Chiếc Lexus và cây Ô Liu - Phần II - Chương 08 - Phần 1

Phần II: Kết nối vào hệ thống

8. Hệ điều hành DOScapital 6.0

"Anh mang bao nhiêu tiền trong người?” Một nhân viên hải quan Albania tại sân bay Tirana, quát hỏi tôi bằng giọng của một cảnh sát, khi tôi đang trên đường ra máy bay rời nước này. Vừa nghe thấy như vậy tôi có cảm giác rợn người – nhiều khả năng tôi sẽ bị tịch thu mất hết tiền.

“Tôi có ba nghìn năm trăm đô-la”, tôi đáp, đập nhẹ tay vào ví đeo trước bụng.

“Ba nghìn năm trăm đô-la?”, cô ngày thốt lên, mắt sáng rực. “Anh này có ba nghìn năm trăm đô-la”, cô nói với một nam đồng nghiệp đứng bên cạnh đang theo dõi máy X-quang chiếu hành lý.

“Anh từ đâu đến?” Anh này hỏi, dường như tính toán xem tôi có dễ bị bắt nạt không và xác định rõ tôi không phải là một nhà ngoại giao. Tôi nói với anh ta tôi là một ký giả của báo The New York Times. “New York Times?” Nam nhân viên này lặp lại, rồi vẫy tay, “để cho anh ta đi”.

Ai có thể ngờ rằng tờ The New York Times lại có ảnh hưởng như vậy ở Tirana! Tôi chạy vội tới máy bay. Tôi có lý do để lo lắng. Tôi đã trải qua những chuyện tương tự như thế này ở Iran – ở một quốc gia trong đó pháp quyền không hẳn là kim chỉ nam. Chỉ có điều ở đó mọi việc đã không kết thúc tốt đẹp như ở đây. Vụ đó bắt đầu cũng tương tự, tại sân bay quốc tế Teheran, khi tôi đi qua hàng rào kiểm soát của hải quan lúc bốn giờ sáng. Một nhân viên hải quan ra lệnh cho tôi mở va-li và trình tờ khai hải quan. Trên đó có một dòng hỏi số tiền mang theo người là bao nhiêu và tôi đã khai chính xác là ba nghìn ba trăm đô-la. Do thẻ tín dụng chưa được chấp nhận ở Iran, nên tôi phải mang theo nhiều tiền mặt. Nhân viên hải quan Iran gầy gò có ria mép này kiểm tra tờ khai và nói với tôi với vẻ mặt rất tham lam, “Thưa ông, ông chỉ được phép mang năm trăm đô-la theo người khi xuất cảnh thôi”.

“Ôi, làm sao bây giờ”, tôi nói.

Nhân viên này vươn người tới và nói thầm vào tai tôi, “Trả cho tôi ba trăm đô-la, tôi sẽ giúp”. Có một hàng người xếp hàng sau lưng tôi đang quan sát – chắc chắn là họ biết rõ những gì đang xảy ra. Tôi mở ví, rút ra ba tờ một trăm đô-la và vo tròn chúng lại trong tay.

“Hãy cẩn thận”, nhân viên hải quan này nói thầm – cứ làm như là những người xếp hàng đằng sau tôi sẽ đi trình báo vậy. Rồi hai chúng tôi làm ra vẻ lục lọi trong va-li, và trong chớp mắt, anh này cướp món ba trăm đô-la khỏi tay tôi. Mọi việc nhanh như chớp – chắc phải tua thật chậm thì mới có thể nhìn thấy được. Rồi nhân viên nọ đưa cho tôi một mẫu khai mới, nói tôi khai lại, viết vào đó là tôi mang có năm trăm đô-la theo người. Nhưng thế chưa phải đã xong. Khi lên gần tới cửa ra máy bay, lại một cuộc khám người nữa. Bước vào một buồng nhỏ, một nhân viên khác nói tôi mở ví ra để khám. Tôi hoảng quá, “Làm thế nào giải thích khoản ba nghìn đô-la bây giờ? Hay là gào lên, “Này, tôi đã đút lót cho đồng nghiệp của anh ở dưới kia rồi, giờ thì biến đi!” May quá, tay này nhìn vào khoản tiền của tôi, nói gì đó bằng tiếng Farsi và cho tôi qua.

Du khách dày dạn kinh nghiệm trên thế giới sẽ hiểu những điều tôi trải qua ở Albania và Iran chỉ là chuyện thường ngày. Ai cũng gặp phải những phiên bản của hiện tượng có thể gọi là “Nạn vòi tiền”. Hiện tượng này vượt trên những hình thức đút lót và tham nhũng mà người ta có lẽ thường gặp ở các nước đang phát triển, và ở mức độ thấp hơn, cả các nước phát triển. “Nạn vòi tiền” xảy ra khi tất cả những chức năng của nhà nước – từ hệ thống thuế tới hải quan và luật tư hữu hóa – trở nên tham nhũng tràn lan; và những giao dịch hợp pháp không còn là tiêu chuẩn, mà chỉ là ngoại lệ. Một bình thường mà ai cũng phải chịu đựng đó là các viên chức ở mọi cấp dùng quyền lực của họ để vòi tiền của dân chúng, các nhà đầu tư và của bản thân nhà nước. Ngược lại, dân chúng và các nhà đầu tư sẽ tin rằng để đạt được một phê chuẩn hay hưởng một dịch vụ nào đó, họ phải đút lót cho hết thảy các cửa liên quan.

Có nước đã phải chịu đựng “nạn vòi tiền” nghiêm trọng – nơi nhà nước được dựng lên từ những vụ trộm cắp, như Nigeria chẳng hạn – cho tới loại có “nạn vòi tiền” mới nảy nở, nơi tham nhũng tràn lan và ai ai cũng phải chịu, mặc dù cũng có những yếu tố về luật pháp và dân chủ tồn tại song song, như Ấn Độ chẳng hạn. Sự khác biệt giữa hai hình thái vòi tiền loại nghiêm trọng và loại chớm nở được minh họa một cách tốt nhất bằng câu chuyện cười được kể ở Ngân hàng Thế giới, về hai ông Bộ trưởng Bộ Xây dựng hạ tầng cơ sở, người Á châu và Phi châu, sang thăm đất nước của nhau. Đầu tiên Bộ trưởng người châu Phi sang thăm đất nước của Bộ trưởng Á châu và được ông này mời về nhà ăn tối. Bộ trưởng Á châu sống ở một biệt thự tuyệt đẹp như một cung điện. Ông Phi châu hỏi ông Á châu, “Làm sao ông mua nổi dinh thự này với mức lương của ông?” Ông Á châu mời khách đi đến một khung cửa sổ, chỉ cho khách thấy một chiếc cầu đằng xa và nói: “Ông thấy cây cầu đó không?” “Có, tôi thấy rồi”, ông Phi châu đáp lại. Và Bộ trưởng người Á châu chỉ vào ngực mình, nói thầm thì: “mười phần trăm”, ý nói mười phần trăm chi phí cho cây cầu đã vào túi ông ta. Một năm sau đến lượt Bộ trưởng Á châu sang thăm bạn mình ở một nước châu Phi và thấy dinh thự của bạn đẹp hơn của ông nhiều lắm. “Làm sao ông có thể sắm nổi dinh thự như thế này, với mức lương của mình?” Bộ trưởng châu Á hỏi bạn. Người bạn Phi châu đưa ông ta ra một cửa sổ, nhìn về phía chân trời và nói, “Ông có thấy cây cầu đằng kia không?” Bộ trưởng Á châu đáp: “Không thấy cầu nào đâu?” “Chính thế”, Bộ trưởng người Phi châu nói, chỉ vào ngực mình, “một trăm phần trăm”.

Những dấu hiệu cụ thể nào được dùng để phân biệt mức vòi tiền nghiêm trọng, toàn diện với mức chớm nở? Sau đây tôi sẽ giới thiệu chúng dựa trên những dữ liệu tôi đã sưu tầm sau nhiều năm:

Nạn vòi tiền xuất hiện ở Moskva trong năm 1995 (và 1996, 1997, 1998, 1999!), khi tội phạm lan tràn trên đường phố sau khi Liên Xô sụp đổ. Ngay sau khi nhận phòng khách sạn Penta ở trung tâm Moskva, tôi mang tiền xuống và hỏi nhân viên tiếp tân cho tôi thuê hộp két an toàn để giữ tiền. Tôi không dại gì mà mang theo nhiều tiền mặt trong người khi đi lại trong thành phố.

“Xin lỗi”, nhân viên này nói. “Không còn hộp két nào trống cả. Và có một danh sách xếp hàng chờ để thuê két sắt. Ông có muốn thì ghi tên?”

Tôi đã phải cười phá lên. Một danh sách xếp hàng, chờ được dùng két sắt giữ tiền? Nó giống như câu chọc cười trong một chuyện hài hước nhạt: “Làm thế nào biết được bạn đang ở một thành phố nguy hiểm? Trả lời: khi những két sắt giữ tiền của khách sạn không còn chỗ trống”. Chính vì thế mà một nhà đầu tư nước ngoài vừa mua trái phiếu của một nhà băng Nga tôi gặp ở Moskva, đã tả cho tôi là trong nhà băng đó số nhân viên an ninh nhiều hơn số nhân viên làm nghiệp vụ ngân hàng. Ông ta kể với tôi rằng một chuỗi nhà hàng phương Tây vừa cử một nhóm kiểm toán viên để xem xét tại sao chi nhánh của họ ở Moskva làm ăn rất vất vả nhưng không thấy lãi là mấy. Nhóm này báo cáo là hầu như bất cứ nhân viên nào trong chi nhánh đó đều dính dáng tới tệ ăn cắp vặt – đầu bếp ăn cắp bánh kẹp thịt còn quản đốc thì đòi tiền hoa hồng.

Nạn vòi tiền ở Albania cho thấy vào năm 1997, nạn trốn thuế lan tràn tới mức một chi nhánh bánh pizza, liên doanh giữa Albania và Mỹ đứng thứ ba mươi lăm trong những công ty đóng thuế cao nhất. Cũng ở Albania, trộm cắp hoành hành tới mức các viên chức Hoa Kỳ đóng ở đó đánh giá là khoảng tám mươi phần trăm xe hơi đi trên đường là hàng ăn cắp, đâu đó từ châu Âu. Nạn vòi tiền thể hiện ở sự tham nhũng tràn lan ở Nga, thâm nhập vào tận các quan chức cao cấp ở Kremlin đến mức xuất hiện một chuyện vui của người Nga. Chuyện rằng có một người đi một chiếc xe mới coóng, đến đậu ở cổng Spassky, lối vào điện Kremlin, trong Quảng trường Đỏ. Một tay cảnh sát đi đến và nói với người đó: “Này đừng có đậu xe ở đây. Đây là cổng chỉ dành cho các vị lãnh đạo”. Người này đáp: “Đừng lo. Tôi khóa xe lại rồi”.

Nạn vòi tiền cũng thể hiện trong câu chuyện một người bạn ở Indonesia kể cho tôi; anh này sống ở đó trong thời kỳ đầy tham nhũng – đất nước lúc đó do gia đình ông Suharto trị vì. Anh này là một phóng viên dày dạn kinh nghiệm ở Jakarta, làm việc cho một tờ báo có trụ sở ở Singapore, và hàng năm phải gia hạn giấy tờ thường trú của mình. Tham nhũng ở Indonesia thâm nhập sâu đến mức, anh này nói các viên chức khi nhận đút lót đã trao cho anh hóa đơn. “Thật vậy. Mỗi năm tôi gia hạn giấy tờ thường trú ở Jakarta, và sau khi đút tiền, tôi nhận được một hóa đơn. Nhân viên kế toán trong văn phòng của tôi bao giờ cũng đòi hóa đơn mà. Và viên chức Indonesia đã cấp luôn.” Thành ra ở Indonesia dưới thời Suharto có một câu chuyện ngụ ngôn: Nếu người hàng xóm ăn cắp con dê của bạn thì bạn muốn làm gì thì làm, nhưng đừng có đưa anh ta ra tòa. Vì đến lúc được kiện, trả chi phí thuê cảnh sát và quan tòa, thì bạn đã có thể mất luôn thêm con bò của bạn.

Nạn vòi tiền xuất hiện khi các viên chức và nhân viên hành pháp cho rằng luật lệ không phải dành cho họ. Nayan Chanda, Tổng biên tập tờ Far Eastern Economic Review, một lần kể cho tôi câu chuyện của anh khi sang Trung Quốc: “Ở Bắc Kinh, một lần tôi cùng người phiên dịch của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, một lái xe và một trợ lý của tôi, đi trên đại lộ trung tâm. Khi chúng tôi vào đường cao tốc, thì người lái xe đột ngột quay ngược xe một trăm tám mươi độ, đi thẳng lên phần đường ngược chiều, bóp còi inh ỏi. Chúng tôi đi, cố tránh những xe ngược chiều. Tôi hoảng quá, hỏi người phiên dịch: “Anh ta làm gì vậy?!” Phiên dịch giải thích rằng người lái xe phát hiện một đoạn giao thông tắc nghẽn ở phía trước nên đã quay lại để vòng đường khác. Tôi nhắm mắt, nấp dưới ghế và cầu nguyện để được sống. Quả là còn sống. Nhưng đã thoảng qua tôi một suy nghĩ: Vậy thì những doanh nghiệp nước ngoài đang vào làm ăn tại Trung Quốc thì sao nhỉ? Người Trung Hoa ký hợp đồng với họ, nhận công nghệ từ họ rồi nhỡ lại thay đổi luật pháp, đuổi họ ra thì sao? Liệu những đối tác nước ngoài có sống nổi như thế không”.

Chắc là không, một khi các nhà hành pháp ở Trung Quốc còn tiếp tục nhũng nhiễu. Người đứng đầu chi nhánh của một trong số nhà băng lớn của Canada kể cho tôi vào năm 1997, rằng có một lần nhà băng này chuyển vài ngàn đô-la từ chi nhánh ở Hồng Kông vào lục địa Trung Quốc, phải mất mười tám ngày thì tiền mới tới vào tài khoản và được phép sử dụng. “Chúng tôi nghĩ rằng có một nguyên nhân”, viên chức này nói, khi ăn trưa với tôi ở Thượng Hải. “Có ai đó ở Ngân hàng Trung ương chiếm giữ số tiền đó, dùng chúng quay vòng ở thị trường chứng khoán Thượng Hải suốt mười bảy ngày rồi đem trả lại vào ngày thứ mười tám”.

Nạn vòi tiền thể hiện ở con số hàng tỷ đô-la thu nhập từ các chương trình tư hữu hóa tham nhũng ở một loạt các nước Đông Âu và Nga, nơi những nhóm nhỏ thượng lưu, quan hệ chặt chẽ với giới mafia và các viên chức chính phủ, đã vào chiếm quyền sở hữu các nhà máy quốc doanh cũ và những nguồn tài nguyên, chi trả cho chúng dưới mức thị trường, và bỗng chốc trở thành những tỉ phú. Giá địa ốc ở Paris, Tel Aviv đến London đều bị kích lên do những nhân vật thượng lưu đó, hay những kẻ lừa đảo cỡ lớn khác, lao vào mua. Họ phân tán tài sản mới chiếm giữ của họ ra khỏi đất nước với tốc độ chóng mặt. Ở Mỹ, khi còn là một thị trường mới nổi, cũng có những vị lãnh chúa kiểu như ở nước Nga ngày nay. Nhưng những lãnh chúa ở Mỹ lúc đó đã chỉ đem tiền đầu tư vào thị trường chứng khoán và địa ốc trong nước. Nhưng giờ đây, nhờ có toàn cầu hóa, và khả năng di chuyển vốn tự do, các tay trộm người Nga cũng có thể đem tiền ra khỏi biên giới và đầu tư vào thị trường chứng khoán và địa ốc của Mỹ, bòn rút, làm đất nước của họ tiếp tục nghèo đi.

Thi thoảng, nạn vòi tiền không đơn thuần chỉ diễn ra trong việc giới thượng lưu ăn cắp từ đất nước của họ, nó cũng tiêm nhiễm vào những người dân thường, muốn sống yên thân ở đất nước không có tấm lưới bảo hộ an sinh. Một lần đổi chuyến bay từ nội địa sang quốc tế ở sân bay Jakarta, tôi mang túi ra chờ “xe buýt miễn phí trong sân bay”. Khi chiếc xe này đến, chỉ có mỗi mình tôi trên xe. Khi xuống xe, khi tôi bước qua chỗ tài xế, anh này chặn tôi lại và nói: “Thưa ông”, đoạn chỉ vào một tấm biển nhỏ viết nguệch ngoạc rằng giá vé là bốn nghìn chín trăm rupia (tương đương hai đôla lúc đó). Tôi nhún vai và đưa tiền cho anh ta.

Nạn vòi tiền xảy ra cho John Burns, Trưởng phân xã của tờ The New York Times tại New Delhi, vào mùa hè 1998, khi anh ta đến Quốc hội Ấn Độ, cơ quan lập pháp của nước này. Khi chúng tôi ngồi chờ ở hành lang để kiểm tra an ninh, Burns nhìn thấy một cuốn sách trong hiệu sách của Quốc hội nhan đề: Các nhân vật trong Quốc hội Ấn – có tiểu sử và ảnh của tất cả các nhà lập pháp Ấn Độ. Burns quyết định mua một cuốn. “Tôi muốn mua cuốn sách, vậy phải gặp ai bây giờ?” Burns hỏi một nhân viên đứng cạnh quầy sách. “Vào đây ông”, nhân viên này nói, “bảy trăm rupee”. Người này đi lấy sách. Burns hỏi xin một hóa đơn thì người này nói: “Chúng tôi đóng cửa buổi trưa và vừa rồi là “giao dịch ngoài giờ” – nghĩa là không có biên lai. Người đó trao sách cho Burns và đút túi số tiền. Tôi thấy điều đó thật nực cười, đút tiền ngay ngoài hành lang của cơ quan lập pháp của Ấn Độ để kiếm một cuốn sách về các nhà lập pháp.

Tôi cho rằng điều đó giải thích cho việc tờ báo Times of India số ra ngày 16/12/1998 đăng tải cuộc tìm kiếm ở bang Punjab, nơi tham nhũng chồng chéo, kéo dài mười tám tháng, đã bị đình chỉ. Mục tiêu của cuộc tìm kiếm là một điển hình quan chức chính phủ trung thực; giải thưởng là một trăm nghìn rupee [hai nghìn ba trăm tám mươi đô-la]. Họ không tìm ra một người như vậy trong một bang mà tất cả các dịch vụ từ việc mắc điện cho tới đăng ký nhập học ở trường quốc lập đều phải có tiền lót tay. Thay vào đó, tờ báo cho biết rằng sau cuộc tìm kiếm, họ nắm được bằng chứng để đưa ba trăm công chức ra tòa.

Tất cả những hiện tượng kể trên liên quan ra sao tới toàn cầu hóa? Tôi xin dùng một số thuật ngữ đơn giản của vi tính để giải đáp. Tôi thích so sánh một đất nước với ba phần của một máy vi tính. Trước hết là phần cứng – đây là chiếc vỏ bao bọc bên ngoài nền kinh tế của bạn. Vào thời Chiến tranh Lạnh có ba loại vỏ bọc cơ bản – thị trường tự do, cộng sản và một loại lai ghép thị trường tự do lẫn cộng sản.

Phần thứ hai là “hệ điều hành”. Tôi so sánh phần này với những chính sách kinh tế vĩ mô của bất cứ nước nào. Trong các nước cộng sản hệ điều hành kinh tế mang tính tập trung, được chỉ đạo từ trung ương – không có thị trường tự do – và chính phủ đứng ra trực tiếp cung ứng vốn. Tôi xin gọi hệ điều hành của kinh tế cộng sản là DOScapital 0.0.

Trong những nước có sự lai ghép, hệ điều hành bao gồm các thành phần chủ nghĩa xã hội, thị trường tự do, kinh tế do nhà nước điều tiết và chủ nghĩa tư bản bè phái, trong đó các viên chức chính phủ, các doanh nghiệp và ngân hàng móc ngoặc với nhau. Tôi xin gọi chúng bằng các nhãn hiệu DOScapital 1.0 đến 4.0, tùy vào mức độ can thiệp của chính phủ và mức tinh vi của các nền kinh tế. Chẳng hạn Hungary có mức DOScapital 1.0, Trung Quốc là 1.0 ở vùng sâu trong nội địa và 4.0 ở Thượng Hải, Thái Lan mức 3.0, Indonesia 3.0 và Hàn Quốc là 4.0.

Sau cùng là các hệ thống tư bản công nghiệp lớn. Một số trong đó duy trì hệ điều hành dựa trên thị trường tự do nhưng vẫn duy trì một bộ phận phúc lợi xã hội đáng kể. Nhóm này bao gồm Pháp, Đức và Nhật Bản và tôi gọi họ là DOScapital 5.0. Những nơi khác như Hoa Kỳ, Hồng Kông, Đài Loan và Vương quốc Anh đã giải phóng các nền kinh tế của họ, khoác lên mình tấm áo nịt nạm vàng. Họ ở mức DOScapital 6.0.

Trở lại chiếc máy vi tính, ngoài phần cứng và hệ điều hành, nó có các phần mềm. Đối với quốc gia, đây là tổng hợp tất cả các yếu tố mang tính pháp quyền. Phần mềm ở đây chính là mức đo đếm hiệu lực của các hệ thống luật pháp và quy tắc, về mức độ hiểu biết và thừa hành pháp luật của các viên chức, giới hành chính và các công dân. Một phần mềm tốt thường bao gồm luật ngân hàng, luật thương mại, luật về phá sản, hợp đồng, quy tắc ứng xử trong kinh doanh, một ngân hàng trung ương thực sự độc lập, quyền lợi về sở hữu tài sản, tòa án thương mại, các cơ quan duy trì hành pháp được một hệ thống tư pháp công tâm bảo đảm, các loại luật chống sự xâm phạm vào lợi quyền cá nhân và chống hành vi lạm dụng của các viên chức chính phủ và công dân, giúp họ thừa hành luật một cách nhất quán.

Trong thời Chiến tranh Lạnh đã có cuộc tranh đấu lớn lao để xem phần cứng nào sẽ thống trị thế giới. Người Xô Viết và người Mỹ lúc đó không cần đoái hoài xem mô hình phần cứng của họ hoạt động ra sao ở các nước đồng minh của họ. Họ chỉ muốn các nước đó sử dụng mô hình và nhãn hiệu của họ. Quả nhiên có quốc gia tồn tại rất dài lâu mặc dù đã thừa hành một thứ hệ điều hành tồi tệ và những phần mềm trục trặc, chỉ vì người Mỹ và người Liên Xô nóng lòng muốn tuyển dụng. Họ bao cấp và trực tiếp bảo hành cho các hệ thống của quốc gia đó – miễn là quốc gia đó gắn bó với nhãn hiệu của họ. Hai siêu cường đó đã sống trong lo lắng về điều được gọi là “Học thuyết Domino”, cho rằng nếu một nước tiền đồn thay đổi hệ thống thì các quốc gia lân cận sẽ thay đổi theo hàng loạt.

Cuộc tranh đấu đó đã kết thúc khi hệ thống Chiến tranh Lạnh đổ vỡ. Bỗng nhiên các mô hình khác, và thậm chí các mô hình ghép trở nên không còn được tin dùng. Bỗng nhiên chúng ta ở vào một khoảnh khắc đầy ý nghĩa của lịch sử: Lần đầu tiên hầu như bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng đều sở hữu một mô hình chung – tư bản chủ nghĩa trên nền thị trường tự do. Cuộc chơi đã thay đổi. Các quốc gia không còn phải quyết định lựa chọn mô hình nào nữa, họ chỉ còn phải quyết xem làm thế nào sử dụng mô hình chung – tư bản và thị trường – theo cách tốt nhất.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3