Nạn Nhân Thứ Tư - Chương 05 - Phần 2

Cô lật nhanh các hồ sơ trên bàn và thấy các bức ảnh lấy từ hiện trường của vụ Elena Ortiz. Cô dùng kính lúp, nghiên cứu tấm ảnh chụp thân thể nạn nhân ở cự ly gần. Qua lớp máu khô đóng lại trên cổ, cô vẫn nhìn thấy một sợi dây bằng vàng, hai mặt dây chuyền bị mờ đi.

Cô lấy điện thoại, quay số của phòng y tế.

- Bác sỹ Tierney sẽ ra ngoài cả buổi chiều, - cô thư ký nói. - Tôi có thể giúp gì cho cô?

- Về việc khám nghiệm tử thi của anh ấy vào thứ sáu tuần trước. Vụ của Elena Ortiz.

- Vâng.

- Nạn nhân có đeo trang sức khi cô ấy được đưa đến nhà xác. Cô còn giữ nó không?

- Để tôi xem!

Rizzoli chờ đợi, gõ bút chì lên bàn. Chai nước ở ngay trước mặt nhưng cô quên nó ngay lập tức. Cơn tức giận của cô đã nhường chỗ cho sự thích thú và sự hồ hởi của việc săn tìm.

- Thám tử Rizzoli?

- Tôi đây.

- Các vật dụng tư trang đã được gia đình cô ấy đem đi, bao gồm khuyên tai bằng vàng, vòng cổ và một chiếc nhẫn.

- Ai ký tên lấy chúng?

- Anna Garcia, chị gái của nạn nhân.

- Cảm ơn! - Rizzoli gác máy, nhìn đồng hồ đeo tay. Anna Garcia sống ở tận Danvers. Điều đó có nghĩa là cô sẽ phải đi vào đúng giờ cao điểm…

- Cô biết Frost đâu không? - Moore hỏi.

Rizzoli giật mình khi thấy anh đứng cạnh bàn.

- Không, tôi không biết.

- Anh ấy không có đây à?

- Tôi không kiểm soát anh ấy.

Anh dừng lại, rồi hỏi.

- Cái gì thế?

- Các bức ảnh chụp hiện trường của Ortiz.

- Không, vật trong chai cơ.

Cô nhìn lên và thấy anh cau mày.

- Trông nó giống cái gì? Một miếng băng vệ sinh khốn nạn. Ai đó quanh đây có khướu hài hước thật phức tạp - cô nhìn thẳng Darren Crowe đang cố nín cười và quay đi.

- Tôi sẽ lo vụ này. - Moore nói, cầm cái chai lên.

- Này, này! - Cô vặc lại. - Khốn kiếp, Moore. Quên chuyện đó đi!

Anh bước vào văn phòng của Trung úy Marquette. Qua lớp cửa kính ngăn cách, cô thấy Moore đặt cái chai có băng vệ xuống bàn của Marquette. Marquette quay lại, nhìn về phía Rizzoli.

Lại thế rồi. Giờ họ sẽ nói là con chó cái không thể chịu nổi trò đùa ác ý.

Cô chộp lấy ví, thu các tấm ảnh và ra khỏi bộ phận điều tra giết người.

Cô ra đến thang máy thì Moore gọi cô.

- Rizzoli?

- Đừng đấu tranh vô ích vì tôi, được chứ? - Cô hét lên.

- Cô không đấu tranh. Cô chỉ ngồi yên đó với cái… cái thứ vớ vẩn đó.

- Băng vệ sinh. Anh có thể nói từ đó to và rõ ràng được không?

- Tại sao cô lại giận tôi? Tôi đang cố đấu tranh cho cô thôi mà.

- Nghe này, vị thánh Thomas, đây chính là cách mọi việc xảy ra ở thế giới thật với phụ nữ. Nếu tôi than phiền thì tôi sẽ bị châm biếm. Một ghi chú sẽ được điền vào bản nhận xét về bản thân tôi. Không hòa đồng với đồng nghiệp nam. Nếu tôi phàn nàn thêm lần nữa thì danh tiếng của tôi chấm hết. Rizzoli kẻ than vãn. Rizzoli kẻ lắm mồm!

- Cô sẽ để bọn họ thắng nếu cô không lên tiếng.

- Tôi đã cố làm theo cách của anh. Nó không có tác dụng. Vì vậy đừng giúp đỡ tôi, được chứ? - Cô vắt túi lên vai, bước vào thang máy.

Khi cánh cửa đóng lại giữa họ, cô muốn rút lại những lời đó. Moore không đáng bị xỉ vả như vậy. Anh luôn là người đàn ông lịch sự, nhã nhặn. Và trong lúc bực tức, cô đã ném biệt danh mà cả bộ phận điều tra các vụ giết người đặt cho anh: thánh Thomas. Anh là một cảnh sát không bao giờ quá trớn, không chửi thề, không mất bình tĩnh.

Và rồi đời tư của anh có những chuyện buồn. Cách đây hai năm, vợ anh, Mary đã suy sụp sau một trận xuất huyết não. Trong suốt sáu tháng, cô đã bám trụ lại trong trạng thái hôn mê tăm tối. Nhưng mãi cho đến ngày cô mất, Moore vẫn không chịu từ bỏ hy vọng là cô sẽ tỉnh lại. Ngay cả bây giờ, đã một năm rưỡi sau khi Mary qua đời, dường như anh vẫn không chấp nhận điều đó. Anh vẫn đeo nhẫn cưới, vẫn để ảnh cô trên bàn làm việc. Rizzoli đã chứng kiến nhiều cuộc hôn nhân của cảnh sát đổ vỡ, đã nhìn thấy một phòng trưng bày các bức ảnh thay nhau trên tấm bàn của các bạn đồng nghiệp. Còn trên bàn của Moore, tấm hình của Mary vẫn còn. Nụ cười của cô ấy vẫn còn mãi.

Vị thánh Thomas ư? Rizzoli lắc đầu hoài nghi. Nếu trên thế gian này có những vị thánh thật sự thì chắc chắn họ sẽ không phải là cảnh sát.

Một người muốn ông sống, người kia muốn ông chết và cả hai đều khăng khăng là mình yêu ông hơn. Con trai và con gái Herman Gwadowski ngồi đối diện nhau bên giường cha và không ai chịu đầu hàng.

- Anh không phải là người chịu trách nhiệm chăm sóc bố. - Marylin nói. - Em nấu cơm cho bố. Em dọn nhà cho bố. Em đưa bố đi khám bệnh hàng tháng. Lần cuối anh gặp bố là khi nào? Lúc nào anh chả có việc hay ho hơn để làm?

- Lạy Chúa, anh sống ở Los Angeles. - Ivan cự lại. - Anh còn có công việc của mình.

- Lẽ ra anh có thể bay về mỗi năm một lần. Việc đó khó lắm sao?

- Ồ, thì giờ anh đã về đây.

- Được. Ông Nói To đã bổ nhào về đây để tiết kiệm ngày tháng. Trước đây anh không thèm về thăm bố. Nhưng giờ anh muốn mọi thứ được tiến hành.

- Anh không thể tin là em lại để bố ra đi.

- Em không muốn bố chịu đựng thêm nữa.

- Hoặc em chỉ muốn bố đừng có tốn tài khoản trong ngân hàng.

Mỗi thớ cơ trên mặt Marylin căng lên.

- Anh thật khốn nạn!

Catherine không thể nghe tiếp nữa, cô cắt ngang.

- Đây không phải là nơi bàn bạc chuyện đó. Hai anh chị làm ơn ra khỏi phòng!

Hai anh em im lặng, nhìn nhau với ánh mắt nảy lửa như thể ai là người đầu tiên ra khỏi phòng sẽ là kẻ đầu hàng. Rồi Ivan bước ra, dáng đi dọa dẫm trong bộ com-lê thêu hoa. Em gái anh ta là Marylin, mỗi đường nét đều lộ rõ đây là một bà nội trợ ở thành thị rất mệt mỏi. Cô xiết chặt tay bố, rồi theo anh trai ra ngoài.

Ở hành lang, Catherine báo cho họ tin xấu.

- Bố của anh chị đã bị hôn mê sau vụ tai nạn. Thận của ông ấy hoạt động ngày càng kém. Do bệnh tiểu đường lâu năm, chúng đã bị hư hại nhiều và vụ chấn thương khiến mọi thứ tồi tệ hơn.

- Bao nhiêu trong số đó là do ca mổ? - Ivan hỏi. - Cô đã tiêm cho bố tôi bao nhiêu thuốc gây mê?

Catherine cố nén cơn giận ngày càng tăng, bình tĩnh nói.

- Ông ấy đã bất tỉnh khi nhập viện. Thuốc mê không phải là nguyên nhân. Chính sự hủy hoại các mô đã gây áp lực cho thận và thận của ông ấy đang dần dần ngừng hoạt động. Thêm vào đó, chúng tôi chẩn đoán ông ấy mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Nó đã ăn vào xương. Ngay cả khi ông ấy tỉnh lại thì những vấn đề đó vẫn còn.

- Cô muốn bỏ cuộc phải không? - Ivan hỏi.

- Tôi chỉ muốn anh chị nghĩ lại về tình trạng hôn mê của ông ấy. Nếu tim ông ấy ngừng đập thì chúng tôi sẽ không thể khiến ông ấy tỉnh lại nữa. Chúng tôi chỉ có thể để ông ấy ra đi yên bình.

- Ý cô là chỉ cần để ông chết.

- Đúng vậy.

Ivan khịt mũi.

- Hãy để tôi kể cô nghe về bố tôi. Ông không phải là người bỏ cuộc. Và tôi cũng vậy.

- Vì Chúa, Ivan, đây không phải là vấn đề thắng thua! - Marylin gắt - Mà đây là việc để bố đi khi nào.

- Và cô cũng mong điều đó mau chóng xảy ra đúng không? - Anh ta bực bội, quay lại đối mặt với cô - Khi có dấu hiệu khó khăn đầu tiên, cô em Marylin bé nhỏ đã bỏ cuộc và để bố mình chết. Ồ, bố sẽ không bao giờ bỏ tôi.

Cặp mắt Marylin chứa chan nước mắt.

- Đó không phải là vì bố phải không? Đó là vì anh chỉ muốn chiến thắng thôi phải không?

- Không, đó là để cho bố có cơ hội chiến đấu. - Ivan nhìn Catherine. - Tôi muốn mọi việc được làm vì bố tôi. Tôi chỉ mong điều đó phải thật rõ ràng.

Marylin lau nước mắt trên mặt khi nhìn anh trai bỏ đi.

- Làm sao anh ấy có thể nói là yêu bố trong khi chẳng bao giờ đến thăm ông? - Cô nhìn Catherine. - Tôi không muốn bố tôi tỉnh lại. Cô có thể ghi lại điều đó vào hồ sơ bệnh án không?

Đây là tình thế khó xử về mặt đạo lý mà bác sỹ nào cũng sợ. Mặc dù Catherine đứng về phía Marylin nhưng những lời cuối cùng của anh trai cô có tính đe dọa rõ ràng.

Cô nói.

- Tôi không thể thay đổi mọi việc cho đến khi cô và anh trai cô thống nhất về vấn đề này.

- Anh ấy sẽ không bao giờ đồng ý. Cô đã nghe anh ấy rồi đấy.

- Vậy thì cô phải nói chuyện thêm với anh ấy. Hãy thuyết phục anh ấy!

- Cô sợ anh ấy sẽ kiện cô phải không? Đó là lý do tại sao cô không chịu thay đổi yêu cầu.

- Tôi biết anh ấy tức giận.

Marylin buồn bã gật đầu.

- Đó là cách anh ấy chiến thắng. Anh ấy luôn chiến thắng.

Mình có thể khâu một cơ thể liền lại, Catherine nghĩ. Nhưng mình không thể hàn gắn gia đình đã tan vỡ này.

Nỗi đau và sự xung đột của cuộc gặp mặt đó vẫn bám lấy Catherine khi cô ra khỏi bệnh viện một giờ sau. Đó là chiều thứ sáu và một kỳ nghỉ cuối tuần rảnh rỗi đang chờ cô phía trước. Nhưng khi lái xe ra khỏi bến đỗ của trung tâm y tế, cô không cảm thấy tự do chút nào. Hôm nay thậm chí còn nóng bức hơn hôm qua, nhiệt độ lên tới ba mươi hai độ. Và cô thèm khát sự mát mẻ trong căn hộ của mình, muốn ngồi xuống cùng cốc trà đá rồi bật kênh Khám phá trên ti vi.

Cô đang chờ ở chỗ đường giao nhau để đèn chuyển sang màu xanh thì ánh mắt cô bị thu hút bởi tên phố cắt ngang. Phố Worcester.

Đây là khu phố Elena Ortiz sống. Địa chỉ của nạn nhân đã được nhắc đến trong bài báo trên tờ Quốc tế Boston mà Catherine đã buộc mình phải đọc.

Đèn chuyển màu. Cô bị thôi thúc và lái xe rẽ vào phố Worcester. Trước đây cô chẳng có lý do gì để rẽ vào phố này nhưng có điều gì đó lôi kéo cô về phía đó. Đó chính là mong muốn bệnh hoạn. Cô muốn nhìn thấy chỗ tên sát nhân đã ra tay, muốn nhìn thấy tòa nhà, nơi ác mộng của riêng cô đã biến thành sự thật với một cô gái khác. Tay cô đẫm mồ hôi. Cô cảm thấy mạch mình đập nhanh hơn khi cô nhìn những số nhà bên đường tăng dần.

Khi đến chỗ ở của Elena Ortiz, cô phanh lại.

Dinh thự này chẳng có gì đặc biệt, chẳng có gì gợi cho cô sự sợ hãi và chết chóc. Cô chỉ thấy một tòa nhà ba tầng bằng gạch.

Cô bước ra khỏi xe, nhìn những ô cửa tầng trên. Cửa sổ nào là cửa sổ căn hộ của Elena Ortiz? Cửa sổ có rèm mở chăng? Hay là ô cửa có một rừng chậu cây? Cô đi về phía lối vào, quan sát tên của những người thuê nhà. Có sáu căn hộ, tên người thuê ở căn hộ 2A bỏ trống. Elena đã bị xóa tên, nạn nhân đã bị loại khỏi danh sách những người còn sống. Không ai muốn nhớ về cái chết.

Theo tờ Quốc tế, tên sát nhân đã đột nhập bằng đường thoát hiểm. Quay trở lại vỉa hè, Catherine để ý thấy hàng rào mắt cáo bằng thép ở khu ngõ hẻm của tòa nhà. Cô đi vài bước trong con hẻm tối, rồi đột ngột dừng lại. Tóc gáy cô dựng ngược. Cô quay lại nhìn khu phố và thấy một chiếc xe tải đi qua, một phụ nữ đang chạy bộ, một đôi tình nhân đang vào xe. Chẳng có gì khiến cô cảm thấy bị đe dọa nhưng cô không thể vờ như không có những tiếng kêu im lặng hoảng loạn.

Cô trở lại xe, khóa cửa xe, ngồi bám chặt vô lăng và nói đi nói lại với chính mình.

Chẳng có vấn đề gì cả. Chẳng có vấn đề gì - một luồng khí lạnh phả vào qua bộ phận thông hơi và cô mới thấy mạch mình đập chậm lại một chút. Cuối cùng, cô thở dài và ngả người về sau.

Ánh mắt cô lại hướng về phía căn hộ của Elena Ortiz.

Khi đó, cô mới chú ý một chiếc ô tô đậu trong con hẻm và để ý thấy biển xe đăng ký ở bộ phận hãm phanh phía sau.

POSEY5.

Lập tức, cô lục tung ví, tìm tấm danh thiếp của vị thám tử hôm trước. Tay cô lẩy bẩy bấm số trên máy di động.

Anh nhận điện, trịnh trọng nói.

- Thám tử Moore đây!

- Tôi là Catherine Cordell. - Cô nói. - Mấy hôm trước anh có đến gặp tôi.

- Vâng. Bác sỹ Cordell?

- Elena Ortiz có lái một chiếc ô tô Honda màu xanh lá cây không?

- Xin lỗi?

- Tôi cần biết biển số đăng ký của cô ấy.

- Tôi xin lỗi, tôi không hiểu.

- Hãy nói cho tôi! - Mệnh lệnh chắc nịch của cô làm anh giật mình. Cô im lặng rất lâu trên điện thoại.

- Để tôi xem. - Anh nói. Cô nghe thấy tiếng chuông điện thoại và tiếng nhiều người đàn ông nói chuyện ở đầu kia. Anh trở lại.

- Đó là biển đăng ký ảo… Tôi nghĩ nó có liên quan đến công việc kinh doanh hoa của gia đình.

- POSEY 5. - Cô thầm thì.

Cô dừng lại.

- Đúng thế - Anh nói. Giọng anh đột nhiên trầm xuống và cảnh giác.

- Hôm trước, khi nói chuyện với tôi, anh hỏi tôi có biết Elena Ortiz không.

- Và cô nói là không.

Catherine run rẩy thở hắt ra.

- Tôi nhầm.