Không khoan nhượng - Chương 082 - 083 - 084 - 085 - 086
CHƯƠNG 82
“Và ông muốn tôi lái bài báo này?” Sheppard hỏi.
“Đúng”, Vaile trả lời. “Bài báo của anh sẽ phá vỡ niềm tin của công chúng”.
Lần này, anh chàng phóng viên không thể nhịn cười được. “Vâng, có lẽ ông nên nghĩ về điều đó trước khi ông mơ thấy toàn bộ sự việc”.
Vị giám đốc CIA hết kiên nhẫn. Tuy nhiên, trước khi có thể nói gì đó, anh hỏi, “Ông sẽ sắp xếp được một tai nạn cho tôi giống như với Frank Aposhian và Sally Rutherford chứ?”.
“Thưa anh Sheppard, trong hồ sơ cái chết của họ ghi là một tai nạn. Chính phủ Mỹ không bao giờ giết hại công dân của chính mình”.
“Vậy thì tôi không có gì phải lo lắng, đúng không?”.
“Điều đó còn phụ thuộc vào việc anh có hợp tác hay không”.
Sau nhiều năm làm việc, anh chàng phóng viên này đã nhận được không ít lời đe dọa, vì vậy anh không dễ dàng bị sợ hãi như vậy. “Thật chứ? Thế nếu tôi không hợp tác thì sao nào?”.
“Dự kiến, bài báo của anh sẽ có tên là “Cuộc xâm chiếm của những tay trộm xác”. Vaile bắt đầu.
“Thế quái nào ông lại biết?”.
“Im đi và nghe đây”. Ông ra lệnh. “Anh lưu nó trong một tệp có khóa mã. Mã là Romero. Hãy mở ra”.
Sheppard làm theo lời ông ta. Bên trong, anh nhìn thấy có thêm một tệp tin phụ tên là candy cane. Theo bản năng, anh kích chuột vào đó và thấy một trang đầy những hình nhỏ. Anh phóng to một hình bất kỳ và ngột thở.
“Ông, đồ khốn”, anh chàng phóng viên thốt lên khi anh nhận ra họ định làm gì anh. “Nó sẽ không thể hoạt động được”.
“Tôi không chắc như vậy đâu” Vaile nói. “Dù có tội hay không, sẽ khó có thể gột sạch vết nhơ là pedophilia1”.
“Vậy rất may là tôi đã ghi âm cuộc nói chuyện này”. Sheppard nói một cách hồn nhiên.
Vaile cười. “Tôi nghĩ anh nên thử nghe lại trước đi rồi hãy lôi sự nghiệp và cả cuộc đời còn lại của anh ra cá cược”.
(1) Pedophilia: Hay còn gọi là người thích tình dục huyễn nhi, hoặc ái nhi, là người có tư tưởng bệnh hoạn, thích giao cấu với trẻ em.
Thiết bị phát hiện chống rung tệ hại của anh cho thấy là người đang gọi kia không hề đùa. “Ông làm tôi thấy hổ thẹn vì là một người Mỹ”, Sheppard nói.
“Không phải là đến nước này mà anh còn dám bọc mình trong là cờ đấy chứ. Anh có cơ hội. Chúng ta đang ở trong một cuộc chiến và cuộc chiến nào chẳng liên quan tới các bí mật. Đây là làm việc đúng đắn cho đất nước và anh đã làm cho nó thành một việc đúng đắn. Ngoài ra, tôi sẽ cho anh thêm một cơ hội nữa”.
“Có gì để ngăn tôi xóa chúng đi không?” Sheppard hỏi, nghe giọng có vẻ muốn giữ nguyên sự trong sạch của người làm báo, nhưng đã mất lòng quyết tâm.
“Không thể xóa được đâu. Dù anh có thể xóa, vẫn còn rất nhiều trên cả máy xách tay và máy bàn ở nhà anh. Chúng tôi có vài người thích tình dục huyễn nhi, sẵn sàng đứng ra chứng minh sở thích bệnh hoạn của anh. Đó là một cái hố cực sâu anh không bao giờ thoát ra được. Trước hết, cả tờ báo sẽ không ủng hộ anh. Bài báo về những tên trộm xác của anh sẽ không bao giờ nhìn thấy ánh sáng ban ngày. Chắc chắn là anh sẽ bị mất uy tín. Tiếp đó, bạn bè anh sẽ biến mất và thậm chí cả gia đình anh cũng sẽ bắt đầu biến mất dần. Sau đó là tất cả những đứa trẻ đã được anh dạy dỗ. Anh nghĩ gì không khi những gì anh dạy dỗ chúng sẽ trở thành vấn đề rắc rối vì lý do duy nhất để anh tới đó là tìm cách chiếm đoạt chúng? Có lẽ là chưa, những vấn đề của anh chưa kết thúc ở đây đâu.
Việc kết tội có sách báo khiêu dâm trẻ em tìm thấy trên máy tính và trong nhà anh sẽ là một đòn chí mạng. Anh sẽ bị vào tù và vì anh là một phóng viên điều tra tội phạm tôi chẳng cần nói anh cũng hiểu họ sẽ làm gì trong trường hợp của anh. Một khi có lời đồn đại là anh là một tên thích tình dục huyễn nhi sớm muộn anh cũng bị giết nếu không thì người ta cũng làm cho anh sống dở, chết dở, khiến anh cầu xin cho mình thà chết đi còn hơn”.
Sheppard ngồi lặng người mà nghe những lời lẽ cay nghiệt đó. Họ đã khống chế anh. Thật tởm lợm, nhưng rõ ràng anh chẳng thể làm gì nổi. Trong đầu anh vội vã tìm kiếm câu trả lời nhưng anh biết, cách duy nhất chỉ có thể đầu hàng. Cuối cùng, anh hỏi. “Vậy ông muốn tôi làm gì?”.
Vaile hướng dẫn anh chi tiết hơn về cách thu thập bất kỳ tài liệu hay tư liệu nào anh đã có, kể cả những gì anh đã ghi chép, ảnh chụp, băng ghi âm và cho chúng vào một cái túi nhỏ, đưa tới vào một nhà kho bỏ hoang ở ngay bên ngoài D.C.
Ba tiếng sau, vị giám đốc CIA liên lạc với tổng thống để báo tin tốt lành. Sau khi đào sâu suy nghĩ hơn một chút, anh chàng phóng viên của tờ Baltimore Sun phát hiện ra rằng những nguồn tin anh có không đáng tin cậy như ban đầu anh nghĩ. Vì vậy, anh quyết định không đeo đuổi bài báo này nữa.
Jack Ruthledge thở phào khi nghe câu chuyện. Thế là xong một vấn đề. Lúc này, họ cần tập trung lại tất cả các nguồn tin của họ để ngăn cản Harvath.
CHƯƠNG 83
ANGRA DOS REIS, BRAXIN
Dù là dưới ánh trăng mờ, nhưng con thuyền nhỏ của Harvath có vẻ lờ lững nhiều hơn là nổi trên mặt nước lóng lánh.
Anh lặng lẽ thả neo bên dưới mặt nước và từ từ thả dây ra. Khi chiếc thuyền đã đứng yên anh kiểm tra lại số lần cuối rồi nhảy sang phía bên kia.
Anh bơi một cách tự tin vì đã từng là người dành hầu hết cuộc đời mình sống gần một đại dương. Tay sải thật khỏe và vững chắc, đẩy anh về phía trước xuyên qua làn nước ấm áp của Vịnh Angra dos Reis.
Với một chiếc kính nhìn ban đêm và một chiếc la bàn phát sáng, anh tìm đường đi trong bóng đêm về phía hòn đảo riêng có cái tên Algodao.
Ờ phía dưới hướng gió, anh ngoi dần lên mặt nước và tháo một chiếc dây thừng dùng để kéo theo một cái túi không thấm nước đang quấn quanh eo mình ra.
Từ trong chiếc túi ấy, Harvath lấy ra một khẩu Beretta 9 ly mà anh đã tự gửi chuyển phát nhanh quốc tế cho mình.
Harvath kiểm tra vũ khí rồi để nó sang một bên trong khi anh thay quần áo. Anh lấy ra những thứ cần thiết rồi cho cả vào túi. Giấu bộ quần áo bơi dưới một tảng đá lớn trên bãi biển, anh kiểm tra những gì còn lại trong chiếc túi đã mang theo.
Bọn chó của gã Lùn là mối lo ngại lớn nhất của anh. Vì đã từng cứu một con ở Gibralta nên anh có nghiên cứu sơ qua về chúng. Loại chó Ovcharkas của người Cáp-ca lá những con thú ký lạ – thông minh, nhanh nhẹn và dữ tợn khi cần và cực kỳ trung thành. Rõ ràng là vì vậy mà chúng được quân đội Nga và Đông Dức chọn nuôi để đi tuần vùng biên. Cũng rõ ràng là vì thế mà gã Lùn đã chọn chúng. Harvath lại nghĩ tới chú chó nhỏ của mình, chú chó mà anh đã nhờ Amily Hawkins chăm lo trong khi anh quyết định mình sẽ làm gì với nó. Anh đã gặp một khó khăn lớn trong việc giữ “món quà” của kẻ đồng lõa giết hại vô số người Mỹ, kể cả người bạn thân nhất của anh.
Nói thực, khi Tracy đang nằm viện và tất cả những việc khác đã xảy ra, tới lúc Gary kể cho anh nghe về chuyện con chó nhỏ bị tra tấn dã man anh mới nghĩ nhiều về nó. Harvath đã buộc phải vẽ ra một bức tranh kinh hoàng trong đầu mình. Anh cần phải tập trung. Harvath lắng nghe rất lâu và chăm chú trước khi anh đeo chiếc túi lên vai và bò vào hòn đảo. Ngoài những đụn cát nhỏ ở hai bên, trên hòn đảo này chẳng còn gì khác ngoài cây cối um tùm, xanh mát mắt. Hang ổ của gã Lùn ở trên đỉnh của hòn đảo này, xây trên những cái cột dựng trên mặt nước.
Harvath nghĩ mãi về cách làm thế nào để khống chế lũ chó. Có lẽ một khẩu súng có thuốc an thần là cách dễ nhất, nhưng anh lại không có. Những thứ duy nhất anh có cho chuyến đi này chính là những gì anh đã cất ở ngân hàng cũng như trong cái két nhỏ cất ở Alexandria. Không có nhiều để lựa chọn.
Mặc dù có khẩu Beretta, nhưng anh lại không có bộ phận giảm thanh cho khẩu súng này và vì vậy, không thể nào giết được lũ chó. Chúng sẽ gây ra rất nhiều tiếng ồn. Anh phải tìm cách khác để vô hiệu hóa chúng. Nhưng để làm được như vậy, anh sẽ phải cách ly được chúng mà không làm cho lão chủ nghi ngờ – việc này, nói thì dễ hơn làm nhiều.
Lũ chó là lực lượng an ninh của riêng gã Lùn. Chúng không bao giờ rời gã – trừ khi chúng tự ra ngoài cho thoải mái. Đó là khoảnh khắc chúng có thể bị tấn công nhiều nhất và đó cũng là lúc Harvath dự định ra tay.
Dựa trên hình ảnh vệ tinh đã nghiên cứu, Harvath để ý thấy rằng gã Lùn để lũ chó ra ngoài lần cuối cùng vào khoảng mười giờ tối. Bây giờ mới hơn chín giờ mười lăm, có nghĩa là Harvath còn chưa đầy bốn mươi lăm phút nữa để dựng bẫy và vào vị trí.
Loài chó nói chung và loài chó Ovcharkas nói riêng cực kỳ tinh mắt trong bóng đêm và cực kỳ nhạy trong việc phát hiệt chuyển động vì vậy, Harvath không được loanh quanh chỗ giăng mồi khi chúng ra ngoài.
Mở chiếc túi kín anh lấy ra một vật to cỡ quả bóng gói trong một bọc giấy. Anh đã chuẩn bị riêng cho tình huống này. Đó là mười cân thịt bò xay nhuyễn và Harvath còn bảo ông hàng thịt ở Angra dos Reis cho thêm vào đó một cân thịt xông khói để lũ chó không thể cưỡng lại được cơn thèm khát. Tiếp đó, ngay sau khi tránh ra chỗ an toàn Harvath cho thêm một thành phần đặc biệt của riêng anh, đó là loại thuốc nhuận tràng liều cao anh đã mua ở hiệu thuốc tại Rio.
Chọn một điểm trên lối đi nhỏ dẫn từ chỗ gã Lùn ra, Harvath chia chỗ thịt làm hai phần và để chúng đủ gần nhau sao cho lũ chó có thể đánh hơi thấy nhưng cũng đủ xa để không con nào có thể tranh phần của con nào.
Bố trí xong chỗ bã, Harvath lui vào bụi cây chắc chắn là anh đã xuôi hướng gió khi trườn vào nhà.
Anh tìm thấy một điểm thuận lợi trong số vài tảng đá lớn gần bờ biển. Ngôi nhà rực rỡ trong ánh sáng dìu dịu và tất cả các cửa sổ đều đang mở toang để đón không khí trong lành của biển đem lại. Harvath có thể nghe thấy nhạc cổ điển từ bên trong. Anh nhận ra ngay đó là bản nhạc gì. Đây là một trong những bản nhạc mà Tracy rất thích. Cô đã lưu nó trong Ipod của mình và mỗi khi nấu anh cô đều mở loa trong bếp rất to để nghe.
Harvath không biết liệu vào buổi sáng bị bắn, cô có nghe bản nhạc này hay không.
Rút khẩu súng, Harvath kiểm tra để đảm bảo vũ khí của anh đã được nạp đạn và anh thì thầm trong không khí ấm áp của đêm, “Viên đạn này sẽ dành để trả thù cho em, em yêu”.
CHƯƠNG 84
Vì Harvath cho rất nhiều nên chẳng bao lâu sau thuốc nhuận tràng đã phát huy tác dụng thần kỳ của nó. Cả hai con chó bắt đầu cùng nhau rú lên. Ruột chúng đang bị cào xé khủng khiếp.
Tiếng nhạc tắt ngấm và Harvath nhìn thấy gã Lùn. Những kỷ niệm về cuộc chạm trán đầu tiên ở Gibraltar tràn về trong lòng anh.
Những con chó trắng tinh của gã Lùn, con nào cũng cao tới tận vai, đứng sừng sững như tòa tháp cao hơn gã đàn ông nhỏ thó. Trong khi lũ chó mỗi con nặng tới gần một trăm kilogam, gã Lùn lại không thể nào vượt quá ba mươi lăm kilô. Harvath nghĩ hắn chỉ cao chưa đầy một mét. Thế nhưng anh thừa biết chiều cao đó không hề liên quan gì tới độ xảo quyệt, gian trá của hắn.
Gã Lùn mở cửa trước cửa tòa nhà gỗ, lũ chó xô gã chủ ra khỏi đường khi chúng lao ra khỏi nhà. Nếu biết chúng có gì đó không ổn chắc gã không khoe khoang lũ chó như vậy. Harvath đoán gã hoàn toàn không biết chuyện gì đang diễn ra. Tất cả những gì gã thấy chỉ là lũ chó khác hẳn so với mọi khi. Harvath theo dõi gã Lùn đi theo lũ chó ra bên ngoài. Đã đến lúc.
Bước ra khỏi những tản đá phía sau, Harvath nhanh chóng di chuyển lên bãi biển. Tới gần căn nhà, anh quay lại và nhảy qua một hàng rào gỗ bao quanh một nhà tắm lộ thiên có trồng cây bao quanh.
Anh xuyên qua mảnh sân thơm ngát hương hoa và sau khi trèo qua một vài bậc thang đá, anh vào nhà qua những cánh cửa kiểu Pháp đang mở toang.
Qua chỗ bếp, Harvath vứt lại một gói trên quầy và một gói ở tủ đựng chén bát rồi tiếp tục.
Được nửa đường vào phòng khách anh để ý thấy một góc phòng nhỏ hẳn phải được dùng là nơi yên tĩnh để đọc sách. Trong đó có hai cái ghế bọc, một cái đèn và một cái bàn cỡ nhỏ. Harvath hạ cái túi, lấy khẩu súng ra và ngồi xuống.
Nếu nói gã Lùn ngạc nhiên khi nhìn thấy anh thì quả là đánh giá thấp. Anh bị kéo ngay lập tức mất thăng bằng. Hẳn là Harvath đã có thể cười nếu anh không căm ghét gã đàn ông này đến vậy. Phải nói, gã Lùn có cái đầu suy nghĩ cực kỳ mau lẹ. Nhìn thấy Harvath, gã hiểu ngay tình hình.
“Anh đã làm gì với những con chó của tôi?” Gã hỏi.
“Chúng sẽ ổn”, Harvath nói. “Đó chỉ là tạm thời”.
“Anh là đồ khốn”, người đàn ông nhỏ bé gầm lên. “Sao anh dám làm chúng bị tổn thương? Chúng không hề động đến một sợi lông chân của anh”.
“Và tôi muốn giữ chúng như thế”.
Gã Lùn nhìn xoáy vào Harvath. “Vậy hãy giúp tôi. Nếu chúng có mệnh hệ gì, việc lớn nhất đời của tôi sẽ là khiến anh phải trả giá đến tận hơi thở cuối cùng”.
Thái độ của gã đã chuyển từ chỗ bị kích động, gần như là sợ hãi, sang trạng thái lạnh băng. Rõ ràng là gã hiểu mình nói gì và gã tin rằng mình sẽ thực hiện được lời đe dọa.
“Tôi để lại hai gói ở trong bếp”, Harvath nói, anh muốn nhắc tới sản phẩm K-9 Quencher mà anh đã lấy trong khu mua bán nơi anh mua chiếc máy tính trước khi rời khỏi D.C.
“Gì vậy?” Gã Lùn hỏi, giọng nói của gã lộ rõ vẻ sợ hãi.
“Đừng lo. Nếu tôi muốn lũ chó của ông chết, chúng sẽ chết. Trong những gói đó có chứa một loại bột điện giải dành riêng cho chó mất nước”.
“Anh đã làm gì chúng?”.
“Chỉ là thuốc nhuận tràng. Vài tiếng nữa, chúng sẽ ổn thôi. Hãy hòa mỗi gói vào một bát nước và để ra ngoài cho lũ chó uống”. Trong khi gã Lùn nhìn chăm chắm vào mình, Harvath nói thêm, “Và nhớ là phải ở chỗ mà tôi có thể nhìn thấy ông”.
Sau khi đặt những cái bát chỗ bậc cửa, gã Lùn đóng cửa trước lại, trở lại chỗ đọc sách rồi trèo lên cái ghế bên cạnh Harvath. “Tôi biết anh sẽ đến tìm tôi”, gã nói. “Chỉ là tôi không nghĩ lại nhanh đến vậy. Thế đấy”.
“Có thể”, Harvath trả lời. “Điều đó phụ thuộc vào việc tôi còn tận dụng được gì ở ông nữa không”.
“Vậy thì suy cho cùng, anh là kẻ không giữ lời rồi”.
Harvath biêt gã đang muốn ám chỉ điều gì, nhưng anh để câu hỏi đó lửng lơ giữa hai người.
“Anh đã hứa rằng tôi sẽ không bị giết”, gã Lùn thều thào bằng tiếng Anh. Mái tóc đen của gã cắt ngắn và để một bộ ria cắt tỉa cẩn thận.
Harvath nhăn nhở. “Tôi đã hứa với ông khi tôi tưởng rằng ông đang hợp tác với tôi”.
Gã Lùn chớp mắt. Đó là một cách nói hết sức tế nhị. Harvath biết là gã đã hiểu ý anh. “Đáng ra phải có một cái tên khác nữa trong danh sách ông đã chuyển cho tôi. Đêm đó, đã có năm tên được thả từ Gitmo chứ không phải là bốn”.
Gã Lùn mỉm cười. “Điệp vụ Harvath, nếu có một việc mà cả đời này tôi mới học được thì đó chính là làm thế nào để hiểu được người khác và tôi có thể nói rằng anh đã biết người thứ năm đó là ai”.
Harvath cúi về phía trước, mặt anh đằng đằng sát khí. “Nếu ông là người có thể đọc vị người khác tốt như vậy hẳn ông phải biết rằng nếu ông không hợp tác tự tay tôi sẽ giết chết ông ngay tại đây chứ, chúng ta có hiểu nhau không đấy?.
Nếu có sợ hãi vì lời đe dọa của Harvath, gã Lùn cũng chẳng hề thể hiện ra.
“Đó là một ngày rất dài”, gã nói. “Tại sao chúng ta không chuyển ra phòng khách uống chút gì đó nhỉ?”.
Harvath còn ngập ngừng thì gã đã chêm vào, “Nếu anh lo lắng về việc tôi cố để đầu độc anh, anh không cần uống cùng tôi. Tôi cũng quen uống một mình rồi”.
Một mặt, Harvath cũng không muốn nơi lỏng cảnh giác. Chỉ vào chỗ thanh chắn có để khẩu Beretta của mình, anh nói, “Hãy là khách của tôi”.
CHƯƠNG 85
“Vậy đặc vụ Harvath”, gã Lùn vừa nói vừa bước tới chỗ chiếc ghế dài hớp một ngụm XO Germain-Robin, tận hưởng cảm giác sung sướng “Chính xác thì tôi có thể làm gì cho anh?”
Ngồi đối diện với một kẻ tự mãn như thế này, ngón tay đặt vào cò súng của Harvath bắt đầu ngứa ngáy. Anh đang nghiêm túc cân nhắc đến việc tiêu diệt gã. Nếu gã Lùn không có một chút giá trị nào anh sẽ cho gã một phát đạn vào đầu và ném xác gã ra vịnh. “Tại sao ông lại gạt cái tên Philippe Roussard ra khỏi danh sách?” Harvath hỏi.
Gã Lùn không biết phải nói sao. Gã giận mình đã đánh giá thấp Harvath. Gã cũng giận cả Roussard. Sự ngu ngốc của hắn đã đẩy gã Lùn vào tình thế vô cùng khó khăn.
Gã đàn ông nhỏ bé dường như đang ở đâu đó cách xa đây cả triệu dặm, Harvath bắn một phát vào chiếc gối gã đang dựa. Tiếng nổ làm gã Lùn giật mình, bởi nó không chỉ inh tai mà còn đột ngột. Mặc dù chẳng hề ngạc nhiên trước bất kì thái độ nào của Harvath, gã Lùn vẫn có cảm giác như họ đã xây dựng được một mối quan hệ qua lại nào đó, chí ít là cũng đã bớt căng thẳng. Gã cảm thấy tôn trọng Harvath nhưng rõ ràng là gã không hề được đáp lại.
Phồng má lên vì nhiều không khí, gã Lùn thở ra và nói “Tôi không gặp, cũng không nói chuyện với Roussard nhiều năm nay rồi”.
“Vậy ông có biết hắn?”.
“Có”, gã Lùn trả lời. Nói dối cũng vô ích, gã biết vậy. Harvath cầm toàn bộ quân bài trong tay – gia tài, nghề kiếm sống, thậm chí cả tính mạng gã.
“Lần cuối cùng ông gặp hắn là khi nào?”.
“Cách đây 5, cũng có thể là 10 năm. Tôi không nhớ chính xác”.
“Nhưng ông biết hắn là một trong 5 tên được thả ở Guantanamo”, Harvath khẳng định.
“Đúng, tôi biết”.
“Và ông đã cố tình gạch tên hắn ra khỏi danh sách anh đưa cho tôi. Tại sao vậy? Hai người bọn ông hi vọng giết được tôi trước khi bị tôi ngăn cản? Có đúng không?”. Harvath nâng khẩu súng lục lên để tăng thêm phần quan trọng. Đó là kết luận lôgíc nhất mà Harvath tìm ra được, nhưng thật vô lí. “Lần cuối cùng tôi gặp Philippe, nó không gì hơn ngoài một gã trai chuyên gây rắc rối”.
“Nực cười là mọi chuyện thay đổi nhanh đến vậy”.
Gã Lùn đã định bật cười, nhưng khẩu súng lục chĩa thẳng vào ngực gã thì không buồn cười chút nào. “Kể từ đó tôi không gặp lại nó nữa”.
“Vậy tại sao ông gạt tên hắn ra khỏi danh sách?”.
“Trong nghề của tôi, người ta có kẻ thù rất nhanh. Còn bạn bè rất khó kiếm”.
“Roussard là một trong những người bạn của ông?”. Harvath hỏi.
“Anh có thể nói thế”.
Mệt mỏi với sự mập mờ của gã, Harvath bắn thêm một phát nữa lên chiếc ghế dài, cách đùi gã Lùn vài milimet. “Tôi không kiên nhẫn đâu”.
“Con đỡ đầu của tôi”, gã Lùn lắp bắp. “Philippe Roussard là con đỡ đầu của tôi”.
“Có kẻ đề nghị ông làm cha đỡ đầu của một đứa trẻ?”
“Đó là vinh dự mà gia đình đã dành cho tôi”.
“Gia đình nào?” Harvath vừa hỏi, vừa chỉnh mục tiêu và chuẩn bị xiết cò.
Một nụ cười chậm rãi thoáng trên gương mặt gã Lùn,
“Có gì buồn cười hả?”.
“Đôi khi”, gã Lùn đáp, “Thế giới lại nhỏ bé một cách đáng ngạc nhiên”.
Chương 86:
Nhà Trắng
Đã muộn rồi nhưng tổng thống nói với vị giám đốc CIA rằng ông muốn đợi bản đánh giá. Khi James Vaile tới ông ta được dẫn lên tầng trên. Tổng thống đang ngồi trong phòng làm việc xem trận đấu giữa Chicago White Sox với Kansas City Royals. Đó là một trận đấu thú vị và đang bước vào hiệp phụ.
Lúc vị giám đốc CIA gõ vào cánh cửa đang mở của căn phòng làm việc, Jack Rutledge đặt cốc nước xuống, tắt TV và vẫy ông ta vào.
"Ông có đói không?" Tổng thống hỏi khi vị giám đốc CIA đóng cánh cửa sau lưng lại và ngồi vào chiếc ghế da cạnh ngài.
"Không, cảm ơn ngài".
"Thế có uống gì không?".
Vaile lắc đầu, từ chối một cách lịch sự.
"Thôi được", Ruledge hào hứng vào việc.
"Ông đã có cơ hội xem xét tất cả. Để xem nào".
Vị giám đốc CIA rút một xếp tài liệu trong cặp và mở ra.
"Mark Sheppard không chỉ là Woodward (1) hay Bernstein trong nghề viết lách mà còn là một bậc thầy trong lĩnh vực nghiên cứu".
(1). Woodward hay còn gọi là Bob Woodward và đồng nghiệp Bernstein hay Carl Bernstein là hai nhà báo đã phanh phui ra vụ xì-căng-đan Watergate khiến tổng thống Mỹ Richard Nixon phải từ chức.
Vaile chuyển bản photo bài báo của người phóng viên cho tổng thống và nói tiếp "Tiếng vang mà bài báo này mang đến cho tờ Baltimore Sun sẽ nâng tổng số báo phát hành của họ lên mức kỉ lục. Căn cứ vào những ghi chép của Sheppard, tòa soạn đang tìm cách phát triển câu chuyện thành một seri bài viết. Họ đã lên kế hoạch tạo dựng lại vụ tai nạn xe hơi cũng như sự thất bại của cuộc tấn công máy bay ở Charleston - đóng giả các điệp viên FPI và vân vân".
"Chúng ta thật may vì tay Sheppard này đã đến xác nhận thông tin một tuần trước khi tung ra bài viết. Nếu anh ta chỉ đến trước có 1 ngày, Geoff Mitchell và vụ báo chí sẽ không thể ngăn nổi anh ta trong khi chính họ khẳng định Nhà Trắng đang điều tra vụ này".
"Và ông sẽ không có đủ thời gian để tiếp cận anh ta", tổng thống đã xem xong bài báo.
"Không phải là theo cách tôi muốn", Vaile đáp.
"Chúng ta đã tránh được đạn".
Vị giám đốc CIA lắc đầu "Lúc này, các biên tập viên của Sheppard đang nổi đóa. Câu chuyện này là chủ đề nóng hổi nhất cho tờ báo của họ trong suốt mấy năm qua và giờ nó đã tan thành mây khói".
Rutledge có cảm giác ông biết chuyện này sẽ đi đến đâ. "Theo ông, nếu chúng ta cảnh báo cho các xe buýt trường học thì tờ The Sun có chạy theo câu chuyện của Sheppard nữa không?".
"Lúc nào cũng có thể. Mặc dù chúng ta có trong tay toàn bộ tài liệu gốc của anh ta nhưng họ vẫn có những ghi chéo tại hội nghị dành cho các biên tập viên. Nếu họ nghi ngờ Sheppard bị cưỡng ép hủy bài báo họ sẽ đánh hơi ra và phỏng vấn lại toàn bộ rồi cho đăng báo mà không kèm để tên anh ta".
"Vậy tốt hơn anh ta nên tìm ra lí do thuyết phục khi rút lui".
Vaile gật đầu. "Chắc chắn anh ta phải có động cơ xác đáng, đó là điều chắc chắn".
"Nhưng, ông vẫn kịch liệt phản dối việc để bất cứ nhân viên nào của Bộ An ninh Nội địa can thiệp kia mà".
"Đúng thế".
Tổng thống đặt bài báo lên mặt bàn. "Nếu xảy ra tấn công thì sao? Ông không cho rằng lúc đó tờ Baltimore Sun sẽ cho bài báo xuất hiện dưới một vỏ bọc khác cũng có sức ảnh hưởng tương tự sao?".
"Làm sao họ có thể? Chúng ta là những người duy nhất biết toàn bộ câu chuyện. Những gì họ có chỉ là một mẩu câu đố nho nhỏ và chúng ta hoàn toàn có thể xử lí được cái mẩu nho nhỏ ấy. Nó sẽ cho thấy chúng ta đã hết sức cố gắng để đưa bọn khủng bố ra công lí. Harvath đẫ giết hai tên trong số chúng còn hai tên nữa chuẩn bị bị tóm ngay tại quê hương và chúng ta có vô vàn các điệp vụ dư sức lần ra tên thứ 5 và cũng là tên cuối cùng. Theo tôi, chúng ta hãy kết thúc cuộc chơi này".
Rutledge ngưỡng mộ sự tự tin của Vaile nhưng đáng tiếc lại không có sức thuyết phục. "Nếu học được điều gì đó từ vụ 11/9, thì đó là sự nhận thức muộn màng. Nếu mọi người muốn biết tại sao chúng ta biết trước về mối đe dọa đối với các xe buýt trường học mà không hề cảnh báo thì sao?"
"Bởi vì", vị giám đốc CIA nhấn mạnh, "Cảnh báo là thừa nhận tội lỗi. kẻ thù của chúng ta sẽ biết là chúng ta đã phá vỡ lời hứa và chúng ta đáng bị tấn công điều có thể sẽ không xảy ra".
Tổng thống cố nói điều gì đó, nhưng Vaile đưa tay lên để xin phép được nói hết "Dù đúng hay sai, thỏa thuận của chúng ta với bọn khủng bố dựa trên giả thuyết rằng kẻ thứ 5 được thả khỏi Gitmo sẽ không dùng tự do của hắn để tấn công chúng ta ngay trên đất nước của chúng ta".
"Tất nhiên" Rutledge nói. "Chúng ta đã đồng ý sẽ không săn lùng chúng".
"Đó là điều khiến tôi không yên tâm. Càng suy nghĩ về chuyện này tôi càng tin bọn khủng bố đã có những kế hoạch khác".