Trảm long (Tập 1) - Chương 01 - Phần 4

Cô bước tới xem kỹ tấm gương. Loại gương Bát Quái này đầu đường cuối phố đâu cũng bán, là thứ vật dụng trấn yểm rất phổ biến. Tấm gương này dường như vừa mới đặt cách đây không lâu, không đóng đinh trên xà ngang, mà lại dùng dây đồng treo dưới mái hiên một cách cẩu thả, tấm gương vừa vặn chĩa vào cổng lớn của nhà họ Quách, trông hơi lệch, thực ra là phương hướng cố định được cố ý chỉnh bằng dây đồng.

Lục Kiều Kiều thấy trong nhà có người, liền gọi vọng vào. Một bà già hơn sáu mươi tuổi bước ra.

Lục Kiều Kiều hỏi bà già xem tấm gương này có phải do nhà họ tự treo không, bà già bảo không biết việc này, nhà họ từ trước tới nay chưa hề treo gương.

Hỏi thăm bà ta xong, Lục Kiều Kiều liền bảo An Long Nhi trèo lên gỡ tấm gương xuống.

Lục Kiều Kiều cầm gương trong tay, lật lại xem mặt sau. Ở mặt sau tấm gương có một số vòng tròn nhỏ được vẽ từ những đường cong liên tiếp bằng chu sa màu đỏ sậm, tạo thành chuỗi ký hiệu kỳ quái.

Lục Kiều Kiều nhận ra đây là sát cục phong thủy, được gọi là... Quỷ kính chiếu đường. Cô lập tức ý thức được rằng, có người tinh thông phong thủy đang giết người, vả lại còn xuống tay rất nặng. Bản thân cô không có ân oán gì trong đám giang hồ, không cần thiết phải chuốc việc vào người, nên vội vã quay ra, dắt An Long Nhi rời khỏi phường Giáp Công.

Cuối ngõ phường Giáp Công, có người đàn ông tựa vào gốc cây bạch lan, lấy chiếc mũ cỏ nát che mặt như nằm ngủ, song ánh mắt lạnh buốt lộ ra từ kẽ hở trên mũ lại đang dõi theo bóng Lục Kiều Kiều bỏ đi.

“Giở trò quỷ gì vậy, Quỷ kính chiếu đường, khiến cả thành nghiêng ngả như thế này.” Một giọng trầm đục, cất lên đầy tức tối.

Kẻ nói lời này là một gã đàn ông cao to, nuôi một chòm râu dê dưới cằm, trong mặc áo dài ngoài khoác áo chẽn ngắn, cầm chiếc quạt gấp trong tay, thắt lưng đeo túi, ăn vận kiểu thương nhân. Kỳ thực, hắn chính là Phó sứ Chương Bỉnh Hàm của phủ Quốc sư.

Hắn đứng trên một ngọn đồi, hướng về phía ngôi mộ tọa Nam hướng Bắc, trên bia mộ khắc dòng chữ “Quách công Thủ Thành chi mộ”. Sau lưng có bốn người đàn ông khác cũng ăn vận cùng một kiểu thương nhân.

Chương Bỉnh Hàm nói tiếp: “Đúng là việc công phải làm, thiên hạ phải giữ, song các ngươi làm kín kín một chút không được à? Dùng gì không dùng, lại dùng sát cục Quỷ kính chiếu đường, khiến người ta nổi điên lên? Hử?”

Trong số bốn kẻ bị mắng, có một kẻ trả lời: “Giờ là tháng Bảy, dùng Quỷ Kim Dương thoái thần chiếu sát của tháng trước thì hiệu nghiệm rất nhanh... ngài cũng đâu có nói phải dùng sát cục gì...”

Chưa nói hết câu, Chương Bỉnh Hàm chẳng thèm ngoảnh đầu, trở tay tát thẳng vào mặt tên vừa trả lời đánh “bốp” một tiếng.

Hắn phồng mồm trợn mắt quay lại, đối diện với tên kia, nói mà nước bọt bắn phèo phèo vào mặt đối phương: “Bốn hộ họ Quách ở trấn Bảo Điền, phát điên giết nhau trong tiệc đầy tháng, làm cả trấn rúng động, hai anh em họ Quách làm ăn trong thành, giết người như hóa dại, máu me lênh láng, kinh động toàn thành. Giờ dẹp sạch dưới quê, dẹp sạch trong thành, có muốn ta dẹp luôn cả đầu mày không hả?”

Chương Bỉnh Hàm khua tay vạch một nhát lên cổ tên kia, khiến hắn khiếp vía, run bần bật.

Tất cả im lặng phăng phắc. Một lúc sau, Chương Bỉnh Hàm mới sa sầm nét mặt nói với bốn tên kia: “Vụ việc lần này, ta đã thu xếp chỗ quan phủ rồi. Từ rày trở đi dùng cách gì cũng phải thông qua cửa của ta đã!”

Nói đoạn phẩy mạnh ống tay áo, quay người xuống núi. Bốn tên bị chửi vâng vâng dạ dạ bám theo sau. Chương Bỉnh Hàm đột ngột quay phắt lại, lớn tiếng quát chúng: “Đi theo ta làm gì? Gỡ cái gương Quỷ kính chiếu đường mang đi ngay, đừng để dân chúng nhặt được lại làm tin đồn lan đi khắp nơi, khốn nạn! Toàn một lũ khốn nạn! Quanh đồi đâu cũng thấy mả...”

Tối đến, Lục Kiều Kiều vẫn nằm trên giường trúc bên giếng trời hút thuốc, giờ đã có An Long Nhi rót trà châm thuốc, cô càng hút càng đậm đà. Thuốc phiện có mùi hương rất đượm, loại thuốc Vân Nam Lục Kiều Kiều hút lại là loại thượng phẩm trong nước, mùi vị càng xa càng rịn, nếu không có mùi thuốc đậm đặc hơn từ quán Vạn Hoa bên cạnh, mấy hộ xung quanh chắc chắn sẽ biết Lục Kiều Kiều tối nào cũng hút đã thuốc phiện trong nhà.

Cô nói nhát gừng với An Long Nhi: “Quỷ kính chiếu đường là thứ tà môn trong phong thủy Thiên Tinh. Thuật phong thủy vốn dĩ cũng giống như tiền, không phân tốt xấu, chỉ xem xem mình dùng nó vào việc chính hay việc tà.”

An Long Nhi đến ở với Lục Kiều Kiều mấy hôm, ngày nào cũng gặp những điều mới lạ, Lục Kiều Kiều nói với thằng bé câu gì, nó đều cố gắng ghi nhớ.

“Những hình vẽ ở mặt sau tấm gương là bùa chú Quỷ Kim Dương, trên trời có nhị thập bát tú, Quỷ Kim Dương là một tinh tú trong số đó, là chủ tinh của tháng trước. Giờ mày chưa hiểu, sau rồi sẽ hiểu.” Lục Kiều Kiều nói với giọng trễ nải, khiến An Long Nhi cảm thấy rất dễ chịu.

“Chỉ treo gương không thôi cũng chẳng có tác dụng gì, song mặt sau lại dùng chu sa vẽ bùa chú thì nguy hại lắm...”

An Long Nhi lắng tai nghe, không nói một lời.

“Vả lại...” Đang giảng giải, Lục Kiều Kiều chợt chống người dậy, buông thõng một câu “Xem có còn rượu không, rót cho cô một chén...” đoạn lại đổ kềnh xuống giường.

“Vả lại cái gương này được đặt vào vị trí dữ nhất trong tháng này, ấy là vị Quỷ Kim Dương hướng Tây Nam. Bùa và gương, phương vị và thời giờ phối hợp chuẩn xác, cùng lúc phát ra hung lực rút khí, vậy nên trong phút chốc Quách đại nhân đã mất mạng.”

An Long Nhi rót cho Lục Kiều Kiều một chén rượu cao lương, còn bày lên một đĩa mì rán dầu với tai lợn kiểu Quảng Châu.

“Có điều...có điều cũng không nên lấy mạng trẻ con... đến trẻ con cũng không thoát được chứng tỏ mộ tổ bị vỡ rồi, có người muốn Quách đại nhân phải tuyệt tử tuyệt tôn...” Lục Kiều Kiều hút thuốc, uống rượu, mỗi lúc một mơ màng, song miệng vẫn lẩm bẩm nói: “Lại còn cả ông chủ Quách nhảy xuống Châu Giang tự sát nữa... có lẽ là người có cùng mộ tổ... cả họ chết sạch...”

Lục Kiều Kiều nói xong, mơ màng ngủ thiếp đi.

An Long Nhi thấy Lục Kiều Kiều đã ngủ, liền ngồi dưới ánh trăng ngắm khuôn mặt cô một lúc, sau đó thu dọn tẩu thuốc và chén rượu, vào phòng lấy ra một tấm chăn mỏng đắp lên người Lục Kiều Kiều.

Đã đến thời kỳ an toàn của Lục Kiều Kiều, trong cữ thuốc buổi sáng, cô tự bói cho mình một quẻ.

Sống ở đời ai cũng muốn có chút mới mẻ và bất ngờ, có những việc không muốn biết kết quả, dĩ nhiên có thể phó mặc cho trời, đi bước nào hay bước ấy, miễn là có khả năng gánh chịu là được; song cũng có việc muốn biết trước kết quả, bói một quẻ đề phòng bất trắc. Ví như hôm nay, cần phải đảm bảo không chút sơ sảy.

Chiếc cốc chứa mấy đồng tiền đồng kêu leng keng một tiếng, úp xuống trà kỷ, sáu đồng tiền sắp thành quẻ Hàm, Lục Kiều Kiều cười nhạt, nghĩ bụng: Quẻ tượng lợi tiểu nữ nhân, đại nữ nhân bị khắc bất lợi. Mình chỉ là tiểu nữ nhân mà thôi, đại nữ nhân phải chịu thiệt thòi một chút vậy.

Lục Kiều Kiều cài bông hoa màu đỏ nhạt lên đầu, ngồi trong phòng khách vừa bưng chén uống trà, vừa dạy bảo An Long Nhi đang đứng bên cạnh. Trên trà kỷ đặt một chiếc la bàn to cỡ bàn tay.

“Buổi sáng ngủ dậy không cần gánh nước, mày rất may mắn vì trong nhà có cái giếng, song hằng ngày phải bảo đảm trong chum có nước...”

“Sau khi dậy nhớ đun nước, pha nước ấm đợi cô rửa mặt, cô rửa mặt xong thì pha trà cho cô...”

“Uống trà xong cô phải hút thuốc, mày đứng bên cạnh hầu thuốc, rót nước thắp đèn là được, đừng có đi qua đi lại trước mặt cô, hoa mắt...”

“Ngày chẵn thì theo cô ra ngoài kiếm người, ngày lẻ thì mày ở nhà... hôm nay không tính, chốc nữa cô có việc...”

“Ban ngày mày ở nhà, không được ra khỏi cửa, đến trưa tự làm cơm mà ăn, nhưng không được ăn lạp xường trong bếp đâu đấy, chỉ được ăn chay, tối cô về mới được ăn thịt...”

“Lúc cô không có nhà phải quét dọn, đổ bô, giặt quần áo, mà phải đọc hết hòm sách kia nữa... Phải rồi, mày có biết chữ không?”

An Long Nhi đáp: “Đã học hai năm ở trường tư.”

“Nhà mày có tiền gớm, đi học ở trường tư cơ đấy...” Lục Kiều Kiều tiếp tục dặn dò: “Sách trong hòm gỗ kia cứ mỗi tháng phải xem một cuốn, năm ngày kiểm tra một lần, không trả lời được thì ngày hôm đó cắt cơm, bốn hôm sau đó, mỗi ngày chỉ được ăn một bát cơm trắng, không rau không thịt. Nếu ăn vụng, cô sẽ treo ngược mày lên đánh cho một trận rồi báo quan bắt nhốt vào tù...”

“Cuốn sách mỗi tháng đọc xong thì giao lại cho cô, kiểm tra lại một lượt, không đạt yêu cầu sẽ bị treo một ngày, đánh một trận, hai ngày không được ăn cơm...”

An Long Nhi nhớ ra ở góc tường trong gian phòng mé Tây có một hòm sách, thực ra cái hòm không lớn lắm, khiêng ra vừa khéo có thể làm ghế, ngồi được một người.

“Cô Kiều, những chỗ cháu không hiểu có thể hỏi cô không?” An Long Nhi hỏi.

Lục Kiều Kiều đặt chén trà xuống, gắt gỏng đáp: “Chữ nào không biết thì hỏi, nhưng đọc mà không hiểu câu có nghĩa gì thì đừng có làm phiền cô, mày cứ học thuộc lòng, đọc cho cô nghe là được.” Cô cầm cái la bàn trên trà kỷ lên, nói: “Trong hòm có một cuốn gọi là La Kinh giải định, xem xong cuốn đó có thể hiểu được cái la kinh[3] này.”

[3] La bàn phong thủy.

An Long Nhi thấy trên la kinh có mười mấy vòng khắc chữ và ký hiệu chằng chịt, đưa tay ra định đón lấy xem.

Lục Kiều Kiều giật ngay lại, hất hàm bảo An Long Nhi: “Mày chưa dùng được cái này, loại nhỏ này mày chưa đủ tư cách dùng. Trong phòng mé Tây có loại to, mày tự tìm lấy mà xem. Sau một năm, tức là Trung thu sang năm, sẽ kiểm tra về la kinh, nếu vẫn không biết xem, tao lập tức cho mày bán lợn đi Kim Sơn, đời này đừng mong quay lại tỉnh thành nữa...”

Hồi ấy ở Quảng Đông có rất nhiều người bán mình sang nước Mỹ khai phá miền Tây, có người đi đãi vàng, cũng có người đi làm đường sắt, kiểu bán mình đi làm cho Tây gọi là “bán lợn”. Bấy giờ cứ đi Mỹ đều gọi là đi Kim Sơn, các công nhân người Hoa sau khi “bán lợn đi Kim Sơn” gặp muôn vàn khổ nạn, mười phần đến tám chín là một đi không trở về. An Long Nhi không biết thế nào là bán lợn, song nếu cả đời này không được quay trở lại nữa thì chẳng phải việc tốt đẹp gì, thằng bé liền rụt hai tay lại, “vâng” một tiếng.

“Tối cô sẽ dắt mày đi chợ, mày có biết nấu cơm không? Thôi, khỏi cần đáp, biết hay không cũng vẫn phải nấu, bỏ cả đống tiền mua mày về, có tí việc vặt ấy cũng không làm được thì còn làm ăn gì...” Lục Kiều Kiều định ra khỏi nhà, bèn nói với An Long Nhi: “Giờ cô ra ngoài, khi cô về mày phải dọn nhà sạch sẽ rồi đấy!”

“Dạ vâng, thưa cô.” An Long Nhi đã sớm quen với việc bị sai bảo.

Sau khi ra khỏi nhà, cô tiện tay khóa luôn cửa từ phía ngoài. An Long Nhi quả nhiên lục thấy chiếc la kinh lớn trong căn buồng mé Tây. Chiếc la kinh tròn tròn dẹt dẹt, to cỡ vung nồi, trên bề mặt khắc đến ba mươi mấy vòng toàn chữ là chữ, nhiều hơn cái la kinh nhỏ Lục Kiều Kiều cầm trong tay nhiều.

Lục Kiều Kiều hôm nay không đi xem bói cho kỹ nữ, cô xách túi thơm, phe phẩy quạt the tròn, rời phố Bình Khang đi tới bên dòng Châu Giang, rẽ trái là phố lớn phồn hoa toàn những căn nhà kiểu Tây san sát một bên, gọi là Thập Tam Hàng. Cửa hàng cửa hiệu ở Thập Tam Hàng mọc lên như nấm, hằng ngày ngựa xe như nước, người qua kẻ lại tấp nập, các hãng buôn hàng xuất nhập khẩu phía Nam Trung Quốc đều tập trung ở đây, có thể nói là một trung tâm của cải chính cống.

Lục Kiều Kiều bước vào một cửa hiệu không lớn lắm, phía trên cửa có một biển hiệu, đề ba chữ “Ngũ Nhật Phát”.

Cửa hiệu có hai tầng, nhà xây cao, nên bước vào liền cảm thấy mát lạnh. Tầng một kê năm sáu chiếc bàn, ba nhân viên đang bận việc, song lại có vẻ ung dung nhàn hạ, rất không tương thích với không khí nhộn nhạo ngoài đường, một người đang dùng bàn tính, một người đang xem sách, còn có một ông già trông như chưởng quỹ đang tưới nước vào một bồn hoa. Vị chưởng quỹ già thấy Lục Kiều Kiều bước vào cửa, vội cất lời chào: “Lục tiểu thư đến rồi à, công tử đang ở trên lầu đấy.”

Lục Kiều Kiều gật đầu cười nói: “Phiền bác báo cho một tiếng được không ạ?”

Chưởng quỹ già ngẩng đầu gọi: “Ngũ công tử! Ngũ công tử!” Giọng nghe sang sảng.

Từ cầu thang lầu hai, một chàng trai mặc áo sơ mi trắng kiểu Tây bước xuống, trông chừng hơn hai mươi tuổi, vóc người trung bình, mặt mũi trắng trẻo, thoạt nhìn đã biết là con nhà giàu sang sống trong nhung lụa từ nhỏ. Anh ta là cậu chủ của cửa hàng này, tên Ngũ Tuấn Sinh. Để thực hiện nghiệp vụ xuất nhập khẩu, Ngũ Tuấn Sinh đã cùng ông chủ Ngũ Nhật Phát xuất dương hai lần, sau khi quay về nước liền thích mặc trang phục phương Tây. Thời gian ở cửa hàng, anh ta đều lấy danh nghĩa xúc tiến thương mại Hoa - Dương mà mặc bộ âu phục đem từ đế quốc Đại Anh về. Ngũ Tuấn Sinh vừa thấy Lục Kiều Kiều đã mừng ra mặt, vội chạy xuống cầu thang, vừa chạy vừa nói: “Lục tiểu thư đến rồi đấy à, dạo này làm ăn khá chứ?”

Lục Kiều Kiều mỉm cười, khẽ gật đầu đáp lời một cách rất tình tứ: “Chào công tử, nhờ phúc của công tử cả.”

“Xin mời Lục tiểu thư lên lầu bàn chuyện được không?” Ngũ Tuấn Sinh vồn vã nói.

Ngũ Tuấn Sinh lên lầu, bước vào một căn phòng. Ngũ Tuấn Sinh lập tức theo sau, đưa tay khóa cửa lại, tay kia đột nhiên ôm lấy eo Lục Kiều Kiều, quay người lại ghì Lục Kiều Kiều lên cửa.

“Kiều Kiều ơi, nhớ em chết mất, sao mãi chẳng thấy qua đây...” Ngũ Tuấn Sinh vừa thấp giọng thầm thì, vừa áp đầu vào cổ Lục Kiều Kiều, ra sức hít hà mùi hương trên cơ thể cô.

Lục Kiều Kiều ngoan ngoãn thả lỏng cơ thể, nghiêng đầu sang một bên, nhắm nghiền mắt, hổn hển “vâng” một tiếng thật dài đáp lại.

Ngũ Tuấn Sinh một tay vén vạt áo the màu lục dài tới gối của Lục Kiều Kiều lên, luồn vào lưng cô từ phía sau, sờ lên tấm lưng mịn màng, sau đó siết chặt lấy eo cô, khiến ngực cô áp chặt vào mình. Ngực Lục Kiều Kiều bị ép chặt, bất giác “ư” lên một tiếng. Tay kia của Ngũ Tuấn Sinh khe khẽ nâng đầu cô, định hôn lên đôi môi đang hé mở.

Lục Kiều Kiều mím chặt môi lại, quay mặt sang một bên, đưa mắt lườm Ngũ Tuấn Sinh: “Nhẹ nhàng một chút, quần áo mà rách em không ra khỏi cửa này được đâu. Buông tay ra đã nào...”

Từ tầng hai của cửa hàng Ngũ Nhật Phát có thể trông thấy đảo Sa Diện ở phía đối diện, đảo Sa Diện là cồn đất nhỏ trên dòng Châu Giang, sau này nơi đây sẽ trở thành tô giới của Anh Pháp. Cầu thang đi lên tầng hai có một hành lang, bên hành lang có ba căn phòng, đều là nơi ông chủ làm việc và nghỉ ngơi, ngày thường thương khách giao dịch và đàm phán dưới tầng một, chỉ có những khách quan trọng mới được tiếp đãi trên tầng hai. Căn phòng đầu tiên nhìn ra sông, là phòng sổ sách của ông chủ, có nhiều đồ gỗ được chạm trổ tinh tế, ngoài bàn làm việc lớn kê giữa phòng, góc tường còn có một chiếc giường lớn làm bằng gỗ trắc bóng loáng, làm chỗ hút thuốc phiện.

Hai cơ thể lõa lồ cuộn lấy nhau trên giường.

Cơ thể Lục Kiều Kiều nhỏ nhắn nhưng đẫy đà, toàn thân nhấp nhô như những đợt sóng, miệng khẽ kêu: “Nhẹ thôi... chậm thôi...” Ánh nắng rọi qua lớp cửa sổ pha lê sặc sỡ, đổ nghiêng lên người cô, lấp lánh theo từng nhịp rung của cơ thể.

Cơ thể được lấp đầy như sắp nở tung, từng tấc da thịt đều được một cơ thể khác bọc chặt lại, có vậy mới khiến cô có chút cảm giác an toàn, vững chắc, chỉ cần nhắm mắt lại, mọi việc dường như chưa từng xảy ra...

Bất kể Lục Kiều Kiều nằm sấp hay nằm nghiêng, hai tay cô đều ôm chặt lấy thân mình, không thể để cơ thể tổn thương thêm nữa, để linh hồn và xác thịt của cô vĩnh viễn rời xa nơi đó trong nhịp va chạm...

Lục Kiều Kiều nằm nghiêng trên giường, từ vai đến eo, từ hông đến gót, nối liền tạo thành một đường cong tuyệt mỹ. Người cô quấn một tấm khăn lụa hoa màu đỏ sậm, đây là món quà Ngũ Tuấn Sinh mang từ kinh thành về cho cô.

Lục Kiều Kiều hút thuốc, lặng lẽ nhắm nghiền mắt lại. Ngũ Tuấn Sinh áp vào người cô từ phía sau, dùng chân kẹp lấy chân cô, hôn lên cổ và tóc cô, bàn tay chậm rãi lướt trên vai, trên cổ, ngực và bụng cô.

Con tim Lục Kiều Kiều đang bay đến một nơi khác. Mở cửa sổ nhìn ra, con sông đó đẹp như dòng Châu Giang, cồn đất giữa con sông ấy cũng giống đảo Sa Diện, lặng lẽ nằm ở ven bờ... Ở đó có tòa nhà trên cồn đất, cũng như nơi này, có thể ngắm dòng sông trôi xa tít tắp đến chân trời, có bóng cò trắng bay từ đằng xa lại, có hai con người...

Phong nguyệt vô biên, phong nguyệt lâu... Bạch lộ lưu tinh, bạch lộ châu...” Lục Kiều Kiều bất giác ngân nga.

“Gì cơ?” Ngũ Tuấn Sinh không nghe rõ.

“Vợ anh dạo này có tới đây không?” Giọng nói nhỏ nhẹ, hổn hển, ngân dài. Lục Kiều Kiều không định trả lời Ngũ Tuấn Sinh.

“Thường thì không đến, chỉ có mồng một, ngày rằm mới tới so sổ sách thôi. Bố anh đi Thượng Hải rồi, việc nhà đều do cô ấy cai quản.” Ngũ Tuấn Sinh như đứa trẻ ngoan, tồng tộc kể tuốt cho Lục Kiều Kiều. Câu trả lời này đã nằm trong suy đoán của Lục Kiều Kiều, cô chẳng qua hỏi bừa một câu để chuyển chủ đề mà thôi.

Tay Ngũ Tuấn Sinh mon men lần đến mé trong đùi Lục Kiều Kiều. Tay của người đàn ông này rất nhỏ và mịn, điều Lục Kiều Kiều thích hơn nữa là, anh ta vừa dịu dàng lại vừa biết nghe lời, giống như kỹ nữ, sau khi xong việc cũng không lăn ra ngủ ngay, anh ta có thể khiến phụ nữ cảm thấy khoan khoái tự đáy lòng.

“Kiều Kiều, lấy anh đi. Vợ anh đến giờ vẫn chưa có con, để anh bảo với bố, ông ấy chắc chắn sẽ đồng ý việc của mình.”

Ngũ Tuấn Sinh là người chân thành. Ngay từ lần đầu tiên gặp Lục Kiều Kiều, sắc đẹp của cô, cơ thể của cô, và cả thái độ hững hờ của cô đều khiến Ngũ Tuấn Sinh hồn xiêu phách lạc. Nếu Lục Kiều Kiều đồng ý, anh ta thậm chí có thể cho cô danh phận bình thê, rước Lục Kiều Kiều qua cửa vào nhà mình.

Theo luật lệ Đại Thanh, người thiếp phải hầu hạ và phục tùng chính thê, sau khi chết bài vị không được xếp vào từ đường của họ tộc, con cái đẻ ra đều chỉ là “dòng thứ”, không được tiếp quản tài sản của gia tộc. Địa vị của bình thê cao hơn thiếp, mọi đãi ngộ đều có thể ngang hàng với chính thê, con cái sinh ra cũng được coi là “dòng đích”, có thể trở thành người thừa kế chính thức. Trong kết cấu gia đình “năm thê bảy thiếp”, ngoài chính thê ra, bốn vị trí có địa vị còn lại chính là của bình thê.

Lục Kiều Kiều trợn mắt thất thần, sau đó nhắm lại. Nếu muốn lấy người đàn ông này, cô có còn làm chuyện mèo mả gà đồng với anh ta ở đây nữa không? Một trong những nguyên nhân cô thích người đàn ông này là bởi anh ta đã có vợ.

Ngũ Tuấn Sinh thấy Lục Kiều Kiều không phản ứng, liền đưa tay lên sờ chiếc cằm nhọn của cô, đoạn nói: “Mấy bữa nữa anh sẽ đi Phật Sơn một chuyến, em đi cùng anh nhé? Chúng ta có thể ở bên nhau vài hôm.”

Lục Kiều Kiều nói: “Xa quá... mệt... không đi đâu... khi anh về cầm cho em hai chiếc bánh Mang Công...”

“Nhà em ở đâu? Anh có thể đến thăm em không? Lần nào cũng để em đến đây, anh sợ em mệt.” Ngũ Tuấn Sinh hỏi dò.

“Hơ hơ...” Lục Kiều Kiều cười nhạt, rít một hơi thuốc thật sâu, đợi đã nghiền, mới trả lời: “Anh đừng nằm mơ nữa, người ta là khuê nữ nhà gia thế, lẽ nào còn phải nằm sẵn trên giường đợi anh đến chơi sao?”

Lục Kiều Kiều biết Ngũ Tuấn Sinh lo lắng, khẽ vỗ mấy cái lên bàn tay đang sờ soạng bầu vú mình, đoạn nói tiếp: “Một thời gian nữa em lại đến, anh yên tâm, không có chuyện gì đâu.”

Ngũ Tuấn Sinh không phải lo lắng không đâu. Theo luật lệ Đại Thanh, “phàm đôi bên thông dâm, đánh tám mươi trượng; kẻ có vợ chồng, đánh chín mươi trượng, dụ dỗ gian dâm, đánh một trăm trượng”. Cũng tức là, nếu trước khi kết hôn mà có quan hệ tình dục, bị người phát giác báo quan sẽ bị đánh tám mươi roi, đôi bên đều có vợ, có chồng mà nảy sinh quan hệ tình dục bên ngoài, sẽ bị đánh chín mươi roi; một bên đơn thân, và một bên đã kết hôn thì nghiêm trọng nhất, phải chịu đánh một trăm roi. Với sức chịu đựng của một người bình thường, đừng nói tám mươi trượng, chỉ cần đánh thật ba đến năm trượng là đã bất tỉnh rồi. Dĩ nhiên, trả một ít bạc, phía nha môn có thể “đánh vờ”. Song phiền phức nhất là từ đó về sau phải mang tội danh trên người, cả đời không ngẩng mặt nhìn ai được. Đối với thương gia chân chính như Ngũ Tuấn Sinh, danh dự tương đương với tiền bạc và địa vị, nếu tới kỹ viện có biển hiệu kinh doanh, chơi kỹ nữ rồi nộp thuế, đó là việc thiên kinh địa nghĩa. Song nếu việc với Lục Kiều Kiều bị moi ra, hậu quả sẽ rất nghiêm trọng.

Nếu Lục Kiều Kiều bằng lòng nhận bạc của Ngũ Tuấn Sinh, sau khi hành sự xong có thể coi Lục Kiều Kiều là hạng gái bao, toàn bộ trách nhiệm có thể đổ lên đầu Lục Kiều Kiều. Vấn đề là Lục Kiều Kiều trước nay chưa từng nhận tiền, chỉ lấy chút quà mọn, còn Ngũ Tuấn Sinh lại không sao dứt được diễm phúc trên trời rơi xuống này, bên cạnh niềm sung sướng còn có áp lực tâm lý.

Song thứ Lục Kiều Kiều muốn là... chơi với lửa.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3

Sách giảm giá tới 50%: Xem ngay