirut.
Tiểu đoàn 1, Binh chủng Lính thủy đánh bộ số 8, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến số 2 đã thiết lập trụ sở ở đó với tư cách là một phần của một lực lượng gìn giữ hòa bình đa quốc gia được cử đến để giám sát việc PLO (1). “Người lái chiếc xe tải đi quanh chỗ đỗ xe ngay bên ngoài khu Lính thủy đánh bộ rồi bước đến chỗ chứa gas. Hắn lao qua hàng rào dây thép gai bao quanh khu đỗ xe, bay vào giữa hai trạm lính gác, xuyên qua một cái cổng và đâm vào hành lang của khu nhà”.
(1. PLO: Tổ chức giải phóng Palestine rút quân khỏi Lebanon.)
“Sao bọn lính gác không bắn gã ngốc này?” Finney hỏi.
“Họ không được phép dùng đạn thật”, Parker trả lời. Hôm đó ông đã mất một người bạn thân. “Các chính trị gia lo ngại xả súng vô tình có thể giết chết dân thường”.
Khi Parker không nói thêm gì nữa, Harvath tiếp tục: “Theo lời một Lính thủy đánh bộ sống sót trong vụ tấn công, tên lái xe này đã mỉm cười khi hắn lái chiếc xe tải vào tòa nhà”.
“Khi bắn cho nổ, sức nổ tương đương với trên sáu nghìn cân thuốc nổ TNT. Phải mất nhiều ngày cứu hộ và đội cứu hộ liên tục gặp phải làn đạn của những tay bắn tỉa. Cuối cùng, 220 lính thủy đánh bộ, mười tám nhân viên hải quân và ba quân nhân đã bị giết. Sáu mươi người Mỹ khác bị thương. Đó là số lượng Lính thủy đánh bộ bị giết lớn nhất chỉ trong một ngày kể từ Chiến tranh Thế giới thứ Hai và cuộc chiến của Iwo Jimo. Đó cũng là cuộc tấn công gây chết người nhiều nhất đối với các lực lượng của Mỹ ở nước ngoài trong giai đoạn Hậu Chiến tranh Thế giới thứ II nhưng điều thú vị nhất xét từ quan điểm chống khủng bố là cuộc tấn công vào khu Thủy quân Lục chiến là cuộc đánh bom chết người thực sự đầu tiên trong lịch sử.”
Finney không nói nên lời. Ông đã quen với những cuộc tấn công trong lịch sử, nhưng không phải với những chi tiết thực tế khủng khiếp thế này.
“Chúng ta không bao giờ biết chính xác là ai chịu trách nhiệm về việc này vì vậy ngoài một vài quả đạn chúng ta đã bắn ở Syria, chẳng bao giờ có câu trả lời chính xác” Harvath khẳng định. “Bây giờ, nhanh chóng tìm hiểu về giai đoạn cách đây năm năm và một người đàn ông tên là Asef Khashan”.
“Khashan cực kỳ giỏi về chiến tranh du kích và cách sử dụng chất nổ do đã được đào tạo tình báo ở Syria”.
“Hắn là một tên trong lực lượng tiên phong thuộc tổ chức khủng bố Hezbollah ở Lebanon và chỉ phải báo cáo trực tiếp lên Damacus. Khi Mỹ phát hiện ra thông tin hắn có liên quan trực tiếp đến khâu lập kế hoạch và bày ra cuộc đánh bom năm 1983, họ quyết định đã đến lúc phải cho hắn về hưu non”.
Parker nhìn Harvath và nói, “Và anh đã được cử tới để giết hắn”.
Harvath gật đầu.
Finney giơ tay gỡ cái bút giắt ở sau tai. Chỉ vào màn hình ở phía trước căn phòng ông nói, “Có nghĩa là Najib này đã theo anh sau những gì anh làm với Khashan?”
“Nếu tôi không nhầm”, Harvath nói, “Thì đại loại là như vậy”.
“Anh nói đại loại là ý gì?”.
“Mối liên hệ thực tế giữa Najib và Khashan là qua người quản lý của chúng, Tammam Al-Tal. Khashan là một trong những mật vụ giỏi nhất của hắn. Một số người nói với Al-Tal hắn giống như một đứa con trai. Khi Khashan bị giết Al-Tal đã treo thưởng cái đầu tôi”.
“Nếu đây là một chiến dịch ngầm làm sao hắn biết là anh có liên quan?”.
“Chúng tôi đã sử dụng một sỹ quan quân đội Syria mà người Mỹ trả lương để giúp theo dõi Khashan”, Harvath trả lời. “Tôi không bao giờ cho hắn biết tên thật của tôi, nhưng hắn có một bộ hồ sơ về tôi kèm theo ảnh theo dõi và một số thông tin khác từ các cuộc họp của chúng ta. Không lâu sau hắn bị kết tội tham ô và hắn đã dùng hồ sơ này làm tấm thẻ để giảm tội. Cuối cùng, hồ sơ này rơi vào tay Al-Tal và hắn ta dùng toàn bộ nguồn tin hắn có để so sánh với những tấm ảnh của tôi. Kết cục là như vậy”.
“Al-Tal có liên quan gì đến cuộc tấn công không?” Parker hỏi.
“Chúng ta không bao giờ có thể phát hiện ra đủ chứng cứ để chứng minh liệu hắn có liên quan trực tiếp hay không. Tuy nhiên, có cả đống bằng chứng về việc Al-Tal giúp hợp tác bán vũ khí giết người hàng loạt mà Saddam Hussein cất giấu ở đất nước chúng ngay trước khi chúng ta xâm chiếm”.
“Hắn treo thưởng anh bao nhiêu?”.
“Đâu đó khoảng 150.000 đô la Mỹ”, Harvath trả lời. “Đó là số tiền tiết kiệm cả đời của Al-Tal và vì hắn sẵn sàng chi khoản tiền tiết kiệm cả đời nói trên vào việc thuê người hại tôi nên Washington đã loại trừ Syria và Lebanon ra khỏi phạm vi hoạt động của tôi”.
“Có vẻ như chúng ta đã có quá đủ lý do để tin rằng Al-Tal chính là kẻ đứng sau những vụ tấn công vào Tracy, mẹ anh và đội trượt tuyết”, Finney nói. “Anh có biết hắn ở đâu không?’.
“Hắn đang điều trị ung thư phổi giai đoạn bốn ở Jordan”.
“Cái chết cận kề”, Parker khẳng định, “Có lẽ hắn càng quyết tâm muốn loại trừ anh”.
Harvath gật đầu như thể muốn nói, Có thể.
“Vậy những bí danh của Najib có liên quan gì tới Al-Tal?”.
Harvath nhìn sang Parker. “Abdel Rafiq Suleiman vốn là bí danh mà Khashan sử dụng khi tôi đuổi theo hắn tới một căn nhà an toàn của Hezbollah ở ngoại ô Breiut”.
“Rồi sao?”.
“Al-Tal cho Khashan bí danh đó”.
“Việc sử dụng lại bí danh không có gì là lạ”, Morgan lên tiếng.
“Trong một số trường hợp phải mất rất nhiều thời gian và tiền bạc để xây dựng đấy. Nếu một điệp viên quý giá có hồ sơ không quá cao, một cơ quan hoặc người quản lý nào đó có thể quyết định chuyển bí danh đó cho một điệp viên khách”.
Lúc ấy, Harvath biết chính xác anh sẽ hạ Abdel Salam Najib thế nào. Anh sẽ khiến người quản lý của hắn phải cho hắn lên bàn thờ.
Chương 50
BALTIMORE, MARYLAND
Mark Sheppard trở về nhà với ý tưởng về một quả bom thực sự. Mac Mangan, người chỉ huy của đội SWAT hạt Charleston hóa ra lại là một nguồn tin tốt hơn anh tưởng rất nhiều.
Mặc dù Mangan đã yêu cầu nói chuyện sau khi tắt máy ghi âm nhưng Sheppard biết chẳng có chuyện gì đáng nói. Anh đã mất cả buổi chiều nhưng cuối cùng cũng có thể khiến vị chỉ huy này đồng ý trích lời như một nguồn tin không được tiết lộ danh tính.
Vụ bắn súng đó có gì đó rất không ổn và Mangan không muốn làm cho nó phức tạp thêm nữa. Thực tế là có một phóng viên của tờ Baltimore Sun đã lặn lội tới tận Charleston để nói chuyện với ông ta khiến ông ta hiểu ra rằng cần phải bắt đầu điều tra lại mọi thứ.
Sheppard lắng nghe ông kể lại chi tiết các sự việc xung quanh. Cứ cho là có sự phối hợp với FBI ở Washington. Nhưng không hề có một nhân viên nào thuộc văn phòng của FBI tại Columbia, Nam Caroline dính dáng vào việc này. Hai điệp vụ tới làm việc với đội SWAT giải thích rằng văn phòng Columbia đang đóng cửa. Có một mối lo ngại rằng việc họ bỏ trốn có liên quan tới người bên trong và trong khi chờ đợim ột cuộc thanh tra nội bộ bên thực thi luật pháp Charleston phải để yên cho Văn phòng này tham gia vào việc giải quyết vụ này.
Sheppard đã đề nghị Mangan miêu tả hai điệp vụ FBI với thông tin dẫn đến địa điểm của đối tượng. Đó cũng chính là hai gã mà Tom Gosse nhìn thấy lấy cái xác ở Baltimore và cũng chính là kẻ đe dọa Frank Aposhian. Vị chỉ huy đội SWAT đã miêu tả chúng chính xác, chính xác tới cả tên chúng đang sử dụng – Stan Weston và Joe Maxwell.
Những “điệp vụ” này rất có ức thuyết phục. Họ rất lịch sự, chuyên nghiệp và có giấy ủy nghiệm hẳn hoi. Còn nữa họ đến để tóm một tên tội phạm đã đe dọa mạng sống của nhiều trẻ em và là kẻ mà cả bang đang nóng lòng muốn đưa ra xét xử trước công lý.
Mangan và đội SWAT hạt Charleston của ông đã được báo có mặt, nhưng lại bị đẩy ra làm vỏ bọc để được Weston và Maxwell làm việc. Hai gã này nói rằng chúng muốn nói chuyện với kẻ tình nghi nhằm tóm sống hắn. Ngay sau khi chúng vào ngôi nhà, những cuộc đọ súng căng thẳng bùng lên. Khói súng chưa kịp tan hết, Maxwell đã hiện ra ở cửa thông báo cho Mangan và người của ông biết rằng kẻ tình nghi đã bị giết và rằng họ cần một cái xe chở xác.
Là một nhân viên chiến thuật hàng đầu tại hiện trường, Mangan tiếp cận ngôi nhà để khảo sát hiện trường để làm báo cáo sau khi tác nghiệp. Weston gặp ông ở thềm cửa của ngôi nhà và chặn đứng lối vào. Hắn khẳng định rằng đồng nghiệp của hắn cần tập hợp bằng chứng và rằng chừng nào chúng chưa xong việc, càng ít người tới làm hỏng hiện trường vụ án càng tốt. Mangan không thích điều này. Những gã này hơi bị bảo vệ quá mức cần thiết và Maxwell tới cửa rồi nói với Weston là cho phép vị chỉ huy của đội SWAT vào trong.
Trước hết, ông muốn nhìn cái xác. Nó đang ở trong phòng ngủ phía sau nhà, trong tay vẫn khư khư khẩu súng máy và một khẩu súng ngắn đã cưa nòng đang nằm lăn lóc trên sàn ngay cạnh hắn. Khi Mangan nghiên cứu cái xác có điều gì đó khiến ông thấy buồn cười. Mặc dù bị rất nhiều vết đạn vào người nhưng kẻ tình nghi lại không hề bị chảy máu nhiều.
Khi Mangan cúi xuống để nhìn cho rõ hơn, điệp vụ Weston chặn ngay và nói anh ta muốn ông giúp đỡ để anh ta tiếp tục công việc. Mặc dù thâm tâm đang mách bảo ông rằng ông có đầy đủ quyền để khám nghiệm cái xác nhưng Mangan vẫn làm như người ta bảo ông.
Lát sau, điệp vụ Maxwell nhẹ nhàng móc vào dưới khuỷu tay ông và đưa ông ra phía trước ngôi nhà. Vừa đi, Maxwell vừa giải thích rằng FBI đã quyết định cho phép đội SWAT hạt Charleston xem xét chi tiết vụ việc. Đây là vấn đề của địa phương và các công dân của Nam Carolina sẽ cảm thấy dễ chịu hơn khi biết chính người của họ đã vứt túi rác này đi.
Mặc dù những người của ông sẽ thấy ổn nhưng với Mangan thì vẫn có gì đó không ổn – đặc biệt là cái xác. Ông đã có đủ thời gian để nhận ra rằng chỉ có người chết mới không chảy máu khi bị đâm hay bị bắn.
Có gì đó khác cũng khiến ông cảm thấy không ổn. Maxwell và Weston nhìn ngó và hành động như một vụ việc thực sự, nhưng họ lại khiến Mangan không thể nhúng tay vào.
Rời khỏi ngôi nhà Mangan nhanh chóng quay lại chiếc xe của đội SWAT và leo vào bên trong. Ông yêu cầu người của mình chỉnh tần số điện đài và hướng dẫn họ theo dõi ngôi nhà. Nếu bất kỳ ai trong số hai điệp vụ kia của FBI xuất hiện ở cửa sổ hay chuẩn bị thoát ra qua cửa trước hoặc cửa sau ông cần phải biết. Sau đó, Mangan ra khỏi chiếc xe.
Cúi thật thấp xuống để bên trong không nhìn thấy Mangan trườn quanh ngôi nhà rồi cẩn thận núp dưới cửa sổ. Khi tới phía sau phòng ngủ có cái xác bên trong ông lấy ra một cái ống nghe sợi quang đặc biệt. Ông cũng muốn có một cái máy quay camera nhưng không thể khoan qua tường mà không bị phát hiện.
Chiếc ống nghe sợi quang đặc biệt viết tắt là FOS, là một thiết bị cực kỳ nhạy cho phép đội chiến thuật nghe trộm qua cửa, cửa sổ, thậm chí là tường bê-tông. Mangan bật chiếc ống nghe lên đeo tai nghe vào và bắt đầu lắng nghe những gì đang diễn ra bên trong.
Cho rằng Maxwell và Weston đã bắn chết hắn nên Mangan không hề ngạc nhiên khi thấy chúng bận rộn vẽ ra chứng cứ.
Điều khiến ông ngạc nhiên là tại sao chúng lại làm việc đó và làm theo lệnh của ai. Khi ông ta kể xong câu chuyện, Sheppard hiểu tại sao ông lại chọn cách giữ bí mật và chơi trò đố chữ. Giờ đây, quả bóng đã đá vào sân của Sheppard và anh cần phải chuẩn bị bước tiếp theo thật kỹ càng. Anh sẽ kết tội Tổng thống Mỹ một số tội cực kỳ nghiêm trọng và sẽ phơi bày tất cả bằng một bài cực kỳ tỉ mỉ trên trang bìa…
Chương 51
AMMAN, JORDAN
Hai người đàn ông ngồi trong chiếc BMW 7 màu xanh thẫm ven một con phố yên tĩnh gần trung tâm thành phố. Hầu hết các cửa hàng đã đóng cửa để cầu nguyện buổi chiều. “Sau việc này, chúng ta hòa nhé”, người đàn ông lái xe vừa nói vừa lấy từ ghế sau một cái túi nhỏ và đưa cho người khách của mình. Harvath mở túi và nhìn vào bên trong. Mọi thứ đều ở đó cả. Anh mỉm cười, “Chừng nào tôi rời khỏi đất nước anh an toàn, lúc đó chúng ta mới hòa nhau”.
Omar Faris, một quan chức cấp cao của Tổng cục Tình báo Jordan gọi tắt là GID, gật cái đầu tròn xoe, nặng nề của anh ta. Người đàn ông Jordan này đã quen với việc làm ăn. Ở thế giới mà anh ta hoạt động làm ăn là chuyện bắt buộc đặc biệt là khi phải kiểm soát làn sóng đạo Hồi cấp tiến đang phát triển mạng.
Hơn nữa, anh ta vốn rất thích Harvath mặc dù anh hay có những quyết định kỳ lạ. Dù hoạt động thế nào, Harvath vẫn là người biết giữ lời và có thể tin cậy. Cả hai đã thân nhau từ hồi Harvath mới làm việc trong dự án Apex. Một nhóm người Jordan đã giết hại hai nhà ngoại giao Mỹ và có âm mưu lật đổ Vua Abdullad II. Mặc dù, GID không hề biết là Harvath đang hoạt động trong đất nước họ nhưng Faris đã coi như một đối tác của mình và là đầu mối trực tiếp để liên hệ với đức vua.
Abdullah chỉ yêu cầu Harvath một việc duy nhất – hãy cố gắng hết sức để bắt sống các thành viên của nhóm này. Đó là một nhiệm vụ cực kỳ phức tạp và nguy hiểm. Giết những tên khủng bố và kết thúc cả chiến dịch còn dễ dàng hơn thế nhiều. Tuy nhiên, Harvath đã bất chấp hiểm nguy đáp ứng yêu cầu của nhà vua tôn kính.
Làm như vậy, Harvath không chỉ được quốc chủ tôn trọng mà còn gặt được vài điểm với Faris, người đã được thăng chức nhờ thành công này.
“Tất nhiên, nếu biết anh có mặt ở đây, Bệ hạ sẽ từ chối công nhận anh hay hoạt động của anh. Nếu người Syria hay bất kì ai khác biết sự việc và phát hiện ra rằng chúng tôi cho phép anh săn đuổi điệp viên của họ đang điều trị ung thư trên đất nước tôi, hình ảnh của Jordan sẽ bị hủy hoại – đất là chưa nói đến thất bại trong quan hệ ngoại giao”, viên sỹ quan của GID nói.
“Đừng có nói điều nhảm nhí với tôi, Omar”, Harvath trả lời. “Anh cũng biết Al-Tal là một mối đe dọa với các anh còn gì. Hắn đã giúp Syria trang bị rất nhiều vũ khí cho các tổ chức như AL Qaeda để chúng sử dụng ở đây”.
“Chúng ta đều biết điều đó, nhưng nó không hề làm thay đổi thực tế rằng hình ảnh của chúng tôi là thứ tối quan trọng đối với chúng tôi. Các nước đồng minh và láng giềng sẽ mất niềm tin vào chúng tôi nếu họ biết chúng tôi có liên quan tới hoạt động của các anh”.
“Liên quan gì cơ?” Harvath vừa kéo khóa túi vừa hỏi Faris mỉm cười, lấy ra một chiếc phong bì bên dưới ghế ngồi và trao cho người bạn của mình. “Theo yêu cầu của anh chúng tôi đã soạn ra một bộ hồ sơ đầy đủ”.
Harvath không ngạc nhiên xem có bao nhiêu trong đó. Thường thì GID rất kỹ lưỡng. Máy theo dõi, ảnh, sơ đồ mặt cắt ngang của toàn nhà – đây là một bộ hồ sơ khá ấn tượng.
Đã có lần chúng tôi có hình ảnh của Al-Tal trên màn hình rađa. Khi phát hiện ra hắn ta đã nhập cảnh vào nước này dưới một cái tên khác để chữa bệnh, chúng tôi bắt đầu theo dõi 24/ 24 giờ”.
“Trong tòa nhà có thiết bị nghe nhìn nào không?” Harvath hỏi.
“Tất nhiên”, Faris trả lời. “Chúng tôi rất quan tâm tới vấn đề mua bán vũ khí. Dù thu thập được bất cứ thông tin nào cũng rất có ích”.
“Nhưng?”.
“Nhưng hắn ta có vẻ rất cẩn thận. Hắn thường nói chuyện điện thoại nhưng tất cả những gì chúng tôi thu được từ các cuộc điện thoại đó không bao giờ có tác dụng trực tiếp. Chúng tôi nghi ngờ có kẻ khác đang hoạt động thay cho hắn trong khi hắn nằm đấy điều trị bệnh”.
“Anh nói là hắn ta không còn nhiều thời gian nữa đúng không?”.
“Đó là những gì bác sỹ của hắn nói. Chỉ còn tính theo tuần, giỏi lắm là theo tháng”.
“Thế còn gia đình hắn?” Harvath hỏi.
“Tất cả ở trong hồ sơ ấy”.
“Tôi không muốn hình ảnh của tôi bị ghi lại trong tòa nhà đó. Tôi muốn anh tháo hết các thiết bị nghe nhìn của các anh ở đó”.
“E là tôi không thể làm được việc đó”, Faris nói.
“Tại sao không?”.
“Khi hắn đến lần đầu, gần như ngày nào gia đình hắn cũng đi cùng đến bệnh viện. Còn bây giờ, hắn nằm liệt giường ở nhà, lúc nào cũng có người cạnh. Vì vậy, người của tôi sẽ không thể nào vào đó mà tháo các thiết bị ấy đi được”.
“Vậy thì tôi sẽ tháo đi cho anh”, Harvath khẳng định. Tôi cần hướng dẫn chi tiết vị trí đặt chúng”.
Faris đưa tay lên túi ngực. “Tôi nghĩ anh có thể hỏi đến nó”.
“Thế còn đội theo dõi thì sao?” Harvath vừa đút tờ giấy vào cặp tài liệu vừa hỏi.
“Ngay khi anh vào nhà, họ sẽ phải rút hết”.
“Vậy, mọi chuyện coi như xong ở đây”.
Faris trao cho Harvath chìa khóa chiếc Mitsubishi Lancermafu xám mà anh đã sắp xếp rồi bắt tay tạm biệt. “Cẩn thận đấy, Scot. Có thể Al-Tal đang cận kề cái chết nhưng khi con thú yếu đuối và bị dồn nó sẽ trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết”.
Harvath ra khỏi xe và trước khi đóng cửa anh nói, “Hãy bảo người của anh chuẩn bị chấm dứt việc theo dõi của họ”.
Faris nhẹ nhàng nói lại, “Anh không định nghiên cứu bộ hồ sơ trước à?”.
“Tôi đã xem tất cả những thứ cần thiết rồi. Càng vào đó và khống chế được Al-Tal sớm tôi càng sớm mắc ồi vào lưỡi câu và bắt đầu động nước cho Najib”.
Faris quan sát Harvath mở khóa chiếc Lancer, vứt cái túi vào và nuốt cục giận xuống hộng. Mặc dù thừa biết Harvath là một tay chuyên nghiệp nhưng anh vẫn không thích những gì mà người Mỹ này đang làm.